• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ - Tập 1
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 23
  • Sau

2. Sự Đặc Sắc Của Tư Tưởng Như Lai Tạng Ngã

Từ chúng sinh và Như Lai không hai, dung nhiếp trong nhau mà nói hết thảy chúng sinh đều có đủ trí tuệ của Như Lai, đó là sự đặc sắc của Hoa nghiêm kinh. Song, nêu ra đặc sắc của Như Lai tạng một cách rõ ràng là Như Lai tạng kinh, phần đầu của Đại Bát nhã kinh, Đại pháp cổ kinh, Ương Quật Ma La kinh, Thắng Man kinh, Bất tăng bất giảm kinh v.v. Thời gian ra đời của những bộ giáo điển Như Lai tạng (tathāgata-garbha) này chắc chắn có trước sau khác nhau. Như Lai tạng kinh v.v. đưa ra rất nhiều thí dụ, còn Thắng Man kinh và Bất tăng bất giảm kinh thì nghĩa lý rất rõ ràng, có đặc sắc của việc “luận kinh”. Thuyết Như Lai tạng chú trọng vào đại Niết bàn (mahā-parinivāṇa), thường lạc ngã tịnh của đức Như Lai, từ Như Lai thường trụ diễn dịch đến hết thảy chúng sinh có Như Lai tạng, được biểu hiện ở phần đầu mười quyển của Đại bát Niết bàn kinh. Hai kinh Thắng Man và Bất tăng bất giảm tiến thêm một bước là trên cơ sở Như Lai tạng mà thành lập ra hết thảy pháp - sinh tử và Niết bàn, chúng sinh và (Phật) pháp thân (Dharma-kāya). Lấy Như Lai tạng (giới) chân thật thường trụ làm y chỉ, và lấy A lại da thức (ālayanijñāna) của hư vọng sinh diệt để làm y chỉ, tức là có sự đối lập lẫn nhau. Nương vào A lại da thức là từ ý thức tham cứu đến chỗ sâu xa vi tế mà thành lập ra. Như phẩm Ý địa trong Du già sư địa luận nói: “Tâm, nghĩa là tính y chỉ của tất cả chủng tử (nghĩa là hạt giống huân tập và hiện hành), là tính của sở tùy tùng thuộc y chỉ (các pháp giữ gìn hạt giống huân tập và hiện hành), thể sở chấp thọ, tự thể là nhiếp lấy A lại da thức”. Sau đó nói đến sinh và tử; nói đến “hết thảy hạt giống của thức này, nếu là pháp bát Niết bàn, tất cả hạt giống đều có đầy đủ, còn không phải pháp bát Niết bàn, thì sẽ thiếu ba thứ hạt giống Bồ đề. Tùy vào chỗ sinh khởi ở trong tự thể, các thể hạt giống khác đều tùy thuộc”1. Sinh tử tạp nhiễm cùng với Niết bàn thanh tịnh, Phật pháp vốn là nương vào duyên khởi để lập ra tất cả các pháp ấy, Du già cũng vẫn nương theo duyên khởi mà lập. Thuyết Như Lai tạng hiển lộ rõ ràng chúng sinh vốn có công đức của Như Lai, Thắng Man kinh v.v. được truyền ra muộn hơn, cũng nói y trụ (địa), có thể là chịu ảnh hưởng Du già học thời kỳ đầu, xưa nay chuyên trọng vào việc khế chứng sâu xa, chuyên trọng về việc niềm tin của quả đức, như thế đối với thể hệ Phật pháp là chưa được hoàn mãn.

