Những gì bạn nỗ lực đạt được nằm ngay ở trong bạn, đừng tìm kiếm nó bên ngoài kia
– Persius -
Vậy là chúng ta đã cùng nhau thảo luận về Quá khứ và Hiện tại từ góc độ tâm lí học rất thuần túy, nhờ đó đi sâu hơn vào cái địa hạt rất mơ hồ, cũng rất nhạy cảm của sự phát triển nhân cách. Ở đây bạn cũng thấy được ứng xử sai lầm của trị liệu phân tâm với chứng loạn thần kinh. Mong muốn thoát khỏi hiện tại thôi đẩy người ta trốn vào quá khứ, hoặc ảo vọng về tương lai bằng những nghĩ ngợi vẩn vơ, những giấc mơ ngày hão huyền, nó dựa trên một quá trình gọi là so sánh.
Sự so sánh đóng vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần của một con người. Cho dù vì bất kì động cơ nào mà chúng ta muốn thoát khỏi hiện tại, thì nguyên lí luôn là sự so sánh này, và kết quả chúng ta luôn thấy một thứ khác tốt hơn cái hiện tại chúng ta đang có, chúng ta thậm chí tự lừa dối chính mình về điều đó. Quá khứ hay tương lai, theo một nghĩa nào đó, cũng chỉ là những phương tiện mang tính chất biểu trưng mà thôi. Rõ ràng là chúng ta chỉ có thể suy nghĩ khi có một thứ gì đó để so sánh, một đơn vị để đo lường, một cái khung để chiếu vào, một dấu chỉ để đi theo. Chúng ta phải có một cái gì đó tương phản với cái mà chúng ta nghĩ. Theo nghĩa này, biểu hiện trí tuệ trong phân tích xét cho cùng là mang tính chất tiêu cực, cũng giống như các biểu lộ của ý chí vậy. Việc biểu lộ ý chí một cách tiêu cực có lẽ cũng có nguồn gốc từ sự so sánh này. Đến đây, chúng ta bắt gặp vấn đề về Sự tương đồng và Sự khác biệt, trong đó chứa đựng toàn bộ vấn đề về tính cách cá nhân, hay chúng ta vẫn gọi là cá tính. Cái tính cách cá nhân đấy, chúng ta dường như chỉ ý thức và nhận thức được khi so sánh, và chủ yếu là khi so sánh với những người khác.
SỰ KHÁC BIỆT: ĐIỂM KHỞI ĐẦU CỦA TÍNH CÁCH CÁ NHÂN
Những người loạn thần kinh, và có lẽ đa phần chúng ta cũng vậy, thường mở đầu câu chuyện về mình với lời tự thuật rằng mình đã cảm thấy bản thân khác với những-người-khác từ thời thơ ấu. Trong khi thật ra “những người khác” mà anh ta đề cập ở đây chỉ là một số ít anh chị em, hoặc bạn cùng chơi mà thôi. Cảm giác khác biệt này có lẽ chỉ đúng ở chừng mức nào đó so với thực tế trong quá khứ, nhưng về mặt tâm lí mà nói thì nó luôn luôn đúng. Trong mọi sự việc, nó càng rõ ràng hơn khi cá nhân cố truy lần dấu vết, nguồn cơn của những khó khăn, đau khổ mà anh ta đã phải chịu đựng bởi sự khác biệt của mình. Sự khác biệt này vốn đã thuộc về cá nhân từ thời thơ ấu? Hay nó xuất hiện qua những trải nghiệm tổn thương đầu tiên trong cuộc đời và dần dần được định hình trong cuộc sống sau này? Phải chăng, dù cá nhân không hoàn toàn ý thức đầy đủ về sự tồn tại của nó, chỉ là đôi lúc nó xuất hiện trong vài nét tính cách của anh ta, anh ta dường như không thể chấp nhận cũng như xác quyết về nó, anh ta phải phủ nhận. Nhận thức về sự khác biệt đấy ở mỗi người, xét cho cùng, không là gì khác ngoài cảm giác khó chịu, tổn thương, và phán xét về giá trị. Anh ta chỉ muốn bật thốt lên rằng: “Tôi không nên khác biệt, tôi nên giống như mọi người.” Theo đó, cá nhân phải chịu khổ sở vì sự khác biệt của mình, anh ta phải chịu đựng chính cái cá tính của anh ta. Thực tế tâm lí này, chúng ta không khó để nhận ra, nhất là đối với những cá nhân có sự tự-ý-thức, tự quan sát mạnh mẽ, và đặc biệt ở những người loạn thần kinh siêu nhạy cảm.
