• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ - Tập 1
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 23
  • Sau

CHƯƠNG 5: PHẬT PHÁP ĐẠI THỪA THỜI KỲ CUỐI

att

1. Kinh Điển Của Đại Thừa Thời Kỳ Cuối

Phật pháp Đại thừa thời kỳ cuối có sự khác biệt rất rõ ràng đối với thời đầu. Kinh điển của Đại thừa thời kỳ cuối tuy bộ loại cũng rất nhiều, nhưng chủ yếu là lấy việc xiển dương các học thuyết Như Lai tạng (tathāgata-garbha), Phật tính (Budha-dhātu, tathāgata-gotra), công đức Niết bàn (nirvāṇa) và Phật Bồ đề (Budha-bodhi), gần gũi với tư tưởng Như Lai tạng, làm khuynh hướng chung cho kinh điển Đại thừa thời kỳ cuối. Về phương diện luận của Đại thừa, hai anh em Vô Trước (Asaṅga), Thế Thân (Vasubandhu) viết ra nhiều bộ luận thông với kinh, nương vào phái Du già hành (Yagācāra) mà lập ra học thuyết A lại da thức. Lúc học phái Du già phát huy thì học phái Trung quán cũng tuyên cáo trùng hưng. Sự đối lập, bài xích, và cả phương diện cùng bổ sung cho nhau của hai học phái này, dẫn đến sự tranh luận giữa nội bộ hai học phái đã khiến cho luận nghị tiến vào thời kỳ tư biện (tư duy biện lý một cách logic) chặt chẽ. Nói một cách đại khái, kinh điển là từ miền Nam truyền đến miền Bắc, còn luận thư thì từ miền Bắc truyền đến miền Nam, cùng nhau giao lưu. Song kể từ thời vương triều Cấp Đa (Gupta, năm 320) trở đi, Phật pháp ở Trung Ấn trở thành dòng chảy chính của Phật pháp.

Kinh điển Đại thừa thời kỳ cuối được tính từ thế kỷ III đến cuối thế kỷ V, có rất nhiều kinh được lưu truyền trong giai đoạn này. Thế kỷ VI trở về sau, một mặt là phong khí của luận nghị dâng cao, một mặt là một thời đại mới xuất hiện (Phật giáo Đại thừa Bí mật) đang thai nghén sắp thuần thục, sẽ lưu bố diện mạo một giáo điển mới: cho nên kinh điển Phật pháp Đại thừa được truyền ra cũng ít lại.

Thời đại này (trước sau ba trăm năm), bắt đầu từ vương triều Án Đạt La (Andhra) thuộc Nam Ấn, đến năm 225 thì vương triều này sụp đổ. Đến thế kỷ III, vương triều Quý Sương (Kushān) ở miền Bắc cũng bắt đầu suy yếu, cục diện của toàn cõi Ấn Độ rơi vào sự phân chia cát cứ khắp nơi. Vào năm 320, Chiên Đà La Cấp Đa đệ nhất (Chandragupta I) nổi dậy từ Ma Kiệt Đà (Magadha), kiến lập nên vương triều Cấp Đa (Gupa). Trải qua thời Tát Mẫu Đà La Cấp Đa (Samudragupta), rồi đến Chiên Đà La Cấp Đa đệ nhị (Chandragupta II), thế nước khá mạnh, thống trị cả ba miền Đông Tây và Bắc Ấn Độ, Nam Ấn cũng tỏ ý thuần phục. Lúc bấy giờ nền văn học Phạn dần dần hưng thịnh lên (dẫn đến sự thịnh hành của Ấn Độ giáo về sau). Đến giai đoạn cuối của Cưu Ma La Cấp Đa (Kumāragupta), khoảng năm 554, Bắc Ấn bị Bạch hung nô xâm nhập, tức là nước Hephtalites được ghi ở trong sử Trung Quốc. Nước này không ngừng đến xâm lăng, làm cho thế nước ngày một yếu dần, rốt cuộc vào cuối thế kỷ V, Bắc Ấn rơi vào sự thống trị của Hephtalites. Tùy theo vận nước, Phật giáo Bắc Ấn cũng chịu sự tàn phá của Hephtalites, và bắt đầu bước vào tình thế suy yếu. Sau thời Cưu Ma La Cấp Đa, vương triều Cấp Đa bắt đầu phân hóa. Hai trung tâm lớn của Phật giáo Đại thừa ở Trung Ấn - Ma Kiệt Đà thuộc phía Đông và Ma Lạp Bà thuộc phía Tây, cũng do đó mà dần dần được hình thành.

