Hãy là cái mà bạn thực là!
- Pindar -
Trong khi trao đổi về khái niệm vô thức và về phương pháp diễn giải nhân quả - quá khứ, chúng ta đã cùng nói về quá khứ, hay đúng hơn là về ý nghĩa tâm lí của quá khứ, cũng như nhu cầu diễn giải lại quá khứ của con người người. Như bạn đã thấy, một khi đã diễn giải theo hướng nhân quả, sẽ không thể tránh khỏi việc động chạm đến quá khứ, đến những gì đã diễn ra. Và diễn giải quá khứ chỉ cần thiết khi chúng ta nhìn quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại. Cái thực tế lí thuyết vốn không đơn giản này lại càng phức tạp hơn trong thực tiễn phân tâm học vì phân tâm học nhấn mạnh vào hiệu quả trị liệu của giải thích nhân quả. Song nếu bạn quan sát quá trình trị liệu khi nó trải ra trước mắt bạn, chắc chắn bạn sẽ thấy rằng bản thân quá trình đấy là một trải nghiệm tức thời đầy ý nghĩa. Ở đây, bạn bắt gặp một mâu thuẫn rõ ràng đã xuyên suốt toàn bộ nền phân tâm học, khi nó vừa cố gắng trở thành một khoa học về tâm lí, cùng lúc muốn trở thành liệu pháp trị liệu thực tiễn, trong khi đấy là hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau. Trong phân tâm học của Freud, trải nghiệm trị liệu với những phản ứng tức thời của nó vẫn được giải thích theo hướng nhân quả - quá khứ và liên tục kéo bệnh nhân về quá khứ. Trong khi đó, trải nghiệm trị liệu thực chất đòi hỏi người ta tập trung vào cái tình huống thực tại ngay tại đây và ngay lúc này, thậm chí nó còn đòi hỏi mức độ tập trung cao hơn cả những trải nghiệm thông thường trong đời sống, như vậy mới có thể mang đến kết quả trị liệu.
QUÁ KHỨ VÀ NHU CẦU DIỄN GIẢI LẠI QUÁ KHỨ
Bạn cũng biết đấy, lẽ thường một bệnh nhân loạn thần kinh hẳn đã nuôi cái mầm bệnh từ rất lâu trước khi anh ta tìm đến nhà trị liệu. Nó hẳn phải bắt nguồn từ quá khứ, từ thời còn ấu thơ, thậm chí từ sơ sinh. Đấy là điều mà nhà trị liệu không thể chối bỏ được, cũng giống như nguồn gốc sinh học của anh ta hay cái sự thật rất hiển nhiên rằng anh ta đã được sinh ra và từng là một đứa trẻ. Ai trong chúng ta cũng không thể thoát được cái sự thật đấy. Câu hỏi đặt ra là: Tâm lí của anh ta đang ở quãng nào trong cái lịch sử đời sống tinh thần của mình? Hay nói cách khác, tầng quá khứ nào đang ngự trị trong anh ta?
Phân tâm học cho rằng, gần như toàn bộ quá khứ vẫn sống trong anh ta, theo đó, mặc định là người loạn thần kinh mang tâm lí ấu thơ. Và như vậy, không những mặc nhận rằng tính cách của anh ta đã được xác lập, là một lịch sử không thể thay đổi được nữa, mà đồng thời cũng ấn định rằng đấy là bệnh lí. Theo lối nhìn nhận này, anh ta chính là những gì anh ta đã-là, là tất cả cái quá khứ, cái kí ức mà anh ta đã phải chịu đựng. Hay nếu bạn muốn đi xa hơn: Bản thân anh ta chỉ là một-quá- khứ, một kí ức.
Việc mô tả đặc điểm của chứng loạn thần kinh này dẫn chúng ta đến hai câu hỏi: một thuộc về vấn đề lí thuyết, hai thuộc về vấn đề thực tiễn hay trị liệu:
(i) Thứ nhất, làm sao phân tâm học xác minh được tính cách đã hình thành trong quá khứ của một người (cái tâm lí ấu thơ, cái nhi tính của anh ta) là một sự thật đã từng xảy ra? Hay đấy chỉ một diễn giải bất tận (diễn giải này kéo theo diễn giải khác) về chứng loạn thần kinh của anh ta?
(ii) Thứ hai, ngay cả khi người loạn thần kinh thực sự mang tâm lí ấu thơ, nghĩa là, anh ta hướng quá nhiều về quá khứ, thì liệu việc phân tâm học chỉ ra cho anh ta thấy điều này có phải là liệu pháp chữa trị hiệu quả hay không? Nếu không, thì đâu mới là liệu pháp hữu hiệu?
Bản thân những câu hỏi này đã bao gồm cả một loạt vấn đề. Để trả lời, trước hết chúng ta hãy tạm giới hạn quá khứ trong khía cạnh tâm lí thuần túy của nó, thay vì trộn lẫn với khía cạnh sinh học như cách phân tâm học vẫn làm.
Nói theo tâm lí học đơn thuần: Quá khứ là vấn đề của kí ức, của nhớ và quên, và do đó nó là vấn đề của Ý thức. Tuy nhiên cùng lúc đó, cũng cần xét đến một yếu tố năng động có vai trò kiểm soát những gì được thâu nhận vào ý thức, đấy chính là Ý chí. Theo nghĩa này: Tất cả những gì tôi không muốn nhớ đều biến mất, và những gì tôi muốn triệu hồi từ kí ức sẽ hiện hữu trong thực tại tinh thần, trong hành động hồi tưởng có ý thức của tôi. Vậy nên, lãng quên là một cơ chế tâm lí hòng giải phóng chúng ta khỏi quá khứ, để chúng ta có thể sống trong hiện tại. Những gì tôi không nhớ, đơn giản tức là nó không tồn tại, thậm chí chưa từng tồn tại, chừng nào tôi không gọi mời nó từ miền quá khứ bị lãng quên trở lại vùng kí ức hiện thời.
