Mặt khác, Phật pháp Đại thừa là xem trọng về tín ngưỡng và phổ thông hóa Phật pháp tại nhân gian, phương diện này có tầm vóc vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển và diễn biến của Phật pháp Đại thừa. Để thích ứng với những căn tính có trí tuệ (prajñā) yếu kém, lòng tin (śraddhā) mạnh mẽ, Phật pháp lập ra pháp môn lục niệm - lục tùy niệm. Nếu gặp phải chuyện sợ hãi, đặc biệt là lúc lâm bệnh nặng, hoặc sắp chết, thì có thể nương vào sáu niệm ấy mà tu hành (nhớ nghĩ) thì tâm không còn sợ sệt nữa. Sáu niệm đó là: niệm Phật; niệm pháp; niệm tăng là nhớ nghĩ (lòng tôn kính) công đức của Tam bảo; niệm giới là nhớ nghĩ giới hạnh thanh tịnh của mình; niệm thí là nhớ nghĩ công đức bố thí thanh tịnh mình đã làm; niệm thiên là nghĩ đến sáu cõi trời dục giới, có được lòng tin, có giới thanh tịnh, có công đức bố thí, nhất định không thể đọa lạc, chắc chắn là sinh lên cõi trời1. Trong pháp môn Đại thừa, nói rộng đến mười phương chư Phật và quốc độ trang nghiêm. Trong nhiều thế giới Phật thì đức A Súc Bệ Phật (Akṣbhya-Buddha) ở thế giới Đông Phương Diệu Hỷ (Abhirati), đức A Di Đà Phật (Amitābha-Buddha) ở thế giới Tây Phương Cực Lạc (Sukhāvatī), nhận được sự tôn trọng đặc biệt của hành giả Đại thừa. Phật pháp lập ra pháp môn sáu niệm là vì những hạng người có lòng tin và hành trì (śraddhānusārin), là vì huệ lực của họ không đủ, sinh tâm sợ đọa lạc, không có lòng tự tin đối với việc tu chứng trong hiện đời. Sự khai triển pháp môn niệm Phật của Đại thừa cũng là đệ tử Phật có tâm hướng đến công đức cao vời của Phật, hạnh nguyện vĩ đại của Bồ tát; nhưng nghĩ đến việc trường kỳ ở trong sinh tử làm lợi ích chúng sinh lại sinh tâm lo sợ đánh mất đi chính mình ở trong ấy. Cho nên dựa vào sức nhớ nghĩ về lòng tin và hạnh nguyện, cầu được vãng sinh Tịnh độ, để được thấy Phật nghe pháp, nhờ đó mà không còn lo sợ đọa lạc nữa. Pháp môn niệm Phật được phát triển một cách rộng rãi, nói rõ hạnh nguyện rộng lớn sâu xa của Bồ tát; hành Bồ tát hạnh cầu thành Phật là hoàn toàn không dễ dàng. Vãng sinh Tịnh độ lại không sợ phải đọa vào đường ác, chính niệm và sáu niệm, đặc biệt là tính cộng thông của ý thức về niệm thiên. Pháp môn niệm Phật của Đại thừa rất nhiều mà lại rộng lớn. Ngoài A Di Đà kinh và A Súc Phật quốc kinh được biên tập vào Bảo tích bộ ra, pháp môn niệm Phật còn có rất nhiều, chủ yếu được biên vào Tập bộ kinh 1, trong Đại chính tạng. Việc niệm nhiều đức Phật như thế với những mục đích sau:
1 Tạp A hàm, quyển 20. Đại chính tạng, quyển 2, trang 143b-144a; quyển 30, (Đ2), trang 218b; Tăng chi bộ, tập 6, Nam truyền, quyển 20, trang 46-52.
Thứ nhất, “vãng sinh Tịnh độ”: Niệm Phật sẽ được vãng sinh vào cõi nước của Phật, có thể thấy được Phật, nghe được pháp mà không ngừng tu tập.
Thứ hai, “không thoái tâm Bồ đề”: Niệm Phật có thể làm cho không thoái tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, và cũng không thể rơi vào hàng nhị thừa.
Thứ ba, “được Đà la ni”: Đà la ni (dhāraṇī) có nghĩa là “trì”, niệm Phật là đời đời kiếp kiếp cũng không quên mất Phật pháp.