1 Huyền Trang dịch, Du già sư địa luận, quyển 1-2. Đại chính tạng, quyển 30, trang 280b-282a-284ab.

Như Lai tạng kinh nêu ra chín loại thí dụ để nói về Như Lai tạng: 1. Hoa héo có Phật, 2. Bầy ong vây quanh mật, 3. Cám trấu của gạo tẻ lùn, 4. Vàng thật nơi bất tịnh, 5. Kho báu của nhà nghèo, 6. Hạt giống, 7. Tượng vàng trong vật cũ, 8. Bần nữ mang thai luân vương, 9. Tượng vàng trong khuôn đúc1. “Hoa héo có Phật” tức là nói hoa sen héo rụng được Phật hóa hiện, ở trong thai tạng của hoa có vô lượng đức Như Lai, đây là thí dụ căn bản của Như Lai tạng. Như Lai tạng ở trong thân chúng sinh, như kinh nói2:

1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương đẳng Như Lai tạng kinh. Đại chính tạng, quyển 16, trang 457b, 459b, 461b, 464b.

2 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương đẳng Như Lai tạng kinh. Đại chính tạng, quyển 16, trang 457bc, 458b, 458c, 459a.

“Ở trong tất cả các phiền não tham dục, sân hận, si mê của chúng sinh, có trí Như Lai, có mắt Như Lai, có thân Như Lai, kiết già phu tọa, nghiễm nhiên bất động... có Như Lai tạng thường không nhiễm ô, đức tướng tròn đầy, như Ta không khác”.

“Tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, đại pháp bảo tạng, đều nằm trong thân ấy”.

“Như Lai tạng ấy mát mẻ không nóng bức, nơi hội tụ của đại trí tuệ, diệu tịch Nê hoàn, gọi là Như Lai Ứng cúng Đẳng chính giác”.

“Phật được cất giấu ở trong thân, đầy đủ các tướng tốt vẻ đẹp”.

Như Lai tạng là tri kiến, lực, vô sở úy v.v. nơi hội tụ của trí tuệ của Như Lai được hàm chứa trong thân chúng sinh, cũng là thân Như Lai có đủ các tướng (ba mươi hai tướng) tròn đầy, ngồi kiết già, không khác gì Phật. Như Lai tạng như thế, chẳng trách trong Lăng già kinh nêu ra những nghi vấn mà mọi người thông thường đặt ra: đây chẳng phải là thần ngã (ātman) sao?

Như Lai tạng ngã, Đại bát Niết bàn kinh (mười quyển đầu) là từ Như Lai thường trụ ở trong đại bát Niết bàn mà nói ra. Đại bát Niết bàn của Như Lai là Niết bàn thường lạc ngã tịnh, là pháp thân thường trụ, là thọ mạng vô lượng. Thường trụ là siêu việt thời gian, nhưng cũng không lìa thời gian, bởi bất cứ thời gian nào cũng như vậy. Từ Như Lai thường trụ dẫn ra chúng sinh vốn có Như Lai, chính là Như Lai tạng ngã. Như Lai tạng ngã được nói trong kinh1:

1 (1) Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 7. Đại chính tạng, quyển 12, trang 407ab; (2) Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 2, Đại chính tạng, quyển 12, trang 377bc. (3) Cầu Na Bạt Đà La, Đại pháp cổ kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 9, trang 297a-296c. (4) Cầu Na Bạt Đà La, Ương Quật Ma La kinh, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 2, trang 539c-540a.

1. “Phật pháp có ngã, tức là Phật tính”; “ngã ấy nghĩa là Như Lai tạng. Hết thảy chúng sinh đều có Phật, đó là nghĩa của ngã”.

2. “Ngã ấy nghĩa là Phật”; “ngã ấy gọi là Như Lai”.

3. “Nếu cần phương tiện, diệt trừ phiền não cấu uế, như thế mới được ngã”; “thường trụ an lạc, thì hẳn có ngã”.

4. “Tất cả chúng sinh đều có Như Lai tạng ngã,… do đoạn hết tất cả phiền não nên thấy được thế giới ngã”.