Kinh điển của Phật giáo thời kỳ cuối có biên tập thành những kinh bộ lớn. Biên tập vào bộ Đại Bát nhã kinh có: Văn Thù Sư Lợi sở thuyết (Ma ha) Bát nhã Ba la mật kinh do Mạn Đà La Tiên (Mandra) và Tăng Già Bà La (Saṃghavarman) lần lượt dịch vào thời nhà Lương, tương đương với phần thứ bảy; Thắng thiên vương Bát nhã Ba la mật kinh do Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūnya) dịch vào thời Trần, tương đương với phần thứ sáu. Biên tập vào bộ Hoa nghiêm kinh có các bản dịch vào thời Tấn: phẩm Phật thuyết bất tư nghì (thứ 28) cho đến phẩm Ly thế gian (thứ 33) trong Hoa nghiêm kinh, chủ yếu nói về công đức của cõi Phật (hạnh Phổ Hiền). Biên tập vào bộ Đại bảo tích kinh có: Vô biên trang nghiêm hội (hội 2), Xuất hiện quang minh hội (hội 11) do Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci) dịch vào thời Đường, Hiền Hộ trưởng giả hội (hội 39) v.v. do Xà Ma Quật Đa (Jñānagupta) dịch vào thời Tùy. Đại Bồ tát tạng kinh do Huyền Trang dịch vào đời Đường cũng được biên tập thành Bồ tát tạng hội (hội 12) của bộ Đại bảo tích kinh. Tuy kinh được tập thành vào thời kỳ cuối, nhưng tư tưởng phần nhiều vẫn là của thời kỳ đầu. Bởi vì ngoài quyển thứ nhất (nói rõ về pháp Thanh văn) ra, mười chín quyển còn lại chỉ là sự biên tập của các kinh Đà La Ni Tự Tại Vương kinh, Mật Tích Kim Cang Lực Sỹ kinh, Vô Tận Ý kinh. Những kinh Đại bát Niết bàn kinh, Phương đẳng đại tập kinh, Đại Vân kinh được Đàm Vô Sấm (Dharmarakṣa) dịch vào thời Bắc Lương, đều là thuộc bộ lớn. Đại bát Niết bàn kinh ban đầu Đàm Vô Sấm dịch gồm 10 quyển, cùng với bản Phương đẳng Đại bát Nê hoàn kinh mà Nghĩa Tịnh đời Tấn tìm được ở thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) là đồng một bản. Ba mươi quyển sau là do Đàm Vô Sấm đi qua lại Tây Vực, khi đã tìm được và tiếp tục dịch ở Vu Điền. Mười quyển đầu, lấy việc Phật vào Niết bàn làm duyên khởi để nói bốn đức thường lạc ngã tịnh của Đại bát Niết bàn (mahāparinirvāṇa), trong kinh nói: “Ngã (ātman) được thế gian nói không tránh khỏi những hiểu nhầm, cho nên Phật nói vô ngã; thực ra vẫn là có ngã, bởi nhờ vào ngã mà nói Như Lai tạng”1. Ba mươi quyển sau là thông qua sự hội thông đính chính của hệ thống Bát nhã học (sẽ giải thích ở phần sau). Căn cứ vào “hiệu chính tựa sau”, “châu bản” của Đại phương đẳng đại tập kinh, gồm 11 phẩm: 1. Phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ tát, 2. Phẩm Bảo nữ, 3. Phẩm Bất thuấn, 4. Phẩm Hải huệ, 5. Phẩm Hư không tạng, 6. Phẩm Vô ngôn, 7. Phẩm Bất khả thuyết, 8. Phần Bảo tràng, 9. Phần Hư không mục, 10. Phẩm Bảo kế, 11. Phần Nhật mật (tạng)1. Chín phẩm trên được gọi là phẩm, còn lại ba phần được gọi là phần, nhưng trung gian lại có phẩm Bảo kế xen ở giữa phần. Phàm được gọi là phẩm đều thuyết minh rõ về hạnh Bồ tát và công đức của Phật, có ý nghĩa thông với Như Lai tạng. Song, phía sau của ba phần Bảo tràng, Hư không mục, Nhật tạng lại có dịch thêm các phần như Nguyệt tạng… Sau Bảo tràng phần, pháp nghĩa được nói có phần đơn điệu, khuynh hướng theo thông tục, thần bí hóa. Ngoài ra, có các bản thất dịch: Phật thuyết trưởng giả nữ Am Đề Giá sư tử hống liễu nghĩa kinh, Độ chư Phật cảnh giới quang nghiêm kinh (thời Tần); bản dịch đầu của Đàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci) vào năm đầu đời Ngụy, Như Lai trang nghiêm trí tuệ quang minh nhập nhất thiết Phật cảnh giới kinh v.v. đều tuyên nói bất không, hoặc nói đức nghiệp của Như Lai bất khả tư nghì.

1 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 12, trang 378a-379a.

1 Đàm Vô Sấm dịch, Đại phương đẳng đại tập kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 13, trang 8b.

