Đề Bà (Āryadeva) là đệ tử của Long Thọ, người ở Tích Lan thuộc miền Nam Ấn Độ, xuất gia với Độc tử bộ (Vātsīputrīya). Lúc bấy giờ phái Vô úy sơn của Tích Lan có thái độ khoan dung, chấp nhận hành giả các bộ phái khác và cả Đại thừa cùng ở chung. Đề Bà đến Nam Ấn Độ, theo học với Long Thọ (Nāgārjuna). Sự tích của Đề Bà được lưu truyền lại chủ yếu là ông đi khắp nơi bài xích ngoại đạo, bài xích vọng chấp của Tiểu thừa, sau đó ông chết dưới tay của học giả Tiểu thừa.
Đề Bà có trước tác: 1. Bách luận, đặt tên theo một trăm bài kệ, luận được La Thập lược dịch. Bản luận của Đề Bà được gọi là Tu đố lộ luận (kinh), thích luận là do Bà Tẩu Khai Sỹ viết. Có người cho rằng, Bà Tẩu là Thế Thân (Vasubanbhu), nhưng khảo cứu theo phương diện niên đại thì không thể có chuyện ấy được. 2. Tứ bách quán luận, bản Tây Tạng dịch thành Du già hành địa tứ bách luận, gồm bốn trăm bài kệ. Đại thừa quảng bách luận thích được Huyền Trang dịch thời Đường, gồm mười quyển, là hai trăm bài kệ sau của Tứ bách luận, và sự chú thích của Hộ Pháp (Dharmapāla) thuộc học phái Du già. 3. Bách tự luận, một quyển, Bồ Đề Lưu Chi (Budhiruci) dịch vào năm đầu nhà Ngụy. Bản luận này của Đề Bà chỉ vỏn vẹn một trăm chữ, chính là trong bài kệ cuối của luận “hết thảy pháp là một, như vậy pháp không khác!... Đều như mộng không khác, tướng cũng chẳng có thể”1; ngoài ra có những thích luận, không rõ là do ai viết. Ở Tây Tạng, người ta cho rằng luận này là do Long Thọ viết. Luận được Đề Bà viết đều lấy “bách” để đặt tên. Điều này cố nhiên đối với những số mục trăm chữ trăm kệ, bốn trăm kệ có liên quan, hơn nữa, trong tiếng Phạn chữ “bách” là “śataka”, tự căn là sát, có nghĩa là phá hoại, có lẽ thực sự là chỉ cho sự bài xích đả phá tông thú của tất cả các thuyết khác. Ngoài ra, Đại trượng phu luận, hai quyển do Đạo Thái dịch vào thời Bắc Lương. Cuối luận nói: “A xà lê Độc tử bộ Đề Bà La đại Bồ tát, sinh tại miền Nam, đây là nơi tranh đấu (của ngài)”1. Tương hợp với truyền thuyết của Đề Bà chỉ có một chút tên, tức là Đề Bà với Đề Bà La. Tư tưởng được thể hiện trong bộ luận này là bi tâm của Bồ tát hạnh, thí xả tất cả, vì đại biểu cho tâm từ bi được tăng thượng mà viết ra. Nếu luận này là do Đề Bà viết, thì Đề Bà không kể đến sự an nguy của bản thân, dốc hết sức lực để bài xích những kiến chấp (tức là thí pháp), hoằng hộ pháp Đại thừa, rốt cuộc đem thân chết vì giáo pháp, đây chính là đại trượng phu nói được làm được!
1 Đề Bà, Bách tự luận. Đại chính tạng, quyển 30, trang 252c. Đại trượng phu luận. Đại chính tạng, quyển 30, trang 268a.
1 Đại trượng phu luận. Đại chính tạng, quyển 30, trang 268a.