Phân tâm học dựa vào nguyên lí nhân quả đã cố gắng giải thích cảm giác về sự khác biệt này theo hướng truy nguyên quá khứ. Trong lí thuyết của Freud, việc giải thích về sự khác biệt xuất hiện muộn và bao gồm cái gọi là phức cảm thiến hoạn (castration complex38) như là một nhận thức về sự khác biệt giới tính. Theo Freud thì cảm giác đau đớn về sự khác biệt này quay ngược trở lại với nhận thức về sự khác biệt giới tính. Thật ra chính là quay trở lại với bản thân sự khác biệt giới tính và phản ứng của bản ngã với nó, cùng lời xác quyết từ đó về sau rằng “Tôi sẽ-là như thế” hoặc “Tôi sẽ-không-là (tôi sợ) như thế”. Trên thực tế, chúng ta cần phải phân biệt rất rõ điểm này: (i) Cảm giác về sự khác biệt này xuất phát từ nhận thức về khác biệt giới tính – như Freud đã nói? Hay (ii) Cảm giác khác biệt đấy là một biểu hiện của sự khác biệt cá tính, và giới tính chỉ là một phương diện để giải thích và biện minh cho cảm giác khác biệt thôi? Tôi thấy dường như lí thuyết phân tâm học đang đi theo hướng thứ hai kia.
38 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.
Trong lí thuyết của Freud, cảm giác khác biệt đấy không được gọi tên, bản thân hiện tượng đấy cũng bị che giấu. Adler đã tiến thêm một bước bằng cách giải thích về nó, đặt tên cho nó – hay nói đúng hơn là cho một khía cạnh của nó, với lí thuyết về phức cảm tự ti. Song xét cho cùng, đấy chỉ là mô tả về một khía cạnh của cảm giác khác biệt khi nó thể hiện trong ý thức của người loạn thần kinh: “Tôi không nên khác biệt mà nên giống như những người khác. Sự khác biệt của tôi thật tệ hại, tôi thật là kém cỏi.” Mặc dù Adler nhận ra sự hiện diện của cảm giác tự ti trong mỗi cá nhân, nhưng cách giải thích của ông về nó cũng chứa đầy lỗ hổng như lí thuyết thiến hoạn của Freud. Adler giải thích các khía cạnh tinh thần của cảm giác tự ti từ thực tế rằng: Đứa trẻ, khi so sánh mình với những người lớn và anh chị em trong gia đình, nhất định phải cảm thấy mình kém cỏi. Nói cách khác, cảm giác tự ti này được giải thích bằng một thực tế có thật. Lí thuyết thiến hoạn của Freud thì mượn đến một thực tế sinh học, còn Adler dùng đến một thực tế xã hội để giải thích cho cảm giác về sự khác biệt. Khi giải mã về động cơ của cảm giác tự ti này, Adler cho rằng nó xuất phát từ hoàn cảnh, môi trường sống: Những cá nhân khẳng định cá tính riêng của họ, cảm thấy mình vượt trội, thì đấy chỉ như là một sự bù đắp cho cảm giác tự ti nguyên thủy. Do đó, ông thấy tính ưu việt chỉ là một cách cá nhân phản ứng lại hoàn cảnh sống và gọi nó là “sự phản kháng tính gia trưởng”.
Như tôi vừa nói, mô tả của Adler về cảm giác tự ti chỉ là một khía cạnh của cảm giác khác biệt. Đấy chẳng qua là sự phủ nhận mang tính loạn thần của một người bất lực trong việc khẳng định sự khác biệt, trong việc xác lập cá tính của mình. Tôi thấy cách lí giải của Adler mâu thuẫn với cái gọi là cảm giác khác biệt mà chúng ta đang bàn đến, cũng như với kinh nghiệm trị liệu của chúng tôi: Một người vẫn có thể thừa nhận cái cá tính riêng đấy một cách tích cực và mang tính bù đắp, và chúng ta có thể thấy điều đó trong cảm-giác-cá-tính (personality feeling) của những cá nhân năng động và sáng tạo. Những cá nhân này có ý thức rất mạnh mẽ về sự khác biệt, thậm chí ý thức đấy dẫn họ đến một phản ứng tâm lí đầy đau đớn: Đấy có thể được gọi là mặc cảm tội lỗi hơn là mặc cảm tự ti, bởi nó không xuất phát từ việc phủ nhận cá tính, mà là do quá chú mục, quá nhấn mạnh cá tính của mình.