Kinh điển Đại thừa thời kỳ cuối rõ ràng là xiển dương pháp môn Như Lai tạng, ngoài mười quyển phần đầu của Đại bát Niết bàn kinh ra, còn có:

1. Đại phương đẳng Như Lai tạng kinh, hiện tồn hai bản dịch của Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) thời Tấn và Bất Không (Amoghavajra) thời Đường. Bộ kinh này chịu sự dẫn khởi của tư tưởng Hoa nghiêm kinh. Hoa nghiêm kinh nói về biển Hoa Tạng (kusuma-tala-garbha) trang nghiêm thế giới của Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), thế giới và đức Phật đều ở trên hoa sen. Hoa tạng là thai tạng của hoa sen, hoa sen từ khi còn phong nhụy đến lúc nở, hạt sen nằm ở trong hoa, được bao bọc giống như sự bao bọc của thai tạng. Đợi đến khi cánh hoa rơi xuống, chỉ còn lại Như Lai (hạt sen) ở trên đài sen, như thế là hoàn thành quá trình xuất hiện. Như Lai tạng kinh chính là lấy hoa sen đã tàn cánh, trên đài sen có Phật ngự tọa làm duyên khởi, dùng rất nhiều những thí dụ để nói rõ Như Lai tạng1.

1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương đẳng Như Lai tạng kinh, quyển 16. Đại chính tạng, quyển 457ab.

2. Đại pháp cổ kinh, do Cầu Na Bạt Đà La (Guṇabhadra) dịch vào đời Tống, bộ kinh này có liên quan với bộ Pháp hoa kinh: phần đầu Pháp hoa kinh nói “hội ba thừa về nhất thừa”, hai thừa cùng chứng trí tuệ Phật - nhất thừa (ekayāna), nói thật tướng gần gũi với Bát nhã. Nhưng “khai tích hiển bổn” (Tích môn và Bổn môn), tháp Phật Đa Bảo (Prabhūtartna) đã nhập Niết bàn từ dưới đất vọt lên, hiện ra giữa không trung. Đức Thế Tôn nói: “Từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng kỳ kiếp, thường trụ bất diệt”2; ba lần biến hóa cõi Tịnh độ; mười phương Bồ tát được Phật giáo hóa đến tập hội, nghĩa là Như Lai (tathāgata) thường trụ. Pháp cổ kinh đề cập đến Hóa thành dụ, Cùng tử dụ1 của Pháp hoa kinh; năm vị - sữa,… đề hồ2 được dụ cho Phật tính ở trong Đại bát Niết bàn kinh; nói Như Lai tạng với nhất thừa.

2 Cưu Ma La Thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 9, trang 42c.

1 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Đại pháp cổ kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 9, trang 296ab; 297bc.

2 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Đại pháp cổ kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 9, trang 295c; 296a.

3. Ương Quật Ma La kinh, cũng do Cầu Na Bạt Đà La dịch. Trong Tạp A hàm trình bày, Ương Quật Ma La - Ương Cù Li Ma La (Aṅgulimāla) cầm kiếm rượt theo đòi giết đức Thế Tôn, đuổi mãi mà cũng không đuổi kịp, vì thế luôn miệng quát: “Dừng lại! Dừng lại”. Đức Phật trả lời: “Ta thường trụ (dừng), chỉ có bản thân ngươi không trụ (dừng) thôi”3.

3 Tạp A hàm kinh, quyển 37. Đại chính tạng, quyển 2, trang 280c; Ương Quật Ma La kinh 86, thuộc Trung bộ kinh, Nam truyền, quyển 11 thượng, trang 133.

Tư tưởng Như Lai thường trụ của Đại thừa cũng lấy câu chuyện này làm duyên khởi, tuyên nói pháp môn Như Lai tạng của Như Lai thường trụ. Đại bát Niết bàn kinh, Đại pháp cổ kinh, Ương Quật Ma La kinh, Đại Vân kinh đều có nói đến khi chính pháp sắp diệt, pháp trụ tại phương Nam.

4. Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh, cũng là bản dịch của Cầu Na Bạt Đà La. Thắng Man (Śrīmālā) xuất gia, đến nước A Du Đà (Ayodhyā) nói pháp môn nhất thừa, Như Lai tạng. A Du Đà là địa khu có nền văn hóa rất phát triển của vương triều Cấp Đa, truyền thuyết Du già sư địa luận của Vô Trước được truyền bá ở vùng này. Thắng Man kinh phân thành mười bốn chương, nói đến sự quan hệ giữa Như Lai tạng và thức sinh diệt1.

1 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 222b.

5. Bất tăng bất giảm kinh, được Bồ Đề Lưu Chi dịch vào năm đầu nhà Ngụy. Mấy bộ này là kinh điển xiển dương về Như Lai tạng, nói lên vấn đề trong chúng sinh vốn có Như Lai. Tư tưởng này tuy không có trong Phật pháp và Phật pháp Đại thừa thời đầu, nhưng thuyết Như Lai tạng có sự ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đối với Phật giáo về sau! Còn có Giải thâm mật kinh, A tỳ đạt ma Đại thừa kinh, Nhập Lăng già kinh, Đại thừa mật nghiêm kinh, Phật địa kinh, sẽ được phân tích trình bày riêng.