Theo Đại phương đẳng Như Lai tạng kinh, chúng ta thấy rằng: Phật tính (Buddha-dhātu: Phật giới), Phật tạng (Buddha-garbha), Như Lai tính - Như Lai giới (Tathāgata-dhātu) đều là những tên khác của Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Như Lai tạng (Phật tính), lìa tất cả phiền não, hiển lộ pháp thân của Như Lai, tức cũng chính là “thấy ngã”, “đắc ngã”; ngã chính là tên khác của Như Lai. Từ quả vị Niết bàn của Như Lai mà nói đến Như Lai tạng ngã (hoặc Như Lai tạng giới) của địa vị chúng sinh, ngã là ngã trong sinh tử lưu chuyển và ngã trong Niết bàn hoàn diệt là không hai không khác, bởi “chúng sinh và Phật không hai”. Như trong Bất tăng bất giảm kinh nói:

“Chúng sinh giới tức là Như Lai tạng. Như Lai tạng tức là pháp thân... Pháp thân này, là chỗ bó buộc của phiền não vô biên như cát sông Hằng trong đời quá khứ, từ đời vô thỉ đến nay, tùy thuận theo thế gian, trôi dạt theo ba đào, tới lui trong sinh tử, nên gọi là chúng sinh”. “Pháp thân này đã chán ghét xa lìa tất cả sinh tử phiền não của thế gian,… tu hạnh Bồ đề, gọi là Bồ tát”. “Pháp thân này, lìa tất cả phiền não, kiết sử, triền phược, tất cả khổ quá khứ,… lìa tất cả chướng, lìa tất cả ngại, ở trong tất cả pháp được sức tự tại, gọi là Như Lai”1.

1 Bồ Đề Lưu Chi, Bất tăng bất giảm kinh. Đại chính tạng, quyển 16, trang 467ab.

Chúng sinh (sattva), Bồ tát (bodhisattva), Như Lai (tathāgata) tuy có ba tên khác nhau, nhưng thực ra cũng chỉ là pháp thân, cũng chính là Như Lai tạng ngã. Như Lai tạng là Như Lai giới, cho nên trong kinh nói “một giới”1. Phật pháp nói vô ngã, mà hiện tại ra sức triển khai Như Lai tạng ngã, rốt cuộc ngã là gì? Đại bát Niết bàn kinh nói: “Ngã ấy là sao? Nếu pháp là thật, là chân, là thường, là chủ, là y, tính của nó không đổi khác, đó gọi là ngã”2. Định nghĩa như thế thì dường như rất gần với ngã là thường, là lạc, là trí được nói trong Áo nghĩa thư (Upaniṣad). Tuy nhiên, Niết bàn kinh cho rằng: “Ngã, được đức Phật nói trong quá khứ, do bởi truyền nói lại quá lâu xa, thần giáo nói gần giống nhưng mà không phải giống. Bởi do ngăn chặn sự truyền bá sai lạc của ngoại đạo, cho nên nói là vô ngã; bây giờ mới làm rõ chân tướng của ngã”3. Thành lập Như Lai tạng cùng ngã, trong kinh nêu ra nhiều ví dụ để trình bày, điều này rất đáng để chú ý!

1 Cầu Na Bạt Đà La, Ương Quật Ma La kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 2, trang 532b; quyển 4, Đại tạng kinh, quyển 2, trang 540c.

2 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 12, trang 379a.

3 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 7. Đại chính tạng, quyển 12, trang 407b-408b.

Như Lai tạng chính là Phật tính, tức là nói theo địa vị chúng sinh. Như Lai tạng sẵn tồn tại trong thân tâm chúng sinh, là tướng tốt trang nghiêm giống như đức Như Lai, như trong kinh nói4:

4 (1) Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương đẳng Như Lai tạng. Đại chính tạng, quyển 16, trang 457bc; (2) Cầu Na Bạt Đà La, Ương Quật Ma La kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2, trang 525b-526b; (3) Cầu Na Bạt Đà La, Đại pháp cổ kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 9, trang 297b.

1. “Ở trong tất cả phiền não tham dục, sân nhuế, si mê của chúng sinh có trí tuệ Như Lai, có mắt Như Lai, có thân Như Lai, ngồi kiết già, nghiễm nhiên bất động”.

2. “Như Lai tính (giới) là vô tác, ở trong tất cả chúng sinh, vô lượng tướng hảo, thanh tịnh trang nghiêm”; “Phật tính ở trong chúng sinh, cũng có vô lượng tướng hảo, trang nghiêm thanh tịnh”.