Một người loạn thần có nhu cầu lãng quên nhiều hơn, hoặc phải dồn nén mạnh mẽ hơn, thì đâu có nghĩa là anh ta chỉ mê đắm, bám chấp vào quá khứ (như phân tâm học diễn giải). Hơn bao giờ hết, anh ta còn phải đấu tranh tích cực hơn để thoát khỏi quá khứ đấy. Nếu nhà trị liệu nhấn mạnh khuynh hướng bám chấp quá khứ hơn, có nghĩa là ông ta chấp nhận tính cách ấu thơ của anh ta. Ngược lại, nếu nhà trị liệu nhấn mạnh xu hướng vượt thoát, thì ông ta sẽ nhận ra ở đó nỗ lực mang tính xây dựng của bệnh nhân, hòng cởi trói bản thân khỏi sự ràng buộc của quá khứ, để có thể sống trong hiện tại, sống độc lập với quá khứ của chính mình.
Bệnh nhân thất bại trong việc giải thoát khỏi quá khứ, không có nghĩa là anh ta không muốn thoát khỏi, mà trái lại, anh ta cố gắng trốn thoát đến mức suy sụp, đến độ có thể tự hủy hoại bản thân. Thất bại nằm ở cách anh ta làm điều đó, bởi một lần nữa anh ta lại dựa chủ yếu trên cái ý chí tiêu cực mình. Anh ta cố gắng giải thoát chính mình bằng việc phủ nhận quá khứ, phủ nhận sự lệ thuộc vào quá khứ, bằng cách phá hủy những mối liên kết trong suy nghĩ và cảm xúc của mình:
(i) Việc quên-đi của anh ta là một sự phủ nhận mạnh mẽ, là một biểu hiện đúng nghĩa của ý chí đối nghịch, nó nói rằng “Tôi sẽ không thừa nhận rằng điều đấy đã từng tồn tại, hay vẫn còn tồn tại.”
(ii) Việc nhớ-lại của anh ta không phải là sự hồi tưởng tự nguyện, mà là sự cưỡng bách phải quay trở lại, một lần nữa và theo cách đau đớn nhất, buộc anh ta ý thức rằng mình phụ thuộc vào quá khứ. Nó buộc anh ta nhớ lại cái quá khứ mà anh ta muốn phủ nhận, và vì vậy, phục hồi lại những liên kết mà anh ta đã phá hủy trong đời sống tinh thần và cảm xúc của mình. Sự kết nối này, dù diễn ra trong phạm vi nào, thì đấy cũng là sự tái kết nối cá nhân với cái quá khứ mà anh ta muốn phủ nhận, trong một nỗ lực cực kì mạnh mẽ hòng trốn thoát khỏi quá khứ và trở nên độc lập.
Phân tâm học, bằng phương pháp nhân quả - lịch sử, buộc anh ta phải đối mặt với cái quá khứ mà anh ta muốn quên đi. Điều đấy không chỉ ảnh hưởng đến tâm lí của anh ta, mà vô hình trung còn cung cấp cho anh ta chất liệu để anh ta diễn giải chính trải nghiệm trị liệu ở hiện tại, trong đó tâm lí anh ta được dịch chuyển và dẫn ngược trở lại phức cảm Oedipus, theo đó, biến thành tâm lí ấu thơ. Thật trái ngang làm sao, trong khi mục tiêu cuối cùng của liệu pháp phân tâm là giải phóng cá nhân khỏi sự bám chấp vào quá khứ, thì toàn bộ phương pháp và lí thuyết của nó thực tế đã làm điều ngược lại. Nghĩa là, trong mỗi hoạt động tinh thần, cũng như trong toàn bộ trải nghiệm trị liệu của phân tâm học, nó không chỉ ràng buộc cá nhân với quá khứ mà còn biến anh ta thành bản thân cái quá khứ đấy. Nó ngầm bảo anh ta rằng: “Anh chẳng là gì khác ngoài cái quá khứ của anh”, bằng cách diễn giải anh ta dưới góc độ lịch sử tính dựa vào phức cảm Oedipus thời ấu thơ.
Có thể nói về mặt trị liệu, cá nhân nhất thiết phải chấm dứt những nỗ lực giải phóng sai lầm thông qua việc phủ nhận quá khứ, trước khi anh ta có thể thực sự thoát khỏi sự mê đắm mang tính trẻ thơ. Chuyện đấy chẳng có gì phải nghi ngờ nữa cả! Câu hỏi đặt ra là: Liệu pháp phân tâm của Freud có giúp bệnh nhân đi tiếp bước thứ hai này hay không? Hay nó ngăn trở điều đó bằng cách đưa bệnh nhân từ tình huống phân tâm ở hiện tại quay ngược về trải nghiệm ấu thơ của anh ta?
Tôi thấy rằng, phân tâm học của Freud với kĩ thuật liên tưởng tự do và phục hồi một cách có ý thức các mối liên kết tinh thần từng bị phá hủy, đã kết nối người đó với quá khứ của chính anh ta về mặt tâm lí, như một cách để giải tỏa, để họ xóa bỏ sự phủ nhận quá khứ. Song đồng thời, thông qua việc diễn giải trải nghiệm hiện tại như là sự lặp lại, sự tái hồi thời thơ ấu, nó buộc người ta sống trở lại tình huống trong quá khứ theo đúng nghĩa đen. Nói cách khác, thay vì kết nối bệnh nhân với quá khứ về mặt tinh thần đến mức đủ để loại bỏ sự dồn nén bên trong, để khai thông những bế tắc nội tâm, thì liệu pháp phân tâm lại kéo bệnh nhân ngược về chính cái quá khứ đấy thông qua cách diễn giải mang khuynh hướng ấu thơ về sự chuyển dịch. Ở đây một lần nữa chúng ta vấp phải khuynh hướng dạy bảo kiểu đạo đức sư phạm của phức cảm Oedipus. Câu chuyện thần thoại đó cho một người thấy rằng: Anh ta không thể nào giải thoát bản thân khỏi quá khứ. Rằng, anh ta thực sự đừng mong giải thoát khỏi quá khứ đấy. Bởi bài học đạo đức nằm sau câu chuyện răn đe rằng, kẻ cố làm điều đấy bằng được nhất định sẽ gặp tai họa thôi.