Thuyết Như Lai tạng là luận về Phật đạo của Phật pháp Đại thừa, là thuyết thông tục thích ứng với thế tục mà hưng khởi. Các kinh Đại thừa như Bát nhã, chủ yếu xiển dương Bồ tát hạnh, lấy việc giải ngộ Bát nhã để dẫn đường. Sự thể ngộ của Bát nhã là Niết bàn của Phật pháp, có tên gọi khác là pháp tính, chân như, pháp giới. Chân như là không lìa tất cả mà siêu việt lên tất cả. Bởi siêu việt tất cả nên tính không được ứng dụng vào trong các kinh điển khác, được gọi là Không tương ưng kinh. Song, nghĩa ban đầu của Bát nhã kinh là tự tính không (svabhālva-śūnyatā). Tự tính không, hình dung tự tính (svabhālva) chẳng rơi vào danh, tướng, phân biệt - thể ngộ chân thật, không phải là không có thắng nghĩa (paramārtha) tự tính. Do ngăn chặn và xa lìa những hư vọng chấp trước, đối trị thuyết thật hữu của các bộ phái, mà phát triển tư tưởng “vì không có tự tính nên không”1; đây là tầng lớp cao, nhưng cũng dễ dàng bị hiểu sai. Các kinh Bát nhã v.v. nói “hết thảy pháp không tính”, “hết thảy pháp vô sinh”, “hết thảy pháp thanh tịnh”, trọng về sự thể ngộ Bát nhã, phương tiện thuyết minh, có khuynh hướng chứng được lý tính, nhưng cũng có khuynh hướng thuyết minh về khả năng chứng trí tuệ. Như đức Thế Tôn sau khi chứng ngộ Vô thượng chính đẳng chính giác (anuttara-samyaksaṃbodhi), do chúng sinh khó có thể hiểu được, cho nên Ngài từng im lặng không muốn thuyết pháp. Pháp sâu xa mà khó hiểu, A hàm kinh nói là duyên khởi và Niết bàn (pratītya-samutpāda), nhưng Tiểu phẩm Bát nhã kinh lại nói: “Bát nhã Ba la mật sâu xa, khó hiểu khó biết, do nghĩa ấy, Ta muốn im lặng không thuyết pháp”2. Lại nói: “Chư Phật nương vào pháp này,… pháp này là Bát nhã Ba la mật”3. Bát nhã được nói trong Bát nhã kinh là trí tuệ Bồ tát, nếu thành Phật thì chuyển gọi là trí tuệ Phật. Pháp hoa kinh lấy trí tuệ Phật làm chủ yếu, cho nên nói: “Trí tuệ Ta chứng đắc, vi diệu hàng bậc nhất, chúng sinh các căn chậm, tham vui si làm mù, các hạng người như thế, làm sao mà độ được?… Ta thà không nói pháp, mau vào cõi Niết bàn, liền nhớ Phật quá khứ, thực hành sức phương tiện, Ta nay chứng được đạo, cũng nên nói ba thừa”1. Chúng sinh khó mà thấu hiểu tin nhận là ở chỗ trí tuệ của Phật, cũng chính là diệu pháp - chính pháp. Trong kinh nói: “Bởi nói trí tuệ Phật, chư Phật mới ra đời”; “Như Lai sở dĩ ra đời, là vì nói trí tuệ Phật”2: đây chính là vì “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”. Hoa nghiêm kinh nói rộng về đại hạnh của Bồ tát, nhưng cũng rất chú trọng vào vấn đề trí tuệ Phật. Không hai không tướng, Niết bàn sâu xa không thể nghĩ bàn, kinh Đại thừa khuynh hướng theo trí tuệ Phật và Bồ tát, thực sự cũng có nói đến ở trong Bát nhã kinh, như:

1 Tham duyệt Ấn Thuận, Tham cứu về Không, (sđd), chương 3, trang 180-186.

2 Cưu Ma La Thập dịch, Tiểu phẩm Bát nhã kinh, quyển 6. Đại chính tạng, quyển 8, trang 562b; Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh, quyển 16. Đại chính tạng, quyển 8, trang 335a, theo Nhất thiết chủng trí của Phật nói “nhất như không hai không khác”.

3 Cưu Ma La Thập dịch, Tiểu phẩm Bát nhã kinh, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 8, trang 558b; Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh, quyển 14. Đại chính tạng, quyển 8, trang 326a.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 9, trang 9c.

2 Cưu Ma La Thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 9, trang 8a-10a.

“Đệ nhất nghĩa (thắng nghĩa) cũng gọi là tính không, cũng gọi là đạo của chư Phật”3.

3 Cưu Ma La Thập dịch, Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh, quyển 14. Đại chính tạng, quyển 25, trang 403a.