Thứ tư, “sám hối nghiệp chướng”: Ở trong Phật pháp, ý nghĩa của sám - sám ma (kṣama) là “dung nhẫn”, tức là cầu đối phương hoặc tăng chúng dung thứ cho những lỗi lầm của mình, đồng thời cầu chỉ lỗi cho mình. Hối là dịch ý từ “desana”, dịch thẳng có nghĩa là “nói” (tội): một chút cũng không giấu giếm, đối trước đại chúng nói rõ, phát lộ ra những lỗi lầm của mình. Bởi người phạm giới, nội tâm có ác cảm với tội lỗi, làm chướng ngại cho việc tu tập. Vì thế, đức Thế Tôn chế luật, hàng đệ tử tùy vào mức độ phạm mà có hình thức sám hối tương ứng, giữ được sự thanh tịnh của thân tâm (cũng chính là bảo vệ sự thanh tịnh của Tăng già), để hướng đến tu tập. Pháp sám hối của Phật pháp, tức là sám hối những sai phạm trước mắt, còn pháp sám hối của Đại thừa như trong Xá Lợi Phất hối quá kinh nói: “Ở trước mười phương chư Phật, sám hối những ác nghiệp trong đời hiện tại, sám hối những ác nghiệp từ vô thỉ đến nay, sám hối những ác nghiệp của đời quá khứ”. Cho nên trong kinh nói, mỗi niệm danh hiệu Phật có thể làm tiêu sạch ác nghiệp trong bao nhiêu kiếp, như trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh nói: “Tiêu trừ những ác nghiệp cực trọng trong vô lượng ức kiếp, sau khi mạng chung, chắc hẳn sinh vào nước ấy”1.
1 Cương Lương Da Xá dịch, Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 342c.
Pháp môn niệm Phật của Đại thừa là “đạo dễ hành” bởi lấy niệm Phật làm cốt yếu, và cũng là pháp môn rộng lớn, như được nói trong Xá Lợi Phất hối quá kinh, ở trước mười phương chư Phật mà sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng2. Điều này đại đa số kinh đều có đề cập đến, phẩm Phổ Hiền thập nguyện của Hoa nghiêm kinh cũng theo đó mà phát triển thành mười hạnh nguyện: Một là niệm Phật: đây là chủ đề chủ yếu, như niệm danh hiệu Phật, lễ Phật, cúng dường Phật, tiến sâu thêm bước nữa là quán niệm Phật. Hai là sám hối. Ba là tùy hỷ (anumodana): nghe thấy những công đức - thiện tâm, thiện hạnh của chúng sinh mà không khởi tâm đố kỵ, ngược lại còn khởi tâm hoan hỷ; tùy hỷ là Phật pháp (nguyên thủy) nói. Bốn là khuyến thỉnh - thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế: sau khi đức Thế Tôn thành đạo dưới cội Bồ đề, Ngài cảm thấy Phật pháp quá sâu xa, chúng sinh không dễ gì lãnh hội được, từ đó Ngài có ý không muốn thuyết pháp. Do sự khuyến thỉnh của Phạm Thiên (Brahman), Ngài mới đại chuyển pháp luân. Những năm cuối đời Ngài, do A Nan (Ānanda) không thỉnh Phật trụ thế, Ngài mới tuyên bố với chúng Tăng ba tháng sau nhập Niết bàn. Hành giả Đại thừa rất có lòng tin đối với mười phương chư Phật, cho nên thỉnh thuyết pháp khi Phật mới thành đạo, thỉnh trụ thế khi Phật muốn vào Niết bàn. Đây là nguyện mong cho Phật pháp thường tồn ở thế gian, làm nơi nương tựa cho chúng sinh khổ nạn, xuất phát từ tâm kiền thành hộ pháp. Thứ năm là hồi hướng: hồi hướng (priṇāma) là hồi chuyển thú hướng, đem công đức do mình niệm Phật được, hồi hướng đến một mục tiêu nào đó. Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện nói: “Hồi hướng đến chúng sinh và Phật đạo”1. Tất cả công đức đều hồi hướng cho chúng sinh, cùng với chúng sinh đồng thành Phật đạo. Công đức do bản thân mình tạo ra, làm sao có thể hồi chuyển đến người khác được? Trong Đại trí độ luận nói: “Phước đức ấy không thể hồi hướng cho tất cả chúng sinh, nhưng quả báo (của phước đức ấy) thì có thể cho... Nếu phước đức có thể cho người khác, những công đức của Phật từ khi mới phát tâm đến lúc thành Phật được tích tụ lại đều cho chúng sinh hết”2. Công đức tự mình tạo ra không thể hồi hướng cho chúng sinh, nhưng những phước báo của công đức mà mình có được, Bồ tát có thể dùng để làm lợi ích chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh cùng thành Phật đạo. Thuyết hồi hướng như thế mới không trái với định luật nhân quả “tự làm tự chịu”. Lấy câu niệm Phật để làm lộ trình chủ yếu trong việc tu tập, các luận điển như Bồ đề tư lương luận, Bảo Hạnh Vương chính luận của Long Thọ (Nāgājuna) đều lấy những pháp hành đối trước Phật sám hối v.v. để làm phương pháp tu trì cho người mới phát tâm Bồ tát và những người tu tập thường ngày1. Hai thời công phu sáng tối và lễ sám năm pháp sám hối là đạo dễ hành, và đều được lưu hành phổ cập một cách rộng rãi2.