Bên cạnh cái bẫy đạo đức phẩm hạnh này, Freud đã thêm vào hệ tư tưởng khoa học tự nhiên, hòng đặt định nền tảng lí thuyết với mong muốn tạo ra một tâm lí học nhân quả thuần túy. Chính Freud đã nhầm lẫn giữa hai điều: (i) ý nghĩa tâm lí của quá khứ, tức là một vấn đề của kí ức, với (ii) ý nghĩa hiện thực của quá khứ, với tư cách một tư liệu về lịch sử tâm hồn con người.
Ở đây, bạn nhất thiết phải phân biệt rất rõ ràng: Quy luật nhân quả của tâm hồn, hay nói cách khác là logic của tinh thần rất khác với quy luật nhân quả của tự nhiên, cũng như quá khứ của tinh thần khác với quá khứ của lịch sử. Song, Freud đã đánh đồng cả hai làm một: Ông cố gắng suy luận, hay như ông nói, cố gắng để tái tạo lại cái quá khứ đã-từng-có-thật, từng xảy ra từ những mảnh hồi ức vụn vặt hiện lên tức thời trong tâm trí con người. Phương pháp này có khả thi hay không, vẫn cần phải xem xét. Có điều, ngay cả khi khả thi, thì: Về mặt tâm lí, việc tái dựng quá khứ theo cách đó là không để làm gì cả; và về mặt trị liệu, nó là vô giá trị. Bởi nhà trị liệu phải nhận ra tác nhân trị liệu thực sự ở đây chính là: Xung đột ý chí được bộc lộ ra trong quá trình tái dựng lại quá khứ, chứ không phải bản thân cái quá khứ đấy. Về mặt tâm lí, việc tái dựng quá khứ không mang nhiều ý nghĩa, vì sao? Vì việc đấy không chỉ phụ thuộc vào sự kiện thực tế, mà phụ thuộc vào thái độ hay phản ứng của mỗi cá nhân đối với sự kiện đó. Tất cả những cách diễn giải theo kiểu lịch sử tính của phân tâm học, từ chấn thương thời thơ ấu đến phức cảm Oedipus và phức cảm thiến hoạn, đều không làm rõ được gốc rễ vấn đề, rằng: Tại sao tất cả những trải nghiệm chấn thương này lại nổi lên và biến thành bệnh lí vào lúc này chứ không phải lúc khác?
HIỆN TẠI VÀ CÁI THẬT NỘI TÂM: TẠI-ĐÂY, LÚC-NÀY VÀ DUY-NHẤT
Liệu pháp phân tâm gặp lỗi phương pháp luận do nó lẫn lộn giữa thực tại lịch sử và thực tại nội tâm. Hai cái này bị đánh đồng với nhau, hay nói cách khác, việc-thực xảy ra trong quá khứ bị tráo đổi, xen kẽ với cái-thật xảy ra trong tâm lí. Bạn phải biết rằng: Cái-thật tâm lí của các hiện tượng tinh thần, đối với mỗi cá nhân mà nói, không nằm ở tính có thực của nó, mà nằm ở ý nghĩa biểu tượng của nó. Cái thật của tâm lí luôn mang theo cảm xúc, cũng như chứa đựng tất cả những gì mà chúng ta gọi là vô thức. Song thái độ cảm xúc này không phải là nhất thành bất biến, nó tùy tiện nhất thời. Theo đó, giá trị tinh thần của một trải nghiệm có thể thay đổi và mang những ý nghĩa khác nhau tùy vào từng thời điểm khác nhau, và cuối cùng nó có thể biến đổi dưới tác động của tình huống trị liệu. Thế nên, đối với hiện tại mà nói, cái ý nghĩa tinh thần của quá khứ trở nên độc lập và ngày càng xa rời ý nghĩa thực tế ban đầu của nó. Chúng ta có thể thấy quá trình biến đổinày diễn ra ngay trước mắt chúng ta trong tiến trình trị liệu, khi bệnh nhân liên tục thay đổi thái độ của mình với mỗi khoảnh khắc của trải nghiệm trị liệu ngay khi nó đã qua và trở thành quá khứ. Vì vậy trong hoàn cảnh trị liệu, tất cả các yếu tố sẽ được đưa ra nhằm thấu hiểu toàn bộ quá trình biến đổi đấy, cũng tức là thấu hiểu cơ sở cho phép quá trình đấy tiếp diễn một cách có ý thức, từ đó sử dụng nó trong trị liệu.
Bạn phải nhớ rằng: Mối quan hệ trị liệu đại diện cho một trải nghiệm cảm xúc rất thực ở hiện tại. Nó là cái cách mà bệnh nhân dùng khuôn mẫu tính cách của mình để phản ứng lại trong bất cứ tình huống nào. Do đó, chúng ta không nhất định phải quay lại quá khứ thì mới hiểu cách phản ứng của bệnh nhân. Nếu làm theo kĩ thuật phân tâm của Freud, thì nghĩa là chúng ta chỉ hiểu được phản ứng của người đấy trong quá khứ, chứ không phải phản ứng của anh ta ở hiện tại. Trong khi đó, ngay ở trải nghiệm hiện tại, chúng ta có toàn bộ mẫu thức phản ứng của anh ta, bao tất cả những phản ứng trước đó trong quá khứ cùng với phản ứng ở hiện tại. Nếu một người có xu hướng dồn nén và phủ nhận thì trong trải nghiệm trị liệu, anh ta chắc chắn cũng phản ứng như thế. Và ở đây, chúng ta thấy rõ cách anh ta cố gắng phá hủy mối liên hệ với trải nghiệm hiện tại này, cũng y như cách anh ta đã làm với quá khứ. Thế nên, chúng ta sẽ đối xử với xu hướng phủ nhận này của một người trong chính trải nghiệm trị liệu ở hiện tại, chứ không phải trên cơ sở quá khứ. Quá khứ là gì? Là lãnh địa mà chúng ta phải dò dẫm trong sự bấp bênh vô định, hòng giải mã những nội dung đã được diễn giải đi diễn giải lại không biết bao nhiêu lần.