Đạo của chư Phật là cách nói khác đi của “quả vị Vô thượng Chính đẳng Bồ đề của chư Phật chứng đắc”1, có cùng một nội dung với thắng nghĩa và tính không. Cho nên Trí độ luận nói: “Thật tướng của các pháp có rất nhiều tên gọi: hoặc nói không, hoặc nói tất cánh không, hoặc gọi là Bát nhã Ba la mật, hoặc gọi là Vô thượng chính đẳng chính giác”2. Pháp Đại thừa có từ Niết bàn Thanh văn, nhưng khuynh hướng đến (Bồ tát cùng) Phật quả là không giống với Thanh văn. Pháp Đại thừa vốn xuất phát từ “lòng thương nhớ vĩnh hằng của chúng đệ tử đối với đức Phật” sau khi đức Phật vào Niết bàn, tu hạnh Bồ tát, cầu thành quả vị Phật Đẳng chính giác, cho nên trí tuệ Phật được chú trọng trong lý tưởng Phật đạo, việc này cũng có thể tồn tại.

1 Huyền Trang dịch, Đại Bát nhã Ba la mật kinh, phần hai, quyển 474. Đại chính tạng, quyển 7, trang 399c.

2 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 79. Đại chính tạng, quyển 25, trang 618b.

Phật Bồ đề là rốt ráo viên thành Phật quả của Bát nhã Ba la mật. Trong phẩm Thập địa của Hoa nghiêm kinh nói: “Sơ địa chứng vào trí địa, ngày càng thù thắng lên”. Trong đó có lấy thí dụ luyện kim, thí dụ cách giữ ngọc báu Ma Ni, để thí dụ cho việc phát tâm Bồ đề rộng lớn (bodhi-citta), từ Sơ địa đến Thập địa, tiến lên thành Phật3. Tuy đây là lộ trình của Bồ tát khi vừa phát khởi tâm Bồ đề đến lúc viên mãn, nhưng lại ám chỉ cho Bồ đề (như vàng, như châu) là xưa nay vốn như thế, ngay như Duy Ma Cật kinh nói: “Chẳng phải nói Bồ đề có quá khứ, hiện tại và vị lai”1. Phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương của Đại tập kinh, có nêu ra thí dụ viên châu lưu ly xanh trị thủy (thanh lọc nước); phẩm Hải Huệ Bồ tát, có nêu dụ tịnh bảo châu2: đều biểu thị cho Bồ đề báu, trải qua sự thanh lọc mà hoàn toàn thanh tịnh. Kinh Đại thừa nói hết thảy pháp không hai không khác, Hoa nghiêm kinh nói hết thảy pháp có ở trong nhau. Như vậy, ở trong địa vị chúng sinh vốn có Phật Bồ đề, chỉ là chưa hiển hiện ra mà thôi. Như Hoa nghiêm kinh nói:

3 Xem Ấn Thuận, Như Lai tạng chi nghiên cứu, Chính Văn xuất bản xã, Dân quốc năm 81 (1992), chương 4, trang 100-101.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Duy Ma Cật sở thuyết kinh, quyển trung. Đại chính tạng, quyển 14, trang 548c.

2 Phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương (phẩm 2), Đàm Vô Sấm dịch, Đại phương đẳng đại tập kinh. Đại chính tạng, quyển 13, trang 21c; phẩm Hải Huệ Bồ tát (phẩm 5), (Đ13) trang 47c-50c.

“Thí như có một quyển kinh, nếu đem tất cả những gì có trong một tam thiên đại thiên thế giới, ghi chép hết vào trong đó... quyển kinh ghi chép hết việc trong tam thiên đại thiên thế giới v.v. ấy, ở trong một hạt vi trần; hết thảy vi trần cũng đều như vậy”.

“Phật tử! Trí tuệ của Như Lai là trí tuệ vô tướng, trí tuệ vô ngại, (trí tuệ này) có đầy đủ trong thân mỗi chúng sinh, nhưng những chúng sinh ngu si bị che lấp bởi những vọng tưởng điên đảo, không thấy không biết, không sinh tín tâm... Hoàn toàn xa lìa sự trói buộc của vọng tưởng điên đảo cấu uế, sẽ thấy trọn vẹn trí tuệ của Như Lai ở trong bản thân mình, không khác với Phật”1.

1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, phẩm Bảo vương Như Lai tính khởi, quyển 32. Đại chính tạng, quyển 9, trang 623c, 624a.

Thí dụ về tam thiên đại thiên thế giới nằm trong một hạt vi trần, biểu thị chúng sinh vốn có trí tuệ Phật - Vô thượng Bồ đề, chỉ vì vọng tưởng điên đảo mà không thể tự giác ngộ được. Nếu như đã xa lìa những vọng tưởng điên đảo ấy rồi, thì sẽ được trí tuệ viên mãn của Như Lai, trong bản thân mình vốn có đầy đủ trí tuệ ấy. Đoạn kinh văn này, thông thường dẫn ra để giải thích Như Lai tạng, nhưng chỉ nói trí tuệ của Phật xưa nay vốn đầy đủ trong chúng sinh, ý nghĩa lại thông với những kinh của Đại thừa, như Bát nhã kinh, Pháp hoa kinh, nên vẫn không hiển bày được sự đặc sắc của Như Lai tạng.