Giống như lí thuyết về mặc cảm tự ti của Adler, lí thuyết thiến hoạn của Freud cố gắng giải thích cảm giác khác biệt bằng nguyên lí nhân quả, nó còn mang chứa cả những đánh giá xã hội, sinh học và phẩm hạnh về cảm giác khác biệt đấy. Cả hai lí thuyết vô hình trung đều dựa trên giả định rằng: Nam tính là đại diện cho sự vượt trội, nó là thứ người ta khao khát, mong muốn có được; còn nữ tính chỉ là sự thấp kém, là nỗi sợ hãi. Thật ra, giả định này bắt nguồn từ một cảm giác chung, một vấn đề mang tính phổ quát của con người, mà có lẽ sẽ kéo lí thuyết về ý chí của chúng ta ra khỏi phạm vi tâm lí của nó. Thế nên chúng ta hãy quay trở lại với câu hỏi rốt ráo: Bất kể nhấn mạnh đến khía cạnh sinh học hay khía cạnh xã hội, thì cái động lực đằng sau Ý thức về sự khác biệt của con người là đúng thật về mặt tâm lí, hay chỉ là kết quả không thể tránh khỏi của việc diễn giải Ý chí?
Dưới ánh sáng của Tâm lí học Ý chí, có thể thấy rằng lí thuyết thiến hoạn của Freud cũng như lí thuyết mặc cảm tự ti của Adler chỉ là hai cách giải thích về cảm giác khác biệt của cá nhân trên cơ sở mặc cảm về tính dục hoặc mặc cảm về xã hội. Trên thực tế lẫn về tâm lí mà nói, hai mặc cảm này xét cho cùng đều chỉ là mặc cảm ý chí (will inferiority) mà thôi. Nghĩa là: Đứa trẻ cảm thấy mình kém cỏi khi đặt mình bên cạnh một ý chí cường hoành hơn; và người phụ nữ cảm thấy bản thân thấp kém khi đặt bên cạnh ý chí tính dục mạnh mẽ hơn của người đàn ông. Người đàn ông trưởng thành, theo đó, sẽ không-dám cảm thấy mình kém cỏi. Nhưng toàn bộ nền tâm lí học, cùng của các chứng loạn thần và lịch sử văn minh đã cho thấy: Anh ta luôn cảm thấy tự ti, bởi vì, như tôi vẫn nói, cá tính biểu hiện mạnh mẽ nhất trong anh ta – một người đàn ông trưởng thành. Nói cách khác, vấn đề không nằm ở bên ngoài mà hoàn toàn nằm ở bên trong một người. Bất cứ động lực bên ngoài nào, xét cho cùng, chỉ là một sự phóng chiếu, một nỗ lực giải phóng cái xung đột ý chí nội tại trên cơ sở phủ nhận, hoặc là nỗ lực giải phóng chính cái ý chí đấy.
Adler đã khái quát hóa sự phản kháng nam tính thành cái gọi là ý chí-hướng-đến-quyền-lực, nó vượt ra ngoài vấn đề giới tính, nhưng cuối cùng lại đi chệch hướng sang vấn đề xã hội. Thế nên, cũng giống như lí thuyết về bản năng tính dục đối của Freud, lí thuyết về ý chí tích cực này cũng không giải quyết được vấn đề, nó chỉ thêm thắt vào những giá trị xã hội và sư phạm, hoặc đạo đức và giáo dục. Trong khi tâm lí đích thật nó rất khác, nó không mang theo bất kì tính xã hội hay đạo đức nào cả.
Ý THỨC VỀ SỰ KHÁC BIỆT CÁ NHÂN
Ý chí, như tôi đã trình bày trong Cái thật và thực tại, vốn có nguồn gốc tiêu cực, ban đầu nó khởi lên như một lực phản kháng hòng chống lại các áp lực đến từ nội giới hoặc ngoại giới. Quan điểm đạo đức - sư phạm chỉ trích ý chí này, rằng một người không nên có ý chí (chống lại ý chí khác). Nhưng cách nhìn này là phi tâm lí, bởi chính sự phản kháng này cấu thành bản chất của ý chí. Freud gọi ý chí đối nghịch này là “sự chống đối”. Trong lí thuyết về “ý chí phản xã hội”, Adler gọi đấy là sự phản kháng hay tính bướng bỉnh. Về mặt tâm lí thì đúng có khía cạnh đấy, nhưng khi đưa vào trị liệu lại không mấy hữu dụng hoặc đi vào ngõ cụt, vì cái khía cạnh tích cực của sự phản kháng không được thừa nhận. Tư tưởng mang tính đạo đức - sư phạm của Freud, cũng như của Adler, chỉ khiến cho sự phủ nhận ý chí nơi bệnh nhân càng mạnh mẽ hơn, và theo đó, không cho phép vấn đề loạn thần kinh được nhìn nhận từ góc độ sâu hơn của nó với tư cách một vấn đề của cá tính, hay nói cách khác là tính cá nhân.