3. “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vô lượng tướng hảo, trang nghiêm chói lọi”.

Như Lai tạng là có sắc tướng, đợi đến khi lìa tất cả phiền não, an trụ vào cảnh giới Như Lai đại Niết bàn, đương nhiên không như khôi thân mẫn trí của hàng nhị thừa, mà là sắc tướng trang nghiêm. Như kinh1 nói:

1 (1) Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 12, trang 391c-392a; (2) Cầu Na Bạt Đà La, Đại pháp cổ kinh, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 9, trang 292c; (3) Cầu Na Bạt Đà La, Ương Quật Ma La kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2, trang 527c; (4) Cầu Na Bạt Đà La, Ương Quật Ma La kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 2, trang 531c; (5) Bồ Đề Lưu Chí dịch, Đại bảo tích kinh, hội thứ 48, Thắng Man phu nhân hội, Đại chính tạng, quyển 11, trang 673a.

1. “Niết bàn gọi là giải thoát... nói chẳng phải sắc, tức là giải thoát của Thanh văn và Duyên giác; còn nói là có sắc, tức là sự giải thoát của chư Phật Như Lai”.

2. “Thường giải thoát chẳng phải tên gọi, song trụ trong diệu sắc trạm nhiên, chẳng phải là cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát”.

3. “Hư không sắc là Phật, chẳng phải sắc là hàng nhị thừa. Giải thoát sắc là Phật, chẳng phải giải thoát sắc là hàng nhị thừa”.

4. “Tất cả các đức Như Lai, giải thoát có diệu sắc”.

5. “Sắc thân Như Lai đẹp, thế gian chẳng ai bằng... Như Lai đẹp vô tận, trí tuệ cũng như thế”.

Kinh của Đại thừa thời đầu xem trọng về trí chứng sâu xa, như Bát nhã kinh là thánh điển có mối liên hệ với Văn Thù, quán Phật như quán hư không; Phật không thể thấy bằng sắc thân tướng hảo, được gọi là “thuyết pháp thân vô sắc”. Kinh điển của Đại thừa hậu kỳ lấy Như Lai tạng, Phật tính v.v. làm chủ yếu, có thể nói đó là kế thừa tín ngưỡng “sắc thân của Như Lai không có bờ mé” của Đại chúng bộ (Mahāsaṃghīka) mà phát triển thành; xem trọng niềm tin của pháp môn Niệm Phật tam muội (buddhānusmṛti-samādhi) cũng từ đó mà được khơi gợi ra, hình thành nên thuyết “pháp thân có sắc tướng”. Bởi ở địa vị chúng sinh vốn đã có Như Lai tạng và Phật tính, thì đương nhiên pháp thân tướng hảo trang nghiêm ấy cũng có sắc tướng.

Như Lai tạng “ngã”, ngoài “có sắc” ra, bất không (aśunyata) là ý nghĩa quan trọng. Đại thừa thời đầu, đặc biệt là sự phát triển của Bát nhã kinh, nói tất cả pháp như huyễn hóa, cũng chính là tất cả pháp đều không, mà không cũng là không thể được. Trong tính chất của tất cả pháp là không ấy, đến cả Như Lai, Bồ đề, Niết bàn, tất cả cũng đều là không, như huyễn như hóa. Nghĩa sâu xa này, thông thường mọi người khó mà tin hiểu; người đã tin nhận cũng không tránh khỏi sự hiểu sai mà đi vào con đường lệch lạc. Đoạn cuối của bản Trung Bát nhã (tức là Đại phẩm Bát nhã), đã có chú ý đến điểm này, cho nên kinh nói:

“Nếu Bồ tát mới phát tâm, nghe tất cả pháp rốt ráo không này, cho đến Niết bàn cũng đều như huyễn hóa, tâm liền kinh sợ. Vì Bồ tát mới phát tâm, mà phân biệt nói sinh diệt là như huyễn hóa, không sinh không diệt là không như huyễn hóa”1.

1 Cưu Ma La Thập dịch, Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh, quyển 26. Đại chính tạng, quyển 8, trang 416a.