Kinh Đại thừa nói “pháp giới”, như các dòng khi đã đổ vào biển rồi thì không có sự sai biệt, tương đồng với chân như, tính không. Trong kinh nói:

“Này thiên tử! Thí như ở trong vô sắc tượng mà đều thấy hết các sắc, các sắc cũng chẳng có, đồng như hư không. Như vậy, này thiên tử! Pháp giới là rất thanh tịnh mà không có sự tạp uế. Như soi gương thấy hình khuôn mặt trong gương, Bồ tát đều thấy tất cả pháp. Như vậy các pháp cùng với pháp giới đồng thanh tịnh như không”2.

2 Pháp Hộ dịch, Tu Chân thiên tử kinh, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 15, trang 111a.

Trong thí dụ này, pháp giới như hư không, như gương sáng; hết thảy các pháp như sắc tượng ở trong hư không, như hình ảnh ở trong gương. Nói lên rằng giữa sắc và hư không không có sự sai khác, hình bóng không rời gương sáng mà tồn tại. Pháp giới cùng hết thảy sắc đều cùng là thanh tịnh vắng lặng như không, nhưng biểu hiện ý nghĩa hết thảy pháp đều nương vào pháp giới mà có; giới (dhātu) là có thể giải thích là nhân, y, bản tính. Có sự liên quan đến kinh điển của Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśīr), tức là xem trọng pháp giới, đồng thời đưa ra rất nhiều loại pháp giới. Như trong Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng kinh được Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn nói: “Nhân chủng (chúng sinh giới), pháp giới, hư không giới không phải là hai”1. Bài tụng “Pháp giới bất hoại” ở cuối kinh lại nêu ra: “Ngã chủng, pháp giới, nhân sĩ (chúng sinh giới), tuệ cương, pháp giới, trần lao giới, hư không giới… tất cả đều bình đẳng”2. Chủng và cương, căn cứ theo bản dịch khác của Đại phương quảng bảo khiếp kinh, thì đều là cách dịch khác của giới. Ngã giới (ātman-dhātu), chúng sinh giới (sattva-dhātu), cùng pháp giới, Tuệ - Bát nhã giới cùng nêu, đều bình đẳng không hai. Ngã là cách gọi khác của chúng sinh, ở trong thần giáo cho là chủ thể của sinh mạng. Trong Phật pháp giải thích là sự hòa hợp thành một của thân và tâm, nhưng không có thực thể, chỉ là giả danh. Ở đây được gọi là ngã giới, chúng sinh giới cùng với pháp giới là không hai, điều này hiển nhiên không phải cái giả danh của thế tục, mà mang nghĩa sâu xa. Văn Thù Bát nhã kinh đã nói đến: “Chúng sinh giới, Như Lai giới, Phật giới, Niết bàn giới; pháp giới, vô tướng giới, Bát nhã Ba la mật giới, không sinh không diệt giới, bất tư nghì giới, Như Lai giới, ngã giới đều bình đẳng không hai”1. Như Lai giới (tathāgata-dhātu), Phật giới (budha-dhātu) cùng chúng sinh giới, ngã giới bình đẳng, đồng nghĩa với giới được nói trong Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng kinh ở trên. Song, giới có nghĩa là giới tạng, chúng sinh giới bình đẳng với Như Lai giới, nói như thế có thể gợi lên ý nghĩa chúng sinh vốn có công đức của Như Lai. Đồng thời, Như Lai là đức hiệu của Phật, cũng là tên khác của thần ngã thế gian, như Trí độ luận nói: “Hoặc lấy tên Phật gọi là Như Lai, hoặc tên chúng sinh gọi là Như Lai”2. Ngã giới và Như Lai giới cùng với pháp giới không hai, có thể được giải thích là chân ngã, như Thanh tịnh Tỳ ni phương quảng kinh nói:

1 Pháp Hộ dịch, Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 14, trang 460c.

2 Pháp Hộ dịch, Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 14, trang 456c-466a.

1 Tăng Già Bà La dịch, Văn Thù Sư Lợi sở thuyết Bát nhã Ba la mật kinh. Đại chính tạng, quyển 8, trang 733c-734a-737a.

2 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 55. Đại chính tạng, quyển 25, trang 454b.

“Vật tuy rất nhiều chủng loại, nhưng nó không khác với hư không. Như vậy, một pháp tính (giới), một (chân) như, một thật tế, song chúng sinh có rất nhiều hình tướng, mỗi mỗi tự giữ lấy cảnh giới của mình, tự thể ấy biến ra trăm nghìn ức chủng loại hình sắc khác nhau”1.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Thanh tịnh Tỳ ni phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 24, trang 1080c.