2 An Thế Cao dịch, Phật thuyết Xá Lợi Phất hối quá kinh. Đại chính tạng, quyển 24, trang 1090a-1091b.
1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, quyển 40. Đại chính tạng, quyển 10, trang 847a.
2 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 61. Đại chính tạng, quyển 25, trang 487c-488a.
1 Long Thọ, Bồ đề tư lương luận, quyển 4, Đại chính tạng, quyển 32, trang 530c-531b; Chân Đế dịch, Bảo Hạnh Vương chính luận, Đại chính tạng, quyển 32, trang 504 bc.
2 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 13, trang 1133-1134; chương 9, trang 570-576.
Những năm trước và sau Công nguyên, Phật pháp Đại thừa bắt đầu lưu hành, đúng lúc trong giới Phật giáo xuất hiện một tình huống mới, đó là việc tạo tượng và viết kinh.
Thứ nhất, trong Phật pháp xưa nay không cho phép tạo tượng, như trong Thập tụng luật chép: “Nếu không được đúc tượng thân Phật, cúi mong đức Phật cho con tạo tượng Bồ tát đứng hầu”3! Cho nên, lúc ban sơ, giới Phật giáo, ngoài việc cúng dường “di thể” của Phật - tháp Xá lợi Phật ra thì chỉ điêu khắc thêm cây Bồ đề, bánh xe chính pháp, dấu chân Phật, v.v. để tượng trưng cho việc đức Thế Tôn thành đạo, thuyết pháp và du hành. Niệm Phật cũng chỉ nhớ nghĩ đến công đức (pháp thân) của Phật, bởi vì Phật không thể nhìn bằng sắc thân tướng hảo bên ngoài mà thấy được. Như kệ nói: “Nếu dùng sắc suy xét Ta, dùng âm thanh tìm kiếm Ta, bị dục tham dẫn dắt, kẻ ấy không biết Ta”1. Nhưng giai đoạn chuyển tiếp của trước và sau Công nguyên, các hình thức của tượng Phật - tượng họa, tượng điêu khắc của nước Kiền Đà La (Gandhāra) và Ma Thâu La (Mathurā) dần dần được lưu hành rộng ra. Đây có thể là theo tư tưởng “thân Phật vô lậu” của Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika), tướng hảo trang nghiêm, ảnh hưởng đến kinh Đại thừa (trở thành thuyết “pháp thân hữu sắc”; cũng có thể do các vùng thuộc Tây Bắc Ấn Độ bị các tộc người khác (người Hy Lạp, người Ba Tư, người Tắc Ca, người Nhục Chi) xâm lược, nên chịu ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài vào, thích ứng với tín chúng mà tạo lập tượng Phật và Bồ tát. Kết quả của sự hưng khởi việc tạo tượng Phật đã thay thế vị trí tháp Xá lợi Phật, biểu thị hình tượng cụ thể của đức Phật.
