• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ - Tập 1
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 23
  • Sau

CHƯƠNG 4: ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN - TÍNH KHÔNG DUY DANH LUẬN

att

1. Long Thọ Và Những Luận Trước

Kinh điển Đại thừa được truyền bá trên nhiều phương diện, về số lượng cũng không phải ít, còn nội dung thì lại mỗi nơi chú trọng mỗi mặt khác nhau. Với nguyên tắc tu Bồ tát hạnh “trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh”, nên những hành giải của các kinh điển Đại thừa thời đầu không tránh khỏi những điểm hỗn tạp. Đại thừa thời đầu được lưu hành (giữa thế kỷ I TCN đến năm 200), đã trên hai trăm năm trôi đi. Đối mặt với thần giáo của Ấn Độ, nguồn cam lồ Phật pháp đã không ngừng chảy và phân hóa, thành ra bộ phái Phật giáo. Đối với Phật pháp, ý nghĩa khác nhau trong bản thân Đại thừa, thật có sự phân tích chia chẻ, có chọn lựa và có sự xuyên suốt, là điều tất yếu để xác lập ra chính nghĩa Đại thừa. Long Thọ chính là yêu cầu thích ứng của thời đại, và trở thành luận sư Đại thừa nổi tiếng được khắc tên lên nền lịch sử Phật giáo Ấn Độ.

Các truyền thuyết về niên đại của Long Thọ có sự bất đồng, nhưng tuổi thọ đều ghi rất dài. Năm 404, La Thập đến Trường An (Trung Quốc), bộ Long Thọ Bồ tát truyện do ông dịch nói: (Long Thọ) “từ khi nhập diệt đến nay cũng đã hơn một trăm năm rồi”1. Những năm trước 20 tuổi, La Thập từng học pháp môn Đại thừa của Long Thọ ở Tây Vực, 20 tuổi về sau, ông ở tại Quy Tư. Năm Kiến Nguyên thứ 18 của Tiền Tần (năm 382), La Thập rời Quy Tư đến Cô Tạng, trụ tại đó 19 năm, sau đó mới đến Trường An. Như vậy có thể thấy được, tác phẩm Long Thọ truyện phải được viết vào khoảng trước năm 382, lúc ấy Long Thọ nhập diệt đã trên 100 năm rồi, cho nên có thể đoán định: Long Thọ ra đời khoảng năm 150 - 250, thọ mạng như vậy cũng đã quá dài rồi! Long Thọ là người Nam Ấn Độ, đương thời, Nam Ấn thuộc sự cai trị của vương triều Án Đạt La. Đời Tống, Cầu Na Bạt Ma (Guṇavarman) dịch Long Thọ Bồ tát vị Thiền Đà Già vương thuyết pháp yếu kệ, “Thiền Đà Già vương” chính là “Thừa độ quốc vương” được nói trong Long Thọ Bồ tát khuyến giới vương tụng, bản dịch khác của Nghĩa Tịnh đời Đường; và cũng chính là “Thị Diễn Đắc Ca”2 được Nam hải ký quy nội pháp truyện nói đến. Thông thường cho rằng: “Thiền Đà Già” là người lập ra vương triều Án Đạt La, sự tôn vinh đối với Thiền Đà Già vương mang dụng ý khuyên răn quốc vương Án Đạt La nương vào Phật pháp mà trị nước. Sau đó, Tăng Già Bạt Ma (Saṃghavarman) dịch lại và với tựa đề là Khuyến phát chư vương yếu kệ, có lẽ là phù hợp với thực tế hơn. Đời sau gọi pháp kệ này là Mật hữu (hoặc Thân hữu) thư, điều này nói lên mối quan hệ mật thiết giữa Long Thọ với một vị quốc vương, và nhận được sự sùng kính, hộ trì của quốc vương ấy. Gần đây, các học giả xôn xao đi đoán định vị quốc vương đó là ai, nhưng sau một thời gian dài, vẫn chưa đưa ra được kết quả.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Long Thọ Bồ tát truyện, Đại chính tạng, quyển 50, trang 185b.

2 Nghĩa Tịnh dịch, Long Thọ Bồ tát khuyến giới vương tụng. Đại chính tạng, quyển 32, trang 751b; Nghĩa Tịnh, Nam hải ký quy nội pháp truyện, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 54, trang 227c.