Để thích ứng với người mới học, nói “nếu các pháp có tướng sinh diệt, đều là có sự biến hóa... Niết bàn chẳng phải tướng giả dối, là pháp chẳng biến hóa”2. Ý nghĩa này tương đương với thuyết Như Lai tạng bất không. Nhưng quan điểm của thuyết Như Lai thường trụ bất không, nói ngược lại: “Các kinh bất liễu nghĩa tương ưng với không”; “tất cả kinh nói về không là còn nói đến vấn đề khác”3. Lấy Văn Thù làm đại biểu cho quan điểm nhất thiết không, có thêm vào đó những lời trách mắng, châm biếm, và những lời trách mắng về những tác phong của hàng đệ tử đức Thế Tôn trong quá khứ, thì hoàn toàn giống nhau1. Căn cứ theo chủ trương của thuyết bất không: có lúc nói không, có lúc lại nói bất không, không thể luôn luôn nói không hoặc bất không được. Như trong kinh nói:

2 Cưu Ma La Thập dịch, Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh, quyển 26. Đại chính tạng, quyển 8, trang 416a.

3 Cầu Na Bạt Đà La, Đại pháp cổ kinh, quyển hạ. Đại chính tạng, quyển 9, trang 295a-296b.

1 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 12, trang 373c-374c; Cầu Na Bạt Đà La dịch, Ương Quật Ma La kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2, trang 527a-528b.

“Không thể luôn luôn nói không hoặc bất không. Không, nghĩa là không có hai mươi lăm hữu và các phiền não, tất cả khổ, tất cả tướng, tất cả các hành của hữu vi, như bình không có sữa đặc, thì gọi là không. Bất không, nghĩa là những thiện sắc chân thật, thường lạc ngã tịnh, không lay động không biến đổi; giống như sắc hương vị xúc của chiếc bình kia, cho nên gọi là bất không. Vì thế giải thoát, dụ như chiếc bình... người giải thoát chân thực chính là đức Như Lai”2.

2 Đàm Vô Sấm dịch, Đại bát Niết bàn kinh, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 12, trang 395bc; Pháp Hiển dịch, Đại bát Nê hoàn kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 13, trang 875a.

Hai mươi lăm cõi là phân biệt chủng loại của ba cõi sinh tử, phiền não (nghiệp), khổ, tất cả pháp hữu vi là không; Như Lai Niết bàn giải thoát là bất không. Vấn đề này chính như trong Ương Quật kinh nói: “Có những pháp là không, có những pháp là bất không”3. Như bình không có sữa đặc, nên nói là không; nhưng bình có sắc hương vị xúc, nên nó là bất không. Nói cái không như vậy, trên phương pháp là cùng nhất trí với cái không được nói trong Tiểu không kinh thuộc Trung A hàm kinh. Cái không và bất không của Như Lai giải thoát cũng chính là cái không và bất không của nhân vị Như Lai tạng, như Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh nói:

3 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Ương Quật Ma La kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2, trang 527b.

“Bạch Thế Tôn! Có hai loại Như Lai tạng không trí. Bạch Thế Tôn! Không Như Lai tạng, hoặc xa lìa, hoặc thoát ra, hoặc khác với kho chứa tất cả phiền não. Bạch Thế Tôn! Bất không Như Lai tạng, hơn cả cát sông Hằng, không rời, không thoát, không khác với Phật pháp bất tư nghì”1.

1 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 221c.