3 Phất Nhã Đa La và La Thập dịch, Thập tụng luật, quyển 48. Đại chính tạng, quyển 23, trang 352a.
1 Huyền Trang dịch, Du già sư địa luận, quyển 9. Đại chính tạng, quyển 30, trang 382b. Đại ý của bài kệ này tương đồng với bài kệ được nói trong Kim cang kinh: Nếu thấy Ta bằng sắc, cầu Ta bằng âm thanh, người đó theo đường tà, không thể thấy được Ta.
Thứ hai, việc viết kinh: Qua nhiều lần kết tập kinh điển, lần nào cũng chỉ dựa vào sự truyền trao nhau bằng đọc tụng, truyền thuyết Tích Lan nói: “Khoảng năm 42 đến năm 29 TCN, các Tỳ kheo của tinh xá A Lô (Aluvihāra) thuộc Trung bộ Ma Đa Ly (Mātale), cùng nhau tụng lại Tam tạng và tiến hành chú thích, viết ra trên lá bối, để tránh sự mất mát và sai lạc”1. Đây là truyền thuyết của Tích Lan, nhưng các kinh điển của Phật pháp Đại thừa thời đầu được truyền, như Bát nhã kinh, Pháp hoa kinh, A Súc Phật kinh, v.v. đều nói đến việc viết kinh thành quyển, có thể thấy được việc “biên chép kinh điển” trở thành học phong của thời kỳ này. Phật pháp vốn là trung tâm chính pháp (saddharma), nhưng trong Tam bảo lại thiếu đi hình tượng cụ thể. Tự mình viết chép kinh điển để lưu hành, việc viết chép (lekhana) kinh điển, việc trang nghiêm kinh thư để cúng dường (pūjana), việc chép kinh để bố thí cho người khác đã trở thành ba hạng mục lớn trong “mười hành pháp”. Công đức của việc viết chép kinh điển được tán thán một cách cao độ, kinh thư được “tôn kính như Phật”; được “xem như là tháp”2, hành giả Đại thừa lấy pháp làm trung tâm, cơ hồ như muốn đem kinh thư (trang nghiêm cúng dường) để thay thế cho tháp Xá lợi Phật. Hàng đệ tử Phật - người thiện nam, thiện nữ đọc tụng, thọ trì, giảng giải, viết chép kinh điển Đại thừa thì được tôn xưng là “pháp sư” (dharma-bhāṇaka) - pháp bối lặc, bối lặc nghĩa là làm Phật sự bằng âm thanh, công đức của việc tụng, đọc, viết sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đời sống hiện tại1. Đây là việc thông tục phổ cập hóa kinh pháp sâu xa, là thích ứng với tín ngưỡng của nhân gian, dễ dàng đi vào lòng người, tương tự như tín ngưỡng thông thường của những thần giáo dân gian vậy! Việc điêu khắc tượng Phật đương nhiên là để cho hàng đệ tử lễ bái, sẽ mang lại nhiều công đức tốt lành, điều quan trọng là phương pháp hấp dẫn và động viên khích lệ người phát tâm tu hành niệm Phật tam muội. Kinh nói: “Công dụng của việc tạo lập hình tượng đức Phật là thành tựu (Bát nhã) tam muội”2. Tu tập niệm Phật tam muội, căn cứ theo Tọa thiền tam muội kinh, Tư duy lược yếu pháp, Quán Phật tam muội hải kinh, v.v. đều nói trước tiên là quán lấy tướng của tượng, nhớ nghĩ không để quên, sau đó chính thức bước vào tu niệm Phật tam muội, như thành tựu Ban chu tam muội (pratyutpanna-buddha-saṃmukhāvasthita-samādhi), đức Phật hiện ra trước mặt người ấy, sẽ thuyết pháp cho hành giả đó nghe, giải trừ những nghi vấn của hành giả. Người tu tập Du già nhờ đó mà hiểu được rằng: Phật là tự tâm tạo ra, tam giới cũng do tâm tạo ra1. Tự tâm chính là Phật, chỉ do tâm (citta-matratā) hiện ra, tư tưởng này được Đại thừa thời kỳ sau và Đại thừa Bí mật phát triển mạnh ra.
1 Nam truyền, Đảo sử, quyển 60, trang 134; Đại sử, Nam truyền, quyển 60, trang 378-379.
2 Cưu Ma La Thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 9, trang 30c. Bồ Đề Lưu Chi dịch, Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh. Đại chính tạng, quyển 8, trang 750c.