Liên quan đến truyện ký về Long Thọ, đầu tiên chúng ta đi tìm hiểu: Long Thọ có khi được dịch là Long Mãnh hoặc Long Thắng. Song, Lăng già kinh nói: “Long Mãnh chứng đắc hoan hỷ địa, vãng sinh về nước Cực lạc”, chữ Phạn là Nāgāhvaya, phải dịch là “Long Khiếu” hoặc “Long Danh”. Nhập Trung quán luận của Nguyệt Xứng (Candrakīrti), vì chứng minh cái thắng đức của Long Thọ mà dẫn Lăng già kinh, lại dẫn thêm Đại vân kinh nói: “A Nan Đà! Ở đây người con dòng họ Lê Xa (licchavi), hết thảy chúng hữu tình vui thấy các đồng tử dòng Lê Xa (licchavi-kumāra), sau khi Ta diệt độ tròn 400 năm, (có một đồng tử) làm Tỳ kheo, tên là Long, hoằng truyền rộng rãi giáo pháp của Ta. Về sau đồng tử này sẽ thành Phật ở thế giới Cực Tịnh Quang”1, đây cũng là tên Long Danh. Căn cứ vào Ấn Độ Phật giáo sử, Tāranātha nói: “A xà lê Long Khiếu (hoặc Long Danh) của miền Nam, tên thật là Như Lai Hiền (Tathāgata-bhadra), hoằng dương Duy thức trung đạo, là đệ tử của Long Thọ2. Vị A xà lê Như Lai Hiền này tuyệt đối không phải là Long Thọ, vì tư tưởng (thực sự là thuyết Như Lai tạng) khác với Long Thọ, cũng không thể là đệ tử của Long Thọ được.

1 Long Thọ, Nhập Trung quán, quyển 3, Hán Viện san bản, trang 2-3.

2 Tāranātha, Ấn Độ Phật giáo sử, Tự Bản, Uyển Nhã dịch bản, trang 139.

Việc Bồ tát Long Thọ xuất gia, tu học, hoằng dương, căn cứ theo Long Thọ Bồ tát truyện được viết rất sớm, tường thuật như sau1: “Ông vào trong núi, đến bái yết tháp Phật, sau đó xuất gia thọ giới. Chỉ trong ba tháng tụng hết Tam tạng thánh điển, lại tìm những kinh điển khác, nhưng đều không tìm được”. “Long Thọ lại vào trong núi Tuyết, trong núi có tháp Phật, trong tháp có một vị Tỳ kheo già, vị ấy đem Ma ha diễn kinh trao cho ông”. (Long Thọ muốn tự mình) “lập thầy giáo giới, đổi mới y phục,…”. “Bồ tát Đại Long… tiếp đó lại xuống biển, ở trong cung điện của Long vương, mở tạng thất bảo, phát hiện thất bảo Hoa hàm (Hoa nghiêm kinh), (Long vương) đem những kinh điển “Phương đẳng”, vô lượng diệu pháp thâm áo trao cho ông ta... Long Thọ lại mang ra (khỏi Long cung), đại hoằng dương Phật pháp tại Nam Thiên Trúc”. “Từ khi tịch diệt đến nay đã hơn 100 năm, các nước thuộc Nam Thiên Trúc lập miếu để thờ phượng, cung phụng như đức Phật”.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Long Thọ Bồ tát truyện. Đại chính tạng, quyển 50, trang 184a-185b.

Lúc Long Thọ xuất gia, phong trào tạo tượng Phật mới bắt đầu phát khởi, trong lúc ấy tháp Xá lợi Phật vẫn là đại biểu cho đức Phật, có sự liên quan mật thiết với chư tăng, do Tỳ kheo tăng quản lý. Long Thọ ở trong tháp Phật xuất gia, tức là xuất gia ở trong tự viện của tăng. Sự truyền bá của kinh điển Đại thừa thời đầu tuy có sự khác biệt với ba tạng của Phật giáo bộ phái, nhưng Đại thừa thời đầu chú trọng pháp mà không chú trọng luật, và vẫn chưa lập ra Tăng đoàn Bồ tát, cho nên hành giả Đại thừa mà xuất gia vẫn là nương vào chư tăng trong chùa thuộc bộ phái. Cũng chính vì vậy mà Long Thọ được xuất gia, và trước tiên ông đã đọc hết ba tạng của Thanh văn thừa. Những bộ luật được Long Thọ dẫn trong luận của ông, đại đa số tương đồng với Thập tụng luật, cho nên tương truyền Long Thọ xuất gia trong Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), truyền thuyết này tương đối đáng tin cậy. Sau đó, Long Thọ ở trong một ngôi Phật tự trong núi Tuyết (Himālaya) đọc được kinh Đại thừa. Núi Tuyết là thuộc vùng ranh giới phía Bắc bộ Ấn Độ; các kinh Đại thừa như Bát nhã v.v. bắt nguồn từ miền Nam nhưng đại thành ở miền Bắc, cho nên, Long Thọ ở trong khu vực núi Tuyết đọc được kinh điển Đại thừa là hợp với sự thật. Long Thọ “tự lập làm thầy giáo giới, đổi mới y pháp”, cũng chính là có ý đồ lập riêng Tăng đoàn của Đại thừa, nhưng sự thực là lý tưởng đó vẫn chưa thực hiện, có thể thấy là để tránh những tranh luận, hoặc sợ bị hiểu nhầm là phản bội Phật giáo. Từ điều này có thể thấy được rằng, lý chứng của cá nhân thì không khó, nhưng muốn cải cách chế độ của đại chúng thì thật không dễ.