Nếu xem xét kĩ hơn phương pháp diễn giải quá khứ được phân tâm học sử dụng, chúng ta sẽ thấy mấy cái quá khứ của nó đều có thể bắt bẻ về mặt kĩ thuật trị liệu:
(i) Thứ nhất, liệu có thể tái dựng lại một hiện thực chân xác từ một trải nghiệm đã được diễn giải đi diễn giải lại rất nhiều lần hay không (câu hỏi này chúng ta đã đặt ra trước đó);
(ii) Thứ hai, việc tái dựng quá khứ đấy có mang ý nghĩa tâm lí và giá trị trị liệu nào không? Khi kết quả của một cuộc phân tâm trong vài năm vẫn chẳng có gì khác ngoài những mảnh vỡ mơ hồ về cảnh giao hợp được chứng kiến thời ấu thơ. Ngay cả khi nhà phân tâm có thể cấp cho những nỗ lực phân tâm đó một giá trị trị liệu nào đó, thì việc áp dụng phương pháp này một cách có hệ thống, đem nó trở thành một nguyên tắc diễn giải dùng cho mọi trường hợp vẫn còn là câu hỏi để ngỏ.
Khi xem xét kĩ hơn nguyên tắc diễn giải nhân quả, chúng ta thấy nó không chỉ dựa trên các liên tưởng tự do của cá nhân, mà còn dựa trên cách diễn giải của nhà phân tâm trên cơ sở giải thích hiện tại theo hướng quá khứ, hướng về thời kì ấu thơ của bệnh nhân. Nói cách khác, trải nghiệm trị liệu hiện tại được diễn giải thành trải nghiệm ấu thơ, và bức tranh quá khứ thu được theo cách này sau đó được áp dụng đi áp dụng lại, rồi hình thành nên lí thuyết để giải thích cho những trải nghiệm trị liệu tương tự về sau.
(iii) Thứ ba, hãy quay trở lại với vấn đề cuối cùng và trả lời xác quyết cho câu hỏi: Liệu cái diễn giải quá khứ về đặc tính của người loạn thần kinh, và do đó về chính cá nhân đấy, có phải là diễn giải duy nhất không, hay chỉ là một trong nhiều khả năng diễn giải mà thôi?
Như chúng ta vừa nói, giá trị và ý nghĩa trị liệu của diễn giải quá khứ này nằm ở chừng mực nó mang đến khả năng kết nối giữa cá nhân với quá khứ của chính mình trên cơ sở thuần túy tinh thần. Còn nếu nó thực sự kéo cá nhân về sống lại quá khứ đó, thì việc diễn giải tình huống phân tâm hiện tại theo hướng ấu thơ chỉ phá hủy hiệu quả trị liệu mà thôi.
Như chúng ta đã chỉ ra, rõ ràng tinh thần là một hiện tượng của hiện tại, cá nhân thực sự có thể suy nghĩ và nhận thức toàn bộ quá khứ chỉ như là hiện tại, như các giấc mơ đã cho thấy. Suy nghĩ và cảm nhận, ý thức và ý chí, xét cho cùng, luôn hiện diện trong hiện tại, ngay tại đây và ngay lúc này. Tất cả chuyện nhớ và quên cũng là chuyện của hiện tại, bất kể vào khoảnh khắc đó ý chí khẳng định hay phủ nhận quá khứ, chối bỏ nó hay chấp nhận nó. Và rốt cùng, không có quá khứ nào ở đây cả, chỉ có hiện tại mà thôi. Nhận thức được sự thực này là nền tảng để tạo nên một liệu pháp mang tính kiến tạo và đạt được mục tiêu trị liệu ngay trong trải nghiệm hiện tại.
Về mặt trị liệu cũng như về mặt lí thuyết, điểm này cực kì quan trọng, nó giúp chúng ta cải thiện hoàn cảnh trị liệu bằng những đánh giá tích cực. Trong đó, bệnh nhân được sự hỗ trợ của nhà trị liệu, thoát ra khỏi khuynh hướng phủ nhận hiện tại, kết nối sâu sắc bản thân với quá khứ của mình từ tận sâu thẳm tâm hồn, và học cách chấp nhận thay vì dằn vặt bản thân.
Freud có vẻ đã nghĩ đến điều này trong phương pháp giải tỏa dồn nén của mình. Có điều, ông đã nhận định “nhầm chỗ” của sự dồn nén nội tâm. Cái mà cá nhân dồn nén không phải là những kí ức thời ấu thơ ấu, cái anh ta cần giải phóng cũng không phải những kí ức đấy. Thật ra là sự dồn nén đó đang diễn ra ngay ở hiện tại, ngay tại đây và ngay lúc này. Thế nên, việc phân tâm học truy nguyên dấu vết của tất cả các phản ứng, bao gồm cả những phản ứng ở hiện tại, hòng lần ngược về quá khứ, đến những miền kí ức sâu thẳm, đều là một cố gắng kết nối bệnh nhân với cái quá khứ đang sống dậy cả về mặt lịch sử lẫn thực tế. Trong khi, thật ra bệnh nhân lại đang nỗ lực dể thoát khỏi và trở nên độc lập với nó.