Không Như Lai tạng (śūnya-tathāgata-garbha) chỉ cho tất cả phiền não che lấp Như Lai, phiền não và Như Lai là khác nhau, có thể lìa, không tương ưng, giống như những bụi nhơ trên châu báu. Phiền não che lấp Như Lai là không, hoàn toàn chẳng phải nói Như Lai tạng là không. Bất không Như Lai tạng (aśūnya-tathāgata-garbha) chỉ cho Phật pháp bất tư nghì của Như Lai tạng, không rời không khác, cũng chính là công đức tương ưng với Như Lai tạng, đây là chẳng thể nói không. Theo ý Thắng Man kinh: Như Lai tạng bị phiền não che lấp (phiền não là gốc của sinh tử) mà thành sinh tử, tương ưng với công đức thanh tịnh thì pháp thân hiện ra, Như Lai tạng trở thành chỗ nương gá của mê ngộ và nhiễm tịnh. Nếu tổng hợp lại, thì gồm ba pháp, như trong Bất tăng bất giảm kinh1 nói:

1 Bồ Đề Lưu Chi dịch, Phật thuyết Bất tăng bất giảm kinh. Đại chính tạng, quyển 16, trang 467ab.

“Cảnh giới của chúng sinh tức là Như Lai tạng; Như Lai tạng tức là pháp thân”.

“Cảnh giới chúng sinh gồm có ba loại pháp, đều chân thật không sai không khác. Những gì là ba? 1. Tột cùng căn bản cứu cánh của Như Lai tạng tương ưng với thể và pháp thanh tịnh; 2. Tột cùng căn bản cứu cánh của Như Lai tạng không tương ưng với thể và pháp phiền não trói buộc không thanh tịnh; 3. Tột cùng vị lai của Như Lai tạng thường hằng bình đẳng và có pháp... Tột cùng vị lai của Như Lai tạng thường hằng bình đẳng và có pháp, tức là căn bản của tất cả các pháp: hoàn toàn có tất cả pháp, đầy đủ tất cả pháp, ở trong thế gian pháp mà không rời, không thoát, chân thật tất cả pháp, hộ trì tất cả pháp, nhiếp lấy tất cả pháp”.

Bất tăng bất giảm kinh là kế thừa Thắng Man kinh và thuyết minh thêm. Tương ưng với tột cùng căn bản cứu cánh (bổn tế) là bất không Như Lai tạng; không tương ưng với tột cùng căn bản cứu cánh là không Như Lai tạng. Tột cùng vị lai bình đẳng thường hằng và có pháp, chính là nói rõ thể của Như Lai tạng, là căn bản của tất cả pháp (nương gá). “Hoàn toàn có tất cả pháp, đầy đủ tất cả pháp”; “hộ trì tất cả pháp, nhiếp lấy tất cả pháp”, nói lên Như Lai tạng là nơi y cứ căn bản của tất cả các pháp, tất cả pháp nương vào Như Lai tạng mà có thể thành lập, như Thắng Man kinh nói:

“Sinh tử là dựa vào Như Lai tạng;… vì có Như Lai tạng nên có sinh tử, cho nên gọi là khéo nói... Chẳng phải Như Lai tạng có sinh có tử, Như Lai tạng lìa tướng hữu vi, Như Lai tạng thường trụ bất biến, cho nên Như Lai tạng là nương, là giữ, là kiến lập. Bạch Thế Tôn! Không xa lìa, không đoạn trừ, không thoát ra, khác với hữu vi pháp bên ngoài; nương, giữ, kiến lập là Như Lai tạng. Bạch Thế Tôn! Nếu không có Như Lai tạng thì không thể chán khổ vui để cầu Niết bàn”1.

1 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 222b.

“Là nương, là giữ, là kiến lập” là “có thể làm nhân”, ba nhân nương (niśraya), giữ (upastambha), lập (sthāna) trong năm nhân, cũng chính là “hộ trì” của Bất tăng bất giảm kinh nói. Tất cả pháp nương vào Như Lai tạng: có Như Lai tạng không tương ưng với các pháp phiền não hữu vi, cho nên có sinh tử lưu chuyển. Như Lai tạng tương ưng với các pháp thanh tịnh, cho nên có thể chứng Niết bàn. Sinh tử và Niết bàn, đều dựa vào Như Lai tạng chân thường bất biến mà thành lập. Đặc biệt là Như Lai tạng tương ưng với Phật pháp bất tư nghì, cho nên tuy chúng sinh không hiểu không biết, nhưng bởi trong nội tại có đầy đủ công đức chân thật, nên có thể sinh khởi động cơ chán quả báo khổ sinh tử, cầu được Niết bàn cứu cánh. Nương vào “thật có pháp chân thường bất biến” để làm chỗ y cứ, có thể thành lập tất cả pháp, cho nên tôi gọi đó là “duy tâm luận chân thường”. Nhưng, thuyết Như Lai tạng thời kỳ đầu vẫn chỉ là chỗ y cứ của chân thường, chính là diễn tiến theo hướng duy tâm (cittamātratā) hoặc duy thức (vijñaptimmātratā). Như Lai tạng - “chân thường duy tâm luận” của thời kỳ cuối (chịu ảnh hưởng của các luận sư), đến phần dưới chúng ta sẽ luận thuật tiếp.