Truyền thuyết về việc Long Thọ xuống long cung là rất phổ biến, bản thân tôi viết Long Thọ long cung thủ kinh khảo cũng đưa ra luận chứng rằng: “Nơi Long Thọ lấy kinh là ở Ô Trà (Uḍra), nay thuộc vùng Orissa. Vùng này nằm cạnh bờ biển, truyền thuyết Long Thọ đến đây, ở đây có một ngôi tháp thần kỳ, truyền thuyết là Long Thọ lấy kinh từ long cung đi lên đây. Đặc biệt đây cũng là cố hương của Thiện Tài đồng tử, và có mối liên quan mật thiết với phẩm Nhập pháp giới của Hoa nghiêm kinh. Long Thọ đọc được kinh Đại thừa ở long cung cũng có thành phần nào đó là sự thật, rất có thể kinh điển này được cất giữ trong miếu thờ Long vương1. Long Thọ hoằng pháp ở Nam Thiên Trúc là lẽ tất nhiên. Trong Ấn Độ Phật giáo sử, Tāranātha nói: “Long Thọ cũng có hoằng pháp ở Trung Ấn Độ”, sự tích Long Thọ hoằng pháp được Tāranātha dẫn là mang sắc thái của Đại thừa Bí mật của thời kỳ cuối, có một số truyền thuyết chỉ mang tính gán ghép miễn cưỡng. Long Thọ từng tu học theo pháp Đại thừa trên khu vực núi Tuyết, đương nhiên là có sự ảnh hưởng đến miền Bắc, hơn nữa sự hoằng dương Phật pháp của Long Thọ không phải hạn cục ở một khu vực nào đó. Căn cứ vào Đại Đường Tây Vực ký, Huyền Trang có viết về những năm cuối đời của Long Thọ, chủ yếu là tại núi Bạ La Mạt La Kỳ Lý (Bāhmagiri) - núi Hắc Phong thuộc phía Tây Nam của thủ đô nước Kiều Tát La (Kośalā)1. Sau đó lại đến núi Kiết Tường (Śrīparvata) thuộc phía Tây Bắc của đại tháp A Ma La Phược Để (Amarāvatī), rồi ở đó thị tịch.

1 Ấn Thuận, Phật giáo sử địa luận khảo - Long Thọ long cung thủ kinh khảo, Diệu vân tập, hạ biên 9, Chính Văn xuất bản xã, trang 211-221.

1 Huyền Trang, Đại Đường Tây Vực ký, quyển 10. Đại chính tạng, quyển 51, trang 929c.

Những luận điển của Long Thọ viết được lưu truyền lại, nhận được sự sùng kính rộng rãi của giới Phật giáo Đại thừa. Do mọi người đều tín nhiệm, nên mặc dù có sự bất đồng trên tư tưởng, nhưng cũng chẳng ai dám xuất đầu lộ diện để vấn nạn. Thế kỷ VII - VIII, lại có người tự xưng là truyền nhân của Long Thọ. Nhiều trước tác được xác định được viết sau Long Thọ, nhưng truyền thuyết lại cho là của Long Thọ viết, thế thì không tránh khỏi do nổi danh mà chuốc lấy phiền toái.