Đối với người loạn thần kinh, những con người thù địch với cuộc sống, những kẻ chống đối xã hội mà nói, thì một sự ràng buộc có-thật nào đó bên cạnh những kết nối thuần túy tâm lí đương nhiên là cần thiết. Có điều trong Liệu pháp Ý chí, tôi không kết nối bệnh nhân ngược với quá khứ, mà là với hiện tại. Tôi kéo họ ra khỏi xu hướng phủ nhận những trải nghiệm tức thời ở hiện tại, bởi mỗi cá nhân chỉ có một-lần thôi để trải nghiệm cái thực-tại đấy, cái hiện thực ngay trước mắt anh ta. Chỉ một lần duy nhất khoảnh khắc đấy diễn ra trong đời, nó không bao giờ lặp lại. Chỉ cần để cho bệnh nhân trải nghiệm trọn vẹn khoảnh khắc đấy thôi cũng đạt được hiệu quả trị liệu rồi, bởi nó trực tiếp chạm đến cơ chế phủ nhận trong anh ta. Trong khi việc ràng buộc cá nhân với quá khứ chỉ khiến anh ta bị lệ thuộc về mặt đạo đức phẩm hạnh, tạo ra cái cớ để anh ta chối bỏ trách nhiệm của mình, và do đó, kiềm hãm sự trưởng thành nội tâm của anh ta.
Trị liệu trong chính trải nghiệm ở hiện tại khó thực hiện hơn nhiều so với việc giải thích quá khứ. Có điều chính nó lại thực sự giúp cá nhân kết nối đời sống nội tâm của mình với cái quá khứ tinh thần mà anh ta luôn cố phủ nhận. Để rồi, bằng một cách tự nhiên nhất, anh ta có thể sống trọn vẹn con người mình với một nhân cách vẹn toàn không phân li và đưa nó vào những trải nghiệm mới trong đời sống, tức là có thể thực sự trải nghiệm như thể đó là lần đầu tiên sống trong đời.
Rõ ràng cái gọi là bám chấp vào quá khứ, sống trong hồi ức, hoài niệm chỉ là sự phòng vệ của bản thân hòng trốn tránh khỏi những trải nghiệm tức thời, là sự đầu hàng trước hiện tại. Một người bám chấp vào quá khứ không phải bởi vì những chấn thương trong quá khứ trói buộc anh ta. Chỉ đơn giản đấy là một nơi ẩn náu về tinh thần cho anh ta trước những bế tắc của hiện tại, đấy là ý chí cá nhân của anh ta đang yếu nhược mà thôi. Xét cho cùng, quá khứ chỉ là một khái niệm thuần túy về mặt không gian vật lí, và cái quá khứ thực tế kia không quan trọng đến thế. Nếu cá nhân muốn và cần bảo vệ bản thân khỏi trải nghiệm hiện tại, anh ta cũng không nhất thiết bám chấp vào quá khứ bằng trải nghiệm chấn thương thời thơ ấu. Ai cũng biết rằng, bất kì trải nghiệm nào dù tầm thường nhất cũng gây tác động đến cá nhân, trong đó có những người biết cách vượt qua những trải nghiệm khó khăn nhất, tổn thương nhất bằng một trải nghiệm mới. Thế nên theo tôi thì, một trải nghiệm mới mẻ như vậy mới là tiêu biểu cho quá trình trị liệu và cho thấy giá trị của trị liệu, chứ không phải là sự hồi tưởng và lặp lại những tổn thương thời ấu thơ.
Hiệu quả của việc sử dụng trải nghiệm hiện tại này trong trị liệu nằm ở chỗ nó tháo rỡ sự phủ nhận cảm xúc hiện thời, và do đó tạo ra sự kết nối với thực tại. Việc kết nối với thực tại này giúp bệnh nhân chống lại cái ý chí-tiêu-cực-hướng-đến-bệnh-tật của anh ta, cho anh ta thấy rằng anh ta hoàn toàn có thể sống trong hiện tại, chỉ cần anh ta muốn thế, dám thế mà không để cho cảm giác tội lỗi dằn vặt mình. Cảm giác tội lỗi này nhất thiết phải xảy ra trong các tình huống trị liệu, bởi để tự giúp chính mình, một người hẳn phải “lấy đi” một điều gì đó từ người khác. Cảm giác tội lỗi đấy luôn là hệ quả của việc phủ nhận lòng biết ơn, phủ nhận sự phụ thuộc, nói tóm lại là phủ nhận quá khứ. Anh ta không chỉ phủ nhận quá khứ liên quan đến các mối quan hệ gia đình và các mối liên hệ thân thiết, mà còn phủ nhận quá khứ của chính mình, cái quá khứ mà có những giai đoạn anh ta muốn quên đi, vùi lấp đi hòng giải phóng bản thân, để có thể nuôi dưỡng cái ý chí-sống trong hiện tại này35.
THỰC TẠI: KHỔ ĐAU, CŨNG LÀ CỨU RỖI
Chúng ta sẽ quay trở lại với vấn đề phủ nhận này ở phần sau, khi nói về sự phân li của cá nhân khỏi một phần quá khứ của anh ta trong quá trình trị liệu. Ở đây hãy tập trung vào một vấn đề đáng chú ý trong việc diễn giải quá khứ.
35 Xem thêm Genetische Psychologie, Tập I về cơ chế phóng chiếu những giai đoạn phát triển mất tự chủ này lên các đối tượng của tình yêu.
Thường trong giai đoạn cuối của tiến trình trị liệu, khi bệnh nhân đặc biệt hướng về quá khứ nhiều hơn, chẳng hạn như một tình huống thời thơ ấu, nhất là trong những giấc mơ, thì thế có nghĩa là anh ta bắt đầu cảm thấy cuộc trị liệu ở hiện tại giống như một tình huống nào đấy trong quá khứ. Đấy có thể xem như một tín hiệu tích cực, cho thấy anh ta đã sẵn sàng giải thoát mình khỏi quá khứ. Trong tình huống này, nhà trị liệu phải ủng hộ, hỗ trợ anh ta trong việc chấp nhận con người tự giải thoát này. Ông ta không nên diễn giải về quá khứ đấy để đưa ra kết luận rằng những mảnh vụn quá khứ vẫn đang hiện diện và đeo bám anh ta, rằng chúng chưa được giải quyết. Tất nhiên rồi, bệnh nhân đâu thể ngay tức khắc thoát ra khỏi sự bám chấp vào quá khứ. Nhưng phải hiểu rằng, quá khứ ở đây là cái quá khứ trong tiến trình trị liệu, bản thân nó đã được diễn giải bằng vô số những nội dung hồi tưởng, nó chỉ tạo cho người ta cảm giác về quá khứ thôi, nó không phải là chính cái quá khứ đấy trong thực tại.