Đặc điểm của thuyết Như Lai tạng thời đầu là “ngã”, “hữu sắc”, “bất không”, “sở y”. 1. “Ngã” rốt cuộc là nhiều ít có sự thần hóa, cho nên Bất tăng bất giảm kinh (được gọi là chúng sinh, Bồ tát, Như Lai), đã không nêu ra nữa. 2. Không và bất không của Như Lai tạng là hành hữu vi và công đức vô vi, không đồng với thuyết “nhiễm tịnh nhất như”. 3. Nương, giữ và kiến lập có thể làm nhân (kāraṇa-hetu), cho nên không thể nói Như Lai tạng sinh tất cả pháp. 4. Thuyết Như Lai tạng trọng về sắc tướng trang nghiêm của Như Lai, ở trong thân chúng sinh vốn có Như Lai tạng. Như Lai là chân thật, thường trụ bất biến, là pháp vô vi, lấy đó làm lý tưởng cho người tin Phật, cho nên đối với Phật pháp được nói trước đây, mỗi một đều quy nạp về Như Lai. Nói quy y Tam bảo nhưng chỉ có quy y một bảo - Phật bảo; nói bốn thánh đế mà chỉ có một đế - (vô vi) diệt đế; nói phàm thánh hai giới mà chỉ có một giới - Như Lai giới (nhân vị gọi là chúng sinh giới); nói năm thừa Phật pháp mà chỉ là nhất thừa - Phật thừa; nói Niết bàn ba thừa mà chỉ có một Niết bàn - Như Lai Niết bàn. Tín ngưỡng quả đức, “chúng sinh với Phật là nhất như”, thuyết Như Lai tạng của thời đầu chịu sự ảnh hưởng vô cùng sâu đậm của Pháp hoa kinh và Hoa nghiêm kinh.

Thuyết Như Lai tạng trong quá trình lưu hành với tự tính (hoặc dịch là bổn tính) thanh tịnh tâm (prakṛtipariśud-dha-citta, prakṛtiprabhāsvara-citta), cũng chính là kết hợp với tâm tính bản tịnh. Thắng Man kinh gọi Như Lai tạng là tự tính thanh tịnh tạng (prakṛti-pariśuddhhi-garbha). Lại nói: “Khó có thể biết rõ (tự) tính thanh tịnh tâm; cũng khó mà biết được tâm ấy bị ô nhiễm bởi phiền não”1. Bất tăng bất giảm kinh nói: “Ta nương vào thanh tịnh chân như pháp giới, vì chúng sinh mà nói pháp bất tư nghì tự tính thanh tịnh”2. “Tự tính thanh tịnh tâm bị ô nhiễm bởi khách”, rút ra từ trong Tăng nhất A hàm kinh - tụng bản của Đại chúng bộ và Thuyết nhất thiết hữu hệ (khuyết mất bản của Thuyết nhất thiết hữu bộ). Trong bộ phái, như các chủ trương Tiền hậu nhất giác luận, Nhất tâm tương tục luận, Tâm thanh tịnh của Phân biệt thuyết, sớm đã có chủ trương tâm tương tục trước sau, là một là tịnh3. Ý thú của tâm tính bản tịnh bị khách trần phiền não làm ô nhiễm rất gần với Như Lai tạng tâm tính bổn tịnh bị phiền não ngăn che, cho nên Như Lai tạng cũng được gọi là Tự tính thanh tịnh tâm. Như Lai tạng tự tính thanh tịnh tâm hợp lưu với tư tưởng tự tính thanh tịnh tâm và chân ngã, thường ngã1. Tâm tính bổn tịnh là do các vị luận sư dẫn hướng, nói Như Lai tạng là tên khác của chân như, còn Như Lai tạng ngã là sắc tướng trang nghiêm, vẫn lưu hành trong sự tín ngưỡng thần bí thông tục.