Đệ tử của Đề Bà là La Hầu La Bạt Đà La (Rāhula-bhadra), từng hoằng pháp tại hai miền Trung Nam Ấn. Những tác phẩm của ông được Tây Tạng truyền bá có Tán Pháp hoa kinh kệ, Tán Bát nhã kệ. Theo Chân Đế, La Hầu La Bạt Đà La có một tác phẩm Trung luận chú. Căn cứ vào Trung quán luận sớ của Cát Tạng nói: “La Hầu La Bạt Đà La là người cùng thời với Long Thọ. Giải thích về “bát bất”, và giải thích rõ về thường lạc ngã tịnh (bốn đức Niết bàn)”2. Lấy bát bất duyên khởi để giải thích về bốn đức Niết bàn là có cùng một học phong với chủ trương lấy bát bất duyên khởi để làm “chính nhân Phật tính”3 được nêu trong phẩm Sư Tử Hống Bồ tát, là bản dịch nối tiếp của Đại bát Niết bàn kinh. Điều này hiển nhiên là các học giả Trung quán đã có sự đối mặt với kinh điển Đại thừa thời kỳ cuối mà thấu hiểu thêm. Trí độ luận có dẫn Tán Bát nhã kệ của ông1, nhưng có thể là do người sau thêm vào. Long Thọ, Đề Bà, La Hầu La Bạt Đà La, ba người trước sau có mối quan hệ thầy trò, đó là sự nhất trí của cả hai tạng Hán dịch và Tạng dịch. Sự truyền thừa về sau, như được truyền ở Tây Tạng, tại Trung Quốc từ trước đến nay không được rõ lắm. Như trong Tam luận tông ghi chép: “La Hầu La truyền xuống Thanh Mục, Thanh Mục truyền xuống Tu Lợi Gia Tô Ma (Sūryasoma), Tu Lợi Gia Tô Ma truyền xuống La Thập”. Trong sự truyền thừa này, không có truyền thuyết nói về Thanh Mục, chỉ nói ông là người trung gian giữa La Hầu La với La Thập, nói như thế chẳng qua do Thanh Mục có viết Trung luận thích mà thôi. Vấn đề thứ lớp truyền thừa của các học phái Phật giáo, có một số không nên hoàn toàn tin cậy.
2 Cát Tạng, Trung quán luận sớ, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 42, trang 40c.
3 Đại bát Niết bàn kinh, quyển 27. Đại chính tạng, quyển 12, trang 524ab.
1 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 18. Đại chính tạng, quyển 25, trang 190b-191a.
Long Thọ đã mở ra con đường bằng phẳng của Đại thừa, Đề Bà cũng dời trọng tâm đến việc bài xích đối với những kiến chấp bên ngoài; lấy nghĩa không để quét sạch tất cả các hý luận chấp có, chấp chẳng phải có, ngay cả “không” cũng không nằm ngoài sự an lập của ngôn ngữ lời nói, cho nên “không” cũng chẳng lập, vì thế được gọi là “phá mà không lập”. Nói đến phá, là phá cái gì? Pháp là không thể phá rồi; các thứ luận phá là nhằm phá trừ những ái trước, kiến chấp của chúng sinh. Như Trí độ luận nói:
“Bát nhã Ba la mật đối với hết thảy pháp không chỗ bỏ, không chỗ phá, rốt ráo thanh tịnh, không các hý luận; như Phật nói có bốn duyên, chỉ vì người thiếu trí, chấp trước nơi bốn duyên mà sinh tà luận. Vì để phá chấp trước ấy, nên nói các pháp không, thật không thể phá hoại được”. “Trong Bát nhã Ba la mật, chỉ trừ tà kiến mà không phá bốn duyên”1.
1 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 32. Đại chính tạng, quyển 25, trang 296c-297b.
“Vì phá các vọng kiến nên đức Phật nói ba việc không thể được, nhưng thực sự là chẳng có chỗ phá”; “vì tâm thương xót, vì muốn cắt đứt ái kết, trừ bỏ tà kiến (của chúng sinh) mà chư Phật nói ra pháp không này”2. Đây chính là ý nghĩa: “Chỉ trừ hết bệnh mà không phải trừ pháp, vì chữa khỏi gốc bệnh mà dạy như thế. Thế nào là gốc bệnh? Nghĩa là có phan duyên”3 được nói trong Duy Ma Cật kinh. Phan duyên, Huyền Trang dịch là “duyên lự”. Đại ý nói, Phật pháp chú trọng việc phá trừ những ái trước. Do sự phân hóa của bộ phái mà có nhiều dị thuyết rối ren, tiếng phản đối của ngoại đạo dần dần lớn ra, tất cả đều vòng vo quanh quẩn trong nghĩa lý, biện luận trình độ cao thấp, cho nên sự xuất hiện của thuyết “nhất thiết pháp không” này là đúng thời, chú trọng vào việc phá tà. Nếu không khởi tâm ái trước hết thảy pháp, với hết thảy pháp không “tự cho là đúng”, thì pháp duyên khởi xưa nay vốn như vậy, chẳng có gì để phá cả! Trong luận, Đề Bà nói:
2 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 12. Đại chính tạng, quyển 25, trang 150a; quyển 20, (Đ25) trang 207b.
3 Duy Ma Cật sở thuyết kinh, quyển trung. Đại chính tạng, quyển 14, trang 545a.
“Thức (Vijñana) là hạt giống của các cõi1 (Bhavavīja), cảnh là chỗ hiện hành của thức, khi thấy cảnh vô ngã, hạt giống các cõi đều diệt”2.