1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 10, trang 642-643.
2 Chi Lâu Ca Sấm, Ban chu tam muội kinh. Đại chính tạng, quyển 13, trang 899c.
1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 11, trang 842-848.
Trong Phật pháp đề cập đến cõi Trời (deva), bất luận là quỷ thiên hay súc sinh thiên, cao hay thấp; dù cho thân tướng trang nghiêm, thọ mạng lâu dài, thần lực rộng lớn, đời sống hưởng thụ phong phú… đều là chúng sinh khổ não luân chuyển trong vòng sinh tử, giống với loài người. Song, trên phương diện phát tâm tu tập, rốt ráo giải thoát mà nói, nhân gian hơn hẳn cõi trời, bởi con người có ba việc mà cõi trời không bằng, đó là ghi nhớ, phạm hạnh và dũng mãnh, do vậy “Phật Thế Tôn xuất hiện trong cõi người, không thể từ cõi trời mà thành tựu được”2. Do đó, chư thiên chỉ có cung kính, tán thán, quy y, biểu hiện chân thành hộ pháp (trừ những ác thần ác quỷ… ra) đối với Phật và chúng đệ tử hiền thánh tại gia cũng như xuất gia. Đức Thế Tôn dung nhiếp những vị thần trong tín ngưỡng dân gian của Ấn Độ, nhưng Phật và chúng đệ tử hiền thánh tại nhân gian vượt hẳn tất cả thiên thần. Lập trường cơ bản của Phật pháp là không quy y thiên thần quỷ vật. Sự hưng khởi của Phật pháp Đại thừa là căn cứ vào tư tưởng “bản tính”, trong hàng Bồ tát cũng có các hàng chư thiên, quỷ, súc sinh, Bồ tát là người ở cõi trời cũng có xuất hiện trong kinh, như: “Bà Già Độ Long Vương thập trụ (địa) Bồ tát, A Na Bà Đạt Đa Long Vương thất trụ Bồ tát”1, lại có Hải Long Vương kinh, Hoằng đạo quảng hiển tam muội kinh, đây là (súc sinh) rồng (nāga) Bồ tát. Đại Thụ Khẩn Na La Vương sở vấn kinh là (quỷ) Khẩn Na La (kiṃnara) Bồ tát. Duy Ma Cật kinh nói: “Trong mười phương vô lượng A tăng kỳ kiếp làm quỷ vương, phần nhiều trụ trong bất tư nghì giải thoát Bồ tát”2, thì đó là Ma (māra) Thiên Bồ tát. Quan trọng là (quỷ) Dạ xoa (yakṣa), trong kinh có Kim Cang Thủ (Vajrapāṇi) còn gọi là Chấp Kim Cang (Vajradhara), hoặc dịch thành Kim Cang Mật Tích Lực Sỹ, những tên gọi đó đều từ ý nghĩa vị thần Dạ xoa tay cầm chày kim cang. Đế Thích (Śakradevānām-indra) cũng là Dạ xoa, là vị vua trong cõi Dạ xoa. Trong kinh luật nói đến một vị Kim cang lực sỹ thường hộ vệ đức Phật, như ở trong Mật Tích Kim Cang Lực Sỹ kinh, là vị đại Bồ tát phát nguyện hộ trì một ngàn vị Phật trong hiền kiếp3. Bởi thường theo hầu Phật, cho nên có một Phật sự, pháp sự mà tăng chúng chưa nghe qua, như thân khẩu ý tam mật (trīṇi-guhyāni) của Như Lai, thì đều do vị Kim Cang Mật Tích Lực Sỹ này truyền lại.
2 Phẩm Đẳng kiến 34, Tăng nhất A hàm kinh. Đại chính tạng, quyển 2, trang 694a.
1 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 25, trang 92b.