Một lần nữa chúng ta thấy rằng, vấn đề tâm lí đích thực không nằm ở những nội dung hồi tưởng, hay ở cái quá khứ trong thực tế. Nó nằm ở động cơ tâm lí: Tại sao người ta lại cần đến một quá khứ, một tình huống đã qua hòng giúp bản thân băng qua cái thực tại này – một thực tại nghiệt ngã ở hiện tại, ngay tại đây và ngay lúc này? Tại sao vậy?
Lí thuyết phân tâm giải thích thực tế này là tác động của khuynh hướng thoái lui, tức là, của những ham muốn dục năng (libido) trong cá nhân. Nói cách khác, anh ta muốn quay lại thời ấu thơ vì ở đó rất dễ chịu, rất an lành, ở đó anh ta được thỏa mãn. Tuy nhiên, cách giải thích này rất mâu thuẫn. Nó không chỉ mâu thuẫn với thực tế, mà còn mâu thuẫn với một phần khác trong chính lí thuyết phân tâm học, trong đó nói lên một sự thật đã phá hủy ảo tưởng về thiên đường thời thơ ấu, khi cho thấy rằng đứa trẻ trong quá trình thích nghi để trưởng thành và hình thành nhân cách đã phải chịu đựng còn nhiều hơn những gì người lớn sau này phải chịu đựng.
Thật ra thì bạn phải biết là, một người muốn quay trở lại quá khứ không phải bởi quá khứ đấy tốt đẹp hơn hay ít đau đớn hơn, mà chỉ vì nó là “lúc ấy rồi”, “chuyện đã rồi”, dù nó đau buồn đến đâu, thì nó cũng đã qua rồi, nó là dĩ vãng36. Hiện tại, xét cho cùng, luôn đau khổ hơn vì nó là hiện tại. Đối với ý chí và cảm nhận thật sự lúc đấy của con người ta, hiện tại chỉ tô đậm thêm cái sự tự ý thức đầy đau đớn dày vò. Thế nên, chúng ta vui mừng xiết bao khi đào thoát khỏi cái hiện tại đấy, trong một ảo tưởng được chạy về quá khứ hay đi đến tương lai. Mà một khi quá khứ hiện diện ở hiện tại, hay tương lai trở thành hiện tại thì chúng cũng đau đớn và bất mãn chẳng kém, để rồi chúng ta lại mong muốn trốn chạy khỏi chúng. Thế nên trong tâm lí đích thật, mọi ước nguyện, mọi mong muốn được hoàn thành bao giờ cũng mang trong nó một ảo mộng tan vỡ, một nỗi thất vọng tràn trề. Bởi cái ý chí, cái mong muốn bản thân nó mang đến sự khoái lạc nhiều hơn là niềm đau, còn việc hoàn thành ước nguyện lại thường trực mang đến nhiều thất vọng hơn là sự hài lòng, thỏa mãn.
36 Điều này giải thích cho cái gọi là “giấc mơ trừng phạt”, trong đó cá nhân thậm chí muốn quay trở lại quá khứ đau khổ, chỉ vì nó đã là quá khứ, chứ không hẳn vì nó đau đớn hay không.
Đời sống tinh thần của con người, xét cho cùng đều neo đậu ở hiện tại. Thế nên mọi sự thoái lui về quá khứ hay tiến đến tương lai đều chỉ là cách để con người phản ứng trước các áp lực của thực tại, hòng nới lỏng, giãn cách với cái hiện tại vốn đầy đau khổ khi phải mang theo ý chí sống và sự thấu biết. Đấy là tâm lí đích thực nằm đằng sau cái gọi là “vấn đề thực tại”. Nó không là gì khác ngoài vấn đề của hiện tại, hay nói cách khác, là ý thức về việc phải sống. Khuynh hướng giải thoát khỏi hiện tại có lẽ là sức mạnh tinh thần mãnh liệt nhất trong mỗi người, và nó hiểu hiện ra ngoài qua nỗ lực phấn đấu cho niềm hạnh phúc và sự cứu rỗi37.
Phân tâm học với phương pháp diễn giải nhân quả- lịch sử đã mặc nhiên ủng hộ khuynh hướng thoái lui về quá khứ, thay vì tích cực giúp bệnh nhân thức nhận về cái khoảnh khắc trải nghiệm hiện tại của tình huống trị liệu. Lí thuyết phân tâm giải thích rằng, một người muốn quay trở lại quá khứ, bởi cái quá khứ đấy nó tốt đẹp chứ không phải vì hiện tại quá tồi tệ. Nhưng cùng lúc đó, phân tâm học cũng loại bỏ vai trò của ý chí khi cho rằng cá nhân quay quá khứ không phải bởi vì bản thân anh ta muốn như vậy, mà vì anh ta bị cái quá khứ đấy cám dỗ, kéo trở lại, đúng hơn là anh ta bị những kí ức về quá khứ dụ hoặc – có lẽ kí ức thì lúc nào cũng vui vẻ hơn. Trên nền tảng cách lí giải như vậy, nên phân tâm trở lại học cứ cố gắng tìm cách tháo gỡ sự mê đắm một quá khứ vui vẻ tươi đẹp nơi bệnh nhân. Còn tôi vẫn luôn khẳng định rằng: Vấn đề nằm ở hiện tại. Và nhấn mạnh rằng: Bệnh nhân đang cố gắng phủ nhận cảm xúc của mình với trải nghiệm ở hiện tại, chứ không phải với quá khứ nào cả. Sự dồn nén, như tôi thấy, không liên quan đến các sự kiện thực tế trong quá khứ mà đến sự hồi tưởng. Nghĩa là, bản thân những suy nghĩ và cảm xúc của người ta về một sự kiện mới làm người ta tổn thương, và khi chìm đắm trong chúng người ta mới thấy đau đớn, bất kể đấy là ngày hôm nay hay ngày hôm qua.