Các tác phẩm của Long Thọ được lưu truyền ở Bắc Ấn, truyền qua Tây Vực rồi đến Trung Quốc. Đến thế kỷ V, bốn tác phẩm của ông đã được dịch thành tiếng Hán. Thứ nhất: Trung luận, 4 quyển, là hợp biên bản kệ tụng của Long Thọ và bản thích luận của Thanh Mục. Thứ hai: Thập nhị môn luận, 1 quyển, trong luận có dẫn Thất thập không (tính) luận của Long Thọ trước tác, hai bộ này là nói rõ pháp nghĩa sâu xa. Thứ ba: Đại trí độ luận, 100 quyển, giải thích về hai vạn hai ngàn kệ tụng của Đại Bát nhã Ba la mật kinh - Phẩm trung, cũng là kinh và luận hợp biên. Trong Đại trí thích luận tự, Tăng Duệ nói: “Bản lược của luận gồm mười vạn kệ tụng... ba phần bỏ hai, nên gói gọn trong 100 quyển”. Đại trí độ luận ký nói: “Phẩm đầu của luận gồm 34 quyển, phẩm một là giải thích, tức bản giải thích đầy đủ của toàn luận, từ phẩm hai trở đi, pháp sư lược bớt,… do đó mới còn chẵn 100 quyển, nếu giải thích cho hết thì có lẽ sẽ gấp mười lần như vậy”1. Bộ giải thích Đại Bát nhã Ba la mật kinh - Đại trí độ luận là giải thích lược dịch của mười vạn bài kệ. “Hậu ký” có nói, dường như có chút thổi phồng! Thứ tư: Thập trụ Bà sa luận, 17 quyển, là nói rộng phần trùng tụng phẩm Thập địa của Hoa nghiêm kinh, trong đó chỉ nói đến hai địa. Hai bộ luận giải thích kinh văn này, trên cơ sở pháp nghĩa sâu xa, nói rộng về đại hạnh của Bồ tát. Bốn bộ luận trên là của Long Thọ viết, được dịch ra tiếng Hán khá sớm, hiện vẫn còn nguyên vẹn. Long Thọ truyện chép: “Giải thích rộng về Ma ha diễn, triển khai thành mười vạn kệ Ưu ba đề xá; lại viết Phật đạo trang nghiêm luận, gồm năm ngàn kệ; Đại từ phương tiện luận, gồm năm ngàn kệ; Trung luận, gồm năm trăm kệ tụng, làm cho giáo pháp Ma ha diễn được truyền bá rộng ở Thiên Trúc. Lại có thêm Vô úy luận, gồm mười vạn kệ tụng, Trung luận được rút ra từ trong ấy”2. “Ưu ba đề xá, gồm mười vạn kệ tụng” có lẽ chính là Đại trí độ luận; thông thường, luận giải thích kinh thì gọi là luận nghị - (Upadeśaḥ). Thập trụ Tỳ bà sa là Bồ tát đạo - nói rộng về Thập địa, có khả năng chính là Trang nghiêm Phật đạo luận. Truyền thuyết Trung luận được rút ra từ Vô úy luận, vậy thì Vô úy luận là hợp tập các kệ tụng (và chú thích) do Long Thọ soạn.

1 Tăng Hựu, Xuất tam tạng ký tập, quyển 10. Đại chính tạng, quyển 55, trang 75ab.

2 Cưu Ma La Thập, Long Thọ Bồ tát truyện. Đại chính tạng, quyển 50, trang 184c.

Thế kỷ VII - VIII, Phật pháp được truyền vào Tây Tạng, trong những bản dịch bằng Tạng văn, có rất nhiều tác phẩm của Long Thọ viết. Ngoài Bí mật bộ mang tính truyền thuyết ra, chủ yếu là Ngũ chính lý tụ, nêu rõ nghĩa sâu xa của năm bộ luận.

1. Căn bản trung luận tụng.

2. Lục thập tụng như lý luận: Bộ này ở Trung Quốc được Thi Hộ (Dānapāla) thời Triệu Tống từng dịch ra bổn tụng của Long Thọ.

3. Thất thập không tính luận (cả kệ tụng và phần giải thích): Cận đại Pháp Tôn căn cứ vào bản Tạng văn mà dịch thành Hán văn.

4. Luân hồi luận: Tỳ Mục Trí Tiên (Vimokṣapra-jñāṛṣi) và Cù Đàm Lưu Chi (Prajñāruci) từng dịch kệ và giải thích.

5. Quảng phá kinh. Hai bộ sau là nhằm bài xích phái Chính lý (Naiyāyika) ở Ấn Độ.

Ngoài ra còn có Bồ đề tư lương luận, Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch vào đời Tùy, gồm 6 quyển, bản tụng là do Long Thọ viết, phần thích luận do Tỳ kheo Tự Tại (Śvara) viết; trong Thập trụ Tỳ bà sa luận có đề cập đến bộ luận này, La Thập dịch thành Trợ đạo kinh1. Bảo man luận, Chân Đế (Paramārtha) dịch thành Bảo Hạnh Vương chính luận, nhưng Chân Đế lại không đề là do Long Thọ viết. Ký thân hữu thư và Khuyến phát chư vương yếu kệ là đồng một bản, ở Trung Quốc có hai bản dịch. Đại thừa nhị thập tụng luận do Thi Hộ dịch vào đời Tống, nhưng luận nói “hết thảy do tâm”, nên chưa hẳn là của Long Thọ viết.