2 Chi Khiêm, Duy Ma Cật sở thuyết kinh, quyển trung. Đại chính tạng, quyển 14, trang 547a.
3 Bồ Đề Lưu Chí dịch, Đại bảo tích kinh, Mật Tích Kim Cang Lực Sỹ, hội 3. Đại chính tạng, quyển 11, trang 52c-53a.
Vị đóng vai trò chủ đạo trong Hoa nghiêm kinh là Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), theo phẩm Thập địa nói, vị này cùng với Đại Tự Tại Thiên (Mahāśvara) của Ấn Độ, trụ tại cõi trời Sắc cứu cánh (Akaniṣṭha) mà thành Phật. Theo hầu bên Phật Tỳ Lô là hai vị đại Bồ tát Văn Thù (Mañjuśrī) và Phổ Hiền (Samantabhadra). Thật ra là sự hợp hóa của hai vị đại đệ tử đức Phật ở nhân gian và trên cõi trời, Văn Thù chính là Phạm Thiên hóa của Xá Lợi Phất (Śāriputra); Phổ Hiền là Đế Thích hóa của Đại Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana)1, cùng với việc thành Phật ở cõi trời Sắc cứu cánh, tổng hợp lại, là biểu hiện sự tương thông giữa Phật pháp với các thiên thần trong tín ngưỡng Ấn Độ. Mở đầu pháp hội của Hoa nghiêm kinh, ngoài Bồ tát trong mười phương ra, còn có vô số thần Chấp kim cang, vô số thần chủ thành, thần chủ đất, một mực đều đến cõi trời Đại Tự Tại để tham dự pháp hội, đến tham dự pháp hội của Phật Tỳ Lô Giá Na đương nhiên là các vị đại Bồ tát. Rất nhiều vị trong các vị thiện tri thức được Thiện Tài đồng tử đến tham vấn, đều là thần chủ đêm, là Dạ xoa nữ tính. Tỳ kheo ni Vi Nhiễu Sư Tử Tần Thân (Siṃhavijṛmbhitā) tương đương với Bồ tát Thập địa trở lên, có “thần Chấp kim cang” và “Bồ tát tọa Bồ đề đạo tràng” (cũng chính là hạnh địa của Phổ Hiền)1. Dạ xoa Bồ tát mang thân tướng cõi trời, có địa vị rất cao trong Hoa nghiêm kinh, và có sự tương thông với Phật pháp Đại thừa Bí mật. Bồ tát hóa của đại lực quỷ vương và những súc sinh cõi trời cấp cao, cho đến những tín ngưỡng các quỷ thần (cấp thấp), kết hợp với các chú thuật của dân gian, tất cả đều được dung nạp vào trong Phật pháp. Bồ tát cõi trời của Phật pháp Đại thừa vượt hẳn những hiền thánh (Thanh văn) ở nhân gian; quan điểm ở trên cõi trời để thành Phật là thích hợp với mê tình của người thế tục. Trong lúc đó quan điểm ở cõi người lại thắng hơn cõi trời, Phật pháp của Phật được xuất hiện ở nhân gian đã bị đảo ngược, cũng từ đó bắt đầu xuất hiện Phật Thiên hợp lưu.
1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 8, trang 465-472.
1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, quyển 67. Đại chính tạng, quyển 10, trang 364ab.
Đại thừa thời đầu đặc biệt xem trọng Bồ tát Văn Thù, Ngài được tôn xưng là “bậc thầy của chư Phật”. Những kinh điển có liên quan đến Văn Thù, phần nhiều là thuyết pháp cho thiên tử2. Song, thuyết Bồ tát cõi trời của Đại thừa thời đầu là vì Bồ tát cõi trời mà thuyết pháp, hay là xiển dương trí tuệ sâu xa, đại hạnh rộng lớn của Bồ tát đạo, công đức trang nghiêm của Phật quả, nếu vậy thì lại không có sự tương đồng về cảnh ý mà sau này Đại thừa lấy Bồ tát Phổ Hiền (Kim cang thủ v.v.) làm chủ đạo, thích ứng với pháp môn của những cõi trời cấp thấp. Trí tuệ sâu xa, đại hạnh rộng lớn của Bồ tát đạo là chủ lưu của Phật pháp Đại thừa. Trong đó, bằng phương tiện đạo lấy lòng tin làm đầu cho việc thông tục phổ cập hóa cũng được phát triển. Sự thống nhất giữa tư tưởng cao sâu với việc thông tục phổ cập hóa, tựa hồ như vừa nhập thế nhưng lại vừa thần bí, kết quả là lìa khỏi Phật pháp mà phô bày sự đặc sắc của Phật pháp Đại thừa.
2 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 12, trang 935-936.