1 Bồ Đề Lưu Chí dịch, Đại bảo tích kinh, Thắng Man phu nhân hội 48, Đại chính tạng, quyển 11, trang 678a; Cầu Na Bạt Đà La dịch, Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 222c.

2 Bồ Đề Lưu Chi dịch, Bất tăng bất giảm kinh. Đại chính tạng, quyển 16, trang 467b.

3 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 11. Đại chính tạng, quyển 27, trang 55b; quyển 22 (Đại 27), trang 140b.

1 Tham duyệt Ấn Thuận, Nghiên cứu về Như Lai tạng, Chính Văn xuất bản xã, năm 1989, chương 5, trang 132-145.

Nghĩa gốc của Như Lai tạng là trong thân chúng sinh vốn có đủ trí tuệ và sắc tướng trang nghiêm của Như Lai, “chúng sinh và Phật không hai”, chúng sinh chỉ là bị các pháp sinh tử che mờ đi mà thôi. Như Lai tạng là nhân cách hóa, rất gần với tư tưởng “pháp thế gian là hư vọng, pháp xuất thế gian là chân thật” của Đại chúng bộ hệ, nhưng không đồng với thuyết “sinh tử tức Niết bàn”. Qua quá trình phát triển của tư tưởng, Như Lai tạng dung hợp với thuyết tâm tính bổn tịnh, cũng kết hợp với chân như v.v. như Thắng Man kinh nói: “Có hai thứ Như Lai tạng không trí”2. Không trí là “không tính trí” (śunyatā-jñāna), Thắng Man kinh là dựa vào không tính trí mà nói không và bất không. Không tính trí là: “Vô hữu như ngoại trí, vô hữu trí ngoại như” (ngoài trí không có như, ngoài như không có trí), thực thể của “như với trí không hai”. Do đó mà nói không tương ưng với hữu lậu tạp nhiễm - không, tương tưng với vô lậu thanh tịnh - bất không. Đây là ba pháp trong Bất tăng bất giảm kinh, “tận cùng vị lai của Như Lai tạng là bình đẳng thường hằng và có pháp, tức là căn gốc của tất cả các pháp”. Phái Du già hành lấy chân như - nơi hiển bày tính chất của “không” để giải thích Như Lai tạng, lấy chân như vốn có công đức vô vi để giải thích bất không, giải thích như thế dường như hội thông hết, nhưng thực tế thì bên ngoài giống mà bên trong lại khác. Thắng Man kinh nói Như Lai tạng là không tính trí, cho nên phái Trung quán về sau có người phụ họa theo mà không tự biết. Nói Như Lai tạng là tự tính thanh tịnh tâm, sáu thức v.v. bảy pháp sát na là bắt đầu có mối liên hệ giữa Như Lai tạng và thức sinh diệt, phát triển thành tư tưởng Chân thường duy tâm luận được thành lập về sau.

2 Cầu Na Bạt Đà La dịch, Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 221c.

Tóm lại, Như Lai tạng lấy không tính trí dung nhiếp nghĩa không, lấy Như Lai tạng tâm nhiếp lấy nghĩa Duy thức. Đại thừa luận nghị của Ấn Độ, tư tưởng Trung quán và Duy thức đều bị dung nhiếp vào trong Như Lai tạng, làm cho Đại thừa Ấn Độ trở thành một hệ thống lớn. Thuyết Như Lai tạng nương theo Trung quán và Du già mà phát triển, thông thường cho rằng, Đại thừa chỉ có hai hệ Trung quán và Du già, đây là chịu ảnh hưởng của việc chuyên chú trọng vào luận nghị!