1 Long Thọ, Thập trụ Tỳ bà sa, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 26, trang 25b.

Long Thọ thành lập pháp nghĩa Đại thừa, đặc biệt là sự ảnh hưởng sâu xa của Trung quán luận, cho nên hệ thống học thuật của Long Thọ được gọi là học phái Trung quán (Mādhyamika). Truyền thuyết Thuận trung luận là do Vô Trước (Asaṅga) viết, được Cù Đàm (Bát Nhã) Lưu Chi dịch vào năm đầu của nhà Ngụy, gồm 2 quyển. Hệ thống Trung quán truyền ở Tây Tạng có tám luận sư chú thích, trong đó bốn vị giải thích luận đều thuộc phái Du già: An Huệ (Athiramati) thích, Đề Bà Thiết Ma (Devaśarman) thích, Đức Cát Tường (Guṇaśrī) thích, Đức Huệ (Guṇāmti) thích. Sự giải thích của học phái Du già đối với Trung luận chưa hẳn là phù hợp với nghĩa gốc của Long Thọ, nhưng được giới Đại thừa rất xem trọng, từ đó chúng ta có thể biết được địa vị Trung luận của Long Thọ đối với Phật giáo như thế nào.

Trong bốn nhà thích luận trên, tác phẩm của An Huệ được Duy Tịnh dịch vào thời Triệu Tống, với tựa đề là Đại thừa Trung quán luận thích, gồm 18 quyển, ngoài ra có Vô úy thích luận, cũng có lẽ do đây mà nói Vô úy luận do Long Thọ viết được rút ra từ Trung luận. Bộ giải thích luận này gần giống với bộ Thanh Mục giải thích được La Thập dịch. Truyền thuyết của Tây Tạng cho là do Long Thọ viết, nhưng cũng có một số nói là không phải. Ngoài ra giải thích luận còn có Thanh Biện, lấy tên là Bát nhã đăng luận thích, được Ba La Phả Mật Đa (Prabhākaramitra) dịch vào thời Đường, gồm 15 quyển. Dịch giả là phái Du già hành, trong phẩm Quán Niết bàn, phần Thanh Biện phê phán phái Du già hành, dịch giả đã xóa bỏ. Điều này đối với việc phiên dịch mà nói là không được trung thực, đó là điều chắc chắn khó tránh khỏi. Tây Tạng xem trọng “ngũ chính lý tụ” của Long Thọ, là thuộc về quán hạnh sâu xa. Nhưng làm rõ được nghĩa sâu xa của Trung luận là ba thừa cùng vào, như được nói trong phẩm Quán pháp (phẩm 18); Long Thọ vì công nhận hành giả Đại thừa, đại hạnh của Bồ tát được ông nói, lẽ nào chỉ có trong Bồ đề tư lương luận thôi hay sao? Nói rộng về đại hạnh của Bồ tát là Đại trí độ luận, Thập trụ Tỳ bà sa. Vì vào thế kỷ IV, một loạt luận điển thuộc hệ Trung quán ở Ấn Độ bị thất truyền, sự bất hạnh của phái Trung quán về sau được phục hưng trở lại. Các học giả cận đại, có người cho rằng do phái Trung quán thời kỳ cuối không biết đến hai bộ luận này; song, có sự hoài nghi cho là các luận Đại trí độ và Tán Bát nhã kệ không phải của Long Thọ. Họ không biết được những kinh luận của Đại chúng bộ được người sau bổ sung thêm chút đỉnh, đó là việc bình thường trong quá trình hình thành của kinh luận Ấn Độ, sao có thể vì một vài điểm nhỏ ấy mà hoài nghi hết toàn bộ hệ thống được! Đại trí độ luận khẳng định là do Long Thọ viết, được lưu truyền ở Tây Vực vào thế kỷ IV, đầu thế kỷ V thì được truyền vào Trung Quốc. Đây là tác phẩm của Long Thọ xuất hiện ở Ấn Độ tương đối muộn, nhưng cũng rất đáng để tin cậy!