“Tự thể ấy biến ra trăm nghìn ức chủng loại hình sắc khác nhau”, bản khác Tịch Điều Ý sở vấn kinh dịch thành: “Ngã ấy phân hóa thành muôn nghìn sắc (thân)”2. Tự thể - ngã, cùng pháp giới không hai, mà biến hiện ra cảnh địa ngục… cảnh Phật, điều này hiển nhiên là được thế gian truyền lại, là cái tự ngã trong (mười pháp giới) lưu chuyển với hoàn diệt. Chân như, pháp giới của Đại thừa, vốn là tên khác của Niết bàn; ở trong không hai không khác ấy dần dần chú trọng tới Phật quả, rồi lại đưa cái chân ngã bị phủ định trong Phật pháp vào trong Đại Bát nhã kinh sơ phần - Bát nhã kinh gồm mười vạn bài tụng. Đại Bát nhã kinh sơ phần dẫn dụng năm pháp tạng của Độc tử bộ (Vatsīputrīya); tạng thứ năm là Bất khả thuyết, hệ thống Độc tử bộ căn cứ vào uẩn, xứ, giới mà thi thiết nên, nói rõ ngã - Bổ đặc già la (pudgala) của bất khả thuyết là thường hay vô thường, là một hay khác. Lại khác hẳn với Bát nhã thường lệ, lập ra “thật hữu Bồ tát”. Thế nào là thật hữu Bồ tát? Thế Thân (Vasubandhu) giải thích: Thật có không tính là thể của Bồ tát”; đây chính là lấy chân như làm ý nghĩa của “đại ngã”3. Khuynh hướng phát triển của Đại thừa thời kỳ đầu rốt cuộc dẫn đến sự xuất hiện thuyết Như Lai tạng của Đại thừa thời kỳ cuối.

2 Pháp Hải dịch, Tịch Điều Ý sở vấn kinh. Đại chính tạng, quyển 24, trang 1086c.

3 Tham duyệt Ấn Thuận, Sơ kỳ Đại thừa (sđd), chương 10, trang 692-699.

Sự hưng khởi của thuyết Như Lai tạng là sự thông tục phổ cập hóa của Phật pháp Đại thừa. Như Lai, cũng là tên khác của thần ngã thế gian; tạng là thai tạng, nguồn gốc xa xôi là thần thoại thai vàng ở trong Lê câu phệ đà (hiraṇya-garbha). Như Lai tạng là trong thân chúng sinh có Như Lai, cũng có thể nói vốn là Như Lai, chỉ là giống như vẫn còn nằm trong thai, chưa được đản sinh ra mà thôi. Đại thừa lấy việc thành Phật - Như Lai làm mục tiêu, cho rằng Như Lai vốn đầy đủ, căn cứ vào Phật pháp mà nói, sẽ cảm thấy rất ly kỳ là việc không tránh khỏi. Nhưng đối với con người bình thường mà nói, như vậy rất phù hợp với thường tình của thế gian, họ cảm nhận rằng trong thân chúng sinh có Như Lai, từ đó họ có thể thấy được việc thành Phật là không khó, rất có tác dụng trong việc động viên nhân tâm, tinh tấn tu trì và thực hiện diệu dụng. Được gọi là “tạng”, lại có sự phối hợp chặt chẽ với truyền thống thần học của Ấn Độ, đây là tư tưởng rất thông tục và lại dễ dàng được sự tin nhận của người đời. Truyền thuyết nói, ở vùng Tỳ Độ Gia Na Kiệt La (Vidyānagara) thuộc Nam Ấn, rất nhiều các đồng nữ đều biết ngâm vịnh ca xướng các kệ tụng của Như Lai tạng1.

1 Tāranātha, Ấn Độ Phật giáo sử, tự bản, Uyển Nhã của Nhật Bản dịch, trang 139.

Tư tưởng Như Lai tạng và ngã thích hợp với thường tình của con người, thông thường mọi người đều vui vẻ đón nhận, nhưng đối với Phật pháp mà nói, thì đó là một vấn đề rất lớn được đặt ra. Trong bộ phái Phật giáo có lập ra “bất khả thuyết ngã”, “thắng nghĩa ngã”, nhưng chỉ vì thuyết minh về sự ghi nhớ và sự tác nghiệp thọ báo ở trong lưu chuyển, mà không phải là tính như thật của sở mê và sở chứng. Đồng thời, (thai) tạng và ngã đều là xuất phát từ trong giáo điển của Bà la môn (Brahmanism) giáo, đây không phải là hướng đến việc thừa nhận thần giáo Ấn Độ sao? Theo kinh nói, đương nhiên là không có chuyện ấy, bởi ngã là do Phật nói trong quá khứ được truyền lại, thế gian tuy nghe nói có ngã nhưng họ làm sao hiểu được chân nghĩa của ngã. Hiện tại nói (trên địa vị chúng sinh) Như Lai tạng ngã tức là (trên quả vị Phật) ngã của thường lạc ngã tịnh, đó mới là chân ngã1. Trong Lăng già kinh cũng nói một cách rõ ràng rằng: “Nói Như Lai tạng là vì nêu ra sự chấp ngã của ngoại đạo”2. Vì nhiếp hóa ngoại đạo, cho nên nói Như Lai tạng ngã, Như Lai tạng ngã có mối quan hệ với tôn giáo cố hữu của Ấn Độ. Theo Phật pháp nói, đây là diệu phương tiện để thích ứng với thế gian, nhưng thông thường mọi người sợ rằng có điểm không phân biệt được giữa thần giáo và Phật pháp. Thực ra trên phương diện lưu chuyển, mức độ dung nhiếp của Phật pháp Đại thừa đối với thần giáo Ấn Độ ngày một sâu thêm. Đại thừa thời kỳ cuối nghiêng về Như Lai, cho nên từ “thiên Bồ tát” của Đại thừa thời đầu tiến triển đến “thiên Như Lai”, như trong Lăng già kinh nói:

1 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 8. Đại chính tạng, quyển 12, trang 412bc.

2 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Lăng già A bạt đa la bảo kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 16, trang 489b.

“Này Đại Huệ! Ngã cũng như vậy, ở trong thế giới Ta bà, ngã có ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, phàm phu tuy nói nhưng không biết đó là tên khác của Như Lai. Đại Huệ! Hoặc có chúng sinh biết đến Như Lai, có người biết đến Tự Tại,… có người biết đến Tiên nhân, biết đến Phạm Thiên, biết đến Na La Diên, biết đến Thắng, biết đến Ca Tỳ La, biết đến cứu cánh, biết đến A Lợi Tra Ni Di, biết đến Nhật, biết đến Nguyệt, biết đến Bà La Na, biết đến Tỳ Gia Sa, biết đến Đế Thích,… biết đến ý sinh thân. Này Đại Huệ! Rất nhiều các tên gọi như thế, Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri ở trong thế giới Ta bà và các thế giới khác, ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu,… nhưng các hạng phàm phu không hay biết đến, để rơi vào nhị biên, song đều cung kính cúng dường Ta”1.

1 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Lăng già A bạt đa la bảo kinh, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 16, trang 506; Thật Xoa Nan Đà dịch, Đại thừa nhập Lăng già kinh, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 16, trang 615bc.

Theo Lăng già kinh nói: Danh hiệu của Như Lai (Phật, không nhất định là đức Thế Tôn), là vô cùng nhiều, ngoài Phạm Thiên, Đế Thích ra, còn có Tự Tại (Īśvara) là Thấp Bà Thiên, Na La Diên (Nārāyaṇa) cũng chính là thần Vi Nữu (Viṣṇu); Nhật là Nhật Thiên; Nguyệt là Nguyệt Thiên, Ba La Na (Varuṇa) hoặc dịch là Nguyệt Tinh: đây đều là những vị thần được thần giáo Ấn Độ sùng bái. Ca Tỳ La (Lapilā), truyền thuyết là người sáng tạo ra phái Số luận, Tỳ Gia Sa (Vyāsa) - Quảng Bác tiên nhân, truyền thuyết là người biên tập sử thi Ma ha Bà la đa (Mahābhārata): đây đều là những tiên nhân trong truyền thuyết thần giáo của Ấn Độ. Các vị thần và tiên nhân của Ấn Độ đều là tên khác của Như Lai. Mọi người thường hay cung kính cúng dường Phạm Thiên, nhưng không biết chính là Như Lai. Tư tưởng thiên thần (cùng tiên nhân) và Như Lai không hai vô cùng rõ ràng. Lại như trong phần Bảo tràng của Đại tập kinh, lúc nói đến Như Lai vào thành, “nếu có người phụng thờ con ngựa, tức thấy ảnh tượng của con ngựa... có người phụng thờ cá, rồng, rùa, ba ba, Phạm Thiên, Tự Tại Thiên, Kiền Đà Thiên, Bát Tý Thiên, Đế Thích, A Nậu La,… Tứ thiên vương, Dạ xoa, Bồ tát, Như Lai, tùy theo sự thờ phụng của từng người mà thấy được họ”1. Trong tín ngưỡng bất đồng của các tôn giáo, Như Lai là vị thần mà họ phụng thờ mỗi ngày. Đây là vị thần chung, cũng chính là hết thảy thần là một thần, giống với ý nghĩa Như Lai trong Lăng già kinh. “Thiên Phật không hai”, không chỉ là lý luận, mà còn là sự tín ngưỡng. Khi tư tưởng này phát triển thì Phật giáo Ấn Độ đạt đến cảnh giới càng thần bí.

1 Đàm Vô Sấm dịch, Đại phương đẳng đại tập kinh, phần Bảo tràng (phần 9). Đại chính tạng, quyển 13, trang 138b; Ba La Phả Mật Đa La dịch, Bảo tinh Đà la ni kinh, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 13, trang 555ab.