1 “Thức vi chư hữu chủng” có nghĩa là thức huân tập nhiều thứ trở thành chủng tử tập khí của vô minh, có ái tùy tăng, có tính năng chiêu cảm nghiệp quả sinh tử luân hồi trong ba cõi.
2 Đề Bà, Đại thừa quảng bách luận thích luận, quyển 8, Đại chính tạng, quyển 30, trang 236a.
Có người cho rằng: “thấy cảnh vô ngã” là phá cảnh, đây là nghĩa cảnh không mà tâm không khởi. Thực ra, vấn đề được Đề Bà nói vốn là ở trong Tạp A hàm kinh:
“Chủng tử là, thí như ấm cùng hiện hữu với thức; địa giới là, ví như (sắc, thọ, tưởng, hành) bốn chỗ trụ của thức; thủy giới là, ví như ham thích, bốn thủ phan duyên vào chỗ trụ của thức”3.
3 Tạp A hàm kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2, trang 9a.
“Sắc (thọ, tưởng, hành) giới lìa tham; đã lìa tham, thì sắc (thọ, tưởng, hành) bị đóng kín, trói buộc của ý chấm dứt; sắc (thọ tưởng hành) đã bị đóng kín, trói buộc của ý đã chấm dứt, thì phan duyên liền đứt; phan duyên đã đứt, thức không có chỗ trụ, thì không còn sinh trưởng lan rộng”4.
4 Uẩn tương ưng 22, thuộc Tương ưng bộ, Nam truyền, quyển 14, trang 85-87.
Thức là hữu thủ thức, là hạt giống lưu chuyển trong ba cõi. Tại sao là hạt giống của ba cõi? Bởi vì thức trụ trong sắc, thọ, tưởng, hành - bốn chỗ trụ (bốn thức trụ). Khi thức hành (tiếp xúc, hoạt động) cảnh, do bị nhiễm trước trói buộc bởi ham thích, thủ thức phan duyên không buông mà thành ra chủng tử lưu chuyển trong ba cõi. Như lìa ái, lúc thức hành cảnh thì không có sự trói buộc bởi ham thích phan duyên không xả, thì thức không có chỗ trụ - “hạt giống trong ba cõi sẽ diệt”. Thí dụ trâu đen và trâu trắng buộc vào nhau, cũng đồng một ý nghĩa, nhưng theo căn cảnh mà nói: “Chẳng phải ý buộc pháp, cũng chẳng phải pháp buộc ý... ở giữa hai cái đó, cái gì là dục tham thì cái đó là kết buộc”1. Theo Duy Ma Cật kinh nói: “Chỉ vì phan duyên ba cõi, khởi ra kiến chấp hữu vô, nếu không khởi lên hai kiến ấy, thì đều chẳng chỗ đắc, phan duyên - gốc bệnh sinh tử cũng liền dứt. Như vậy, giữa A hàm kinh và kinh điển Đại thừa là một mạch tương thông, nhưng A hàm xem trọng vấn đề lìa tham ái (tṛṣṇā, anunaya), còn Đại thừa lại chú trọng lìa kiến chấp (dṛṣṭi). Phan duyên gốc bệnh của sinh tử, không phải là năng duyên, cũng không phải là sở duyên, mà là lúc năng sở tương quan nhau, có sự bám víu của ái nhiễm, chấp trước. Ái nhiễm và chấp trước chính là ngã ái (ngã kiến, ngã mạn…) được nói trong Phật pháp, vô ngã liền giải thoát. Đại thừa nói ngã kiến, pháp kiến (nương vào tự tính mà khởi), lìa kiến chấp tự tính của ngã và pháp thì hoàn toàn không có chỗ bám víu. Cho nên, “chẳng vì không tam muội (tâm) mà không, cũng chẳng vì sở duyên các pháp sắc bên ngoài mà không... Trong đây nói lìa là lìa hai chấp mà nói trung đạo. Nghĩa là nhân duyên hòa hợp mà sinh, là hòa hợp pháp, vì chẳng có pháp nhất định nên không... vì không có tự tính nên rốt ráo không”1. Luận sư dùng “phần phá không”, “quán không”, “bản tính không” để tìm hiểu và bài xích những thuyết của ngoại đạo và Tiểu thừa, hiển bày hết thảy pháp tịch diệt lìa các hý luận, không phải là luận nghị, bởi hết thảy luận nghị đều có thể phá, Phật pháp là “đại Thánh nói pháp không, vì lìa các kiến chấp”.
1 Tạp A hàm kinh, quyển 9. Đại chính tạng, quyển 2, trang 60b; Xứ tương ưng 35, thuộc Tương ưng bộ, Nam truyền, quyển 15, trang 260-261.
1 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 74. Đại chính tạng, quyển 25, trang 581bc.