37 Xem thêm “Happiness and Redemption” trong Truth and reality, bản tiếng Việt: Cái thật và Thực tại, phần “Hạnh phúc và Cứu rỗi”, Sđd.
Theo nghĩa này, về mặt tâm lí mà nói: Không tồn tại cái gọi là quá khứ, mà chỉ có hiện tại, nghĩa là chỉ có ý chí và cảm xúc, suy nghĩ và ý thức. Chỉ có bản thân tâm lí, một tâm lí thuần túy, không nhuốm màu quá khứ, không tĩnh tại chết cứng mà biến đổi sống động. Ở góc độ này, tâm lí học trước thời phân tâm học, vốn tập trung vào các quá trình cảm nhận, ý chí, nhận thức, suy nghĩ, nó đúng chất là tâm lí học hơn là phân tâm học; cũng như lí thuyết của phong trào Gestalt tập trung vào tâm lí học chức năng hoặc hành vi, chứ nó không phải là những diễn giải về tâm lí kiểu phân tâm học. Hẳn là những trào lưu tâm lí mới này chủ yếu vẫn mang tính mô tả và khá hình thức, nhưng xét về tổng thể, chúng khác biệt với nền tâm lí học hàn lâm trước kia, chúng chỉ ra rằng: Chúng ta nhất định phải khám phá ra yếu tố mang tính động cơ tâm lí, cái kiểm soát đằng sau mọi thứ.
TÂM LÍ HỌC Ý CHÍ: ĐI TÌM ĐỘNG CƠ ĐẰNG SAU TẤT CẢ
Ở đây, Tâm lí học Ý chí sẽ làm hai nhiệm vụ:
(i) Đi tìm cái động cơ đã được phân tâm học nhấn mạnh trước đó, song chúng tôi sẽ cố gắng nhìn nó dưới góc nhìn tâm lí thuần túy, thay vì diễn giải nó. Chúng ta sẽ không cố bám víu vào một hệ thống phân loại chung chung về nội dung ý chí, bởi điều đó cùng lắm chỉ có thể mang đến một ý nghĩa đạo đức phẩm hạnh nào đó, chứ không bao giờ có ý nghĩa về mặt tâm lí. Tâm lí học Ý chí của chúng ta sẽ trả lời cho câu hỏi “tại sao” và “như thế nào”, tức là tìm ra cái động cơ đằng sau ý chí đấy và cách nó hoạt động. Còn về mặt tâm lí mà nói, nội dung của ý chí và tất cả các khả năng diễn giải về nó chỉ đóng vai trò thứ yếu mà thôi.
(ii) Với Tâm lí học Ý chí, chúng ta sẽ tiến một bước quan trọng nữa, đấy là thiết đặt nhiệm vụ thực tế của nền tâm lí học. Trước hết bằng việc thừa nhận rằng mọi diễn giải về nội dung của ý chí chỉ thích hợp với mục đích nghiên cứu, chứ không hữu dụng ở trong thực tế trị liệu.
Thế nên, chúng tôi không lấy nội dung của ý chí làm đối tượng của mình, vì nó biểu hiện thay đổi tùy theo hệ tư tưởng chung hoặc tùy theo cá nhân vào từng thời điểm nhất định. Hệ tư tưởng này như thế nào thì lại phụ thuộc vào sự phát triển và thái độ của Ý thức con người ta đối với Ý chí. Chủ đề thật sự mà Tâm lí học Ý chí muốn bàn đến ở đây là: Bản thân hiện tượng ý chí và chức năng ý chí thuần túy tinh thần. Tất cả những thứ khác chỉ là tâm lí học “thực nghiệm” mà thôi. Cái mà Freud gọi là siêu-tâm-lí-học thật ra chỉ là tâm lí học, tất cả những phần còn lại là sinh học, sư phạm hay thần thoại. Nội dung của ý chí, bất kể nó thể hiện dưới hình thức tôn giáo, đạo đức, luân thường đạo lí, xã hội hay khoa học tự nhiên, đều thuộc về một góc nhìn khác, mà tôi gọi là triết học tinh thần. Nói cách khác, với Tâm lí học Ý chí, chúng tôi tách các nội dung tinh thần khác ra khỏi các hình thức và động lực tâm lí của Ý chí. Ít nhất tôi cố gắng thực hiện một cách hệ thống và có phương pháp, dù tôi ý thức rằng trong thực tế nó chỉ khả thi ở một mức nhất định.
Trong một lĩnh vực duy nhất, vừa khó nhất cũng thú vị nhất, hai khía cạnh này (bao gồm các nội dung của đời sống tinh thần và động lực của nó) tan thành một thể thống nhất bất khả phân li, đấy là lĩnh vực Tư duy nhận thức luận. Ở đây bản thân các hiện tượng và chức năng tâm lí đích thực cấu thành nên nội dung suy nghĩ của chúng ta và cùng lúc là chất liệu của đời sống tinh thần. Ngoài địa hạt của tư duy nhận thức này ra, thì tôi cho rằng, việc giải thích các hiện tượng tâm lí theo chiều hướng quá khứ, dù là lối diễn giải mới mẻ của khoa học tự nhiên hiện đại, lối diễn giải tôn giáo, hay bất kì lối diễn giải nào khác, cũng đều thật thiên lệch. Trên thực tế, chúng ta thấy rằng, không chỉ phân tâm học (lấy khoa học tự nhiên làm nền tảng) của Freud mượn đến thần thoại, đến đạo đức - xã hội để diễn giải, mà ngay cả cá nhân mỗi chúng ta cũng phân tích những suy nghĩ và cảm nhận về những nội dung tinh thần này theo lối biểu tượng. Trong xu hướng biến ý thức hệ đang thống trị tư tưởng xã hội thành một nội dung độc quyền của tinh thần, thì cái hiện tại – vốn bị phủ nhận trong diễn giải nhân quả – dường như trả thù cho chính nó. Khía cạnh hiện tại của trải nghiệm tinh thần, vốn bị phủ nhận trong lối phân tâm nhân quả, bùng lên mạnh mẽ và đâm xuyên qua cái tư duy bảo thủ của tư tưởng phân tâm hiện hành. Ở hiện tại này, cá nhân tự do trong việc lựa chọn từ những nội dung đa dạng của quá khứ cái điều tương ứng với cá tính của anh ta trong trải nghiệm hiện tại và cấp cho chúng một ý nghĩa biểu tượng.
Hãy cùng điểm qua một chút các khiếm khuyết của những lối diễn giải phi tâm lí học:
(i) Hệ tư tưởng khoa học tự nhiên, bản thân nó chỉ đại diện cho một nội dung tinh thần nhất định. Thậm chí nó cũng không phải là nội dung tinh thần được phổ biến rộng rãi. Thế nên nó không thể mang giá trị như một tiêu chí chân lí cho tất cả các nội dung tinh thần khác, cũng như không thể áp dụng nó như một nguyên tắc giải thích duy nhất cho tất cả các quá trình tinh thần của con người.
(ii) Nguyên lí diễn nhân quả vốn mang tính lịch sử, còn tinh thần bản thân nó là hiện tại, là thực tế. Do đó, áp dụng lối giải thích nhân quả cho tinh thần cũng có nghĩa là phủ nhận Ý chí. Nó làm cho suy nghĩ, cảm xúc và hành động của người ta phụ thuộc vào các lực lượng bên ngoài họ, và do đó, giải phóng người ta khỏi trách nhiệm và tội lỗi. Mà việc chối bỏ trách nhiệm đấy lại là một vấn đề đạo đức phẩm hạnh, nó không phải vấn đề của tâm lí, hay nói đúng hơn là nó tạo ra một vấn đề đạo đức phẩm hạnh mới. Sự chối bỏ trách nhiệm này tự nó gây ra những cảm giác tội lỗi vì: Thứ nhất, cá nhân ngày càng có ý thức hơn về việc anh ta hợp lí hóa sự chối bỏ; và thứ hai, vì anh ta tự bảo vệ mình sao cho quyền tự chủ của anh ta không bị hạn chế hoặc phá hủy, anh ta cảm thấy xấu hổ khi anh ta luôn cần lí do để biện minh, để bào chữa cho chính mình.
Logic tinh thần khác với quy tắc nhân quả của khoa học tự nhiên ở chỗ, với khoa học tự nhiên, chúng ta có một chuỗi bất tận các nguyên nhân, mà đôi khi nhà trị liệu buộc phải khép lại bằng cách tạo ra một nguyên nhân chính, nguyên nhân nguyên thủy nào đó. Thế nên cứ theo đà truy nguyên đó thì cuối cùng mọi nguyên nhân đều dẫn đến niềm tin, đến cùng là dựa trên niềm tin đấy. Cho dù bạn có theo kiểu kêu gọi giải phóng tôn giáo một cách ngây thơ hay không thì cuối cùng bạn cũng sẽ được dẫn đến điểm này: Đặt ý chí cá nhân mình vào tay Chúa toàn năng hay một lực lượng siêu nhiên nào đó, coi ý chí của Ngài là nguyên nhân khởi đầu, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân; để cùng lúc chúng ta vẫn có thể công nhận một ý chí cá nhân trong khi đồng thời phủ nhận nó. Chỉ trong ý chí cá nhân, chúng ta mới có những hành động mang tính tự phát, và do đó, tạo ra một nguyên nhân khởi thủy mới. Theo nghĩa này, không chỉ ý chí, mà cả cá nhân với tư cách là người mang tải nó, chính là đại diện cho một thực tế tâm lí mới. Tôi không định tùy tiện làm gián đoạn chuỗi nhân quả bằng bất kì giả định sau cùng nào về một ý chí tự do, tôi đang thực sự khởi động một chuỗi nhân quả mới. Chẳng phải đây chính là ý nghĩa của câu chuyện thần thoại về Con người đầu tiên hay sao? Con người là khởi đầu của một loạt những nguyên nhân mới. Bạn đã đọc thấy nó khắp nơi: với Adam trong Kinh thánh, với những anh hùng muốn vượt thoát khỏi quá khứ để khai sinh một giống loài mới như Adam, tạo ra một thế hệ mới như Prometheus, hay mở ra một thời đại mới như Đấng Cứu Thế.
Bên cạnh ý chí của mình, cá nhân còn thêm vào một nguyên nhân mới và chưa từng được biết đến trong chuỗi nhân quả của khoa học tự nhiên, đấy là Ý thức, đặc biệt: một mặt, là sự tự-ý-thức về bản thân; và mặt khác, là nhu cầu biện minh cho ý chí của mình bằng một ý thức hệ. Nói cách khác, con người không chỉ là một thực thể mang tải tâm lí, mà còn mang chở đạo đức xã hội. Vì vậy, nhà trị liệu phải thấy rằng, tại sao một nền tâm lí học đặt nền tảng trên khoa học tự nhiên giống như phân tâm học lại phủ nhận ý chí và ý thức, và thay vào đó bằng cái id vô thức như một yếu tố nhân quả. Về mặt đạo đức phẩm hạnh mà nói, ý tưởng về vô thức này không khác gì ý tưởng về một Thượng Đế toàn năng, cũng như tính dục trong hình hài một con dê tế thần chẳng khác nào ý niệm về quỷ dữ.
Nói cách khác, phân tâm học trên nền tảng khoa học chỉ cung cấp cho cá nhân một lí do mới để anh ta bào chữa cho Ý chí của mình và giải phóng bản thân khỏi gánh nặng trách nhiệm của Ý thức. Còn nhiệm vụ của Liệu pháp Ý chí, một liệu pháp mang tính kiến tạo tích cực là dẫn lối con người, những kẻ vốn đau khổ vì đã mất đi những ảo tưởng và thậm chí phá hủy ngay cả cái bản tính tự nhiên của mình, hòng giúp họ thoát ra khỏi sự trốn tránh, sự bao biện để đi đến tự nguyện chấp nhận bản thân và gánh lấy trách nhiệm sống của chính mình.