Về mặt tâm lí mà nói, cá tính chính là vấn đề của Ý chí và Ý thức, nó liên quan đến cái ý chí có-ý-thức của chúng ta. Trong khi đó, vì chỉ nhìn vào bản chất tiêu cực của ý chí, chúng ta thường xuyên phủ nhận cái cá tính đấy. Do đó, loạn thần kinh không chỉ là bệnh tật, nó còn là một giai đoạn phát triển của cá tính. Đến đây chúng ta có thể nói gì về chứng loạn thần kinh? Loạn thần kinh chẳng qua là một nhân cách đang phủ nhận ý chí của chính mình, không chấp nhận mình với tư cách một cá nhân khác biệt. Sự phủ nhận này diễn ra toàn triệt trong cả địa hạt Ý chí lẫn địa hạt Ý thức. Người loạn thần kinh, do đó có thể nói, đại diện cho những con người thấu biết chính mình và ý chí của mình, nhưng họ phải dồn nén sự-biết này, họ chối bỏ ý thức về bản thân. Tùy thuộc vào việc xung đột này diễn ra do sự phủ nhận ý chí cá nhân nhiều hơn, hay do phủ nhận sự thấu biết bản thân nhiều hơn, mà nó biểu hiện dưới dạng mặc cảm tội lỗi hay mặc cảm tự ti. Có điều xét đến cùng, tất cả đều quay trở lại với vấn đề ý thức về sự khác biệt của cá nhân, hay nói cách khác: về cá tính.
Chứng loạn thần kinh: (i) nhìn từ cảm giác tự ti được xem như một vấn đề về Ý thức, còn nếu (ii) nhìn từ mặc cảm tội lỗi thì nó như một vấn đề về Ý chí. Tất nhiên, xét cho cùng nó bao chứa cả hai vấn đề ý chí và ý thức, vì theo tâm lí mà nói, không có ý thức nào lại không có ý chí, và không có ý chí nào lại không bao hàm ý thức. Nhưng dường như các chứng loạn thần kinh trong lịch sử phát triển có xu hướng tập trung ngày càng nhiều ở địa hạt ý thức. Theo đó, có thể hiểu một chứng loạn thần kinh hiện đại mà không cần truy dấu lịch sử, cũng như lật lại từng trường hợp cá biệt; cũng có thể hiểu một bệnh nhân loạn thần kinh mà không cần lật tung toàn bộ quá khứ của anh ta. Freud đã mắc lỗi phóng chiếu này, ông muốn tìm hiểu và giải thích chứng loạn thần kinh từ tận thời thơ ấu của người ta. Và trong quá trình hình thành lí thuyết, ông cũng mắc sai lầm tương tự khi cố gắng thấu hiểu và giải thích con người hiện đại với đầy ắp và nặng trĩu những tri thức từ các thời kì phát triển ban sơ. Chúng ta chắc chắn sẽ phải đặt câu hỏi về việc phân tâm học đã loại trừ toàn bộ cái tiến trình phát triển của ý thức nơi một người, và rằng: Có nhất thiết phải thấu hiểu một con người bằng cách lật ngược thời thơ ấu của anh ta hay không? Hay đấy chỉ là một cách giải thích về con người hiện đại bằng các thần thoại thời kì sơ nguyên mà thôi?
Thay vì lấy các ví dụ từ chứng rối loạn thần kinh trong tâm lí học, tôi sẽ nói về lỗi phóng chiếu này và những hệ quả sai lệch của nó trong phức cảm Oedipus. Vì trong phân tâm học, phức cảm Oedipus đóng vai trò là một nguyên mẫu của thời thơ ấu, cũng như của thần thoại và thời nguyên thủy. Freud dùng câu chuyện về Oedipus trong thần thoại Hi Lạp làm ẩn dụ là để đưa ra một giả thiết hợp lí về những khát khao nguyên thủy ở đứa trẻ. Bản thân Oedipus trong câu chuyện thần thoại kia đã phải viện đến lời tiên tri để biện minh cho mối quan hệ loạn luân với người mẹ, và anh ta đã thất bại. Cảm giác tội lỗi trong con người vì thế không phải đến từ những nguyên nhân ngoại giới, mà nổi lên từ ý chí riêng của chúng ta, cái ý chí đã không thoái lùi dù phải đi đến bước đường bi kịch (giết cha lấy mẹ)̣.
Song đây cũng chưa hoàn toàn là ý nghĩa của câu chuyện thần thoại kinh điển này. Thật ra, nó mượn tất cả những biểu tượng này để hình dung về cuộc xung đột ý chí bên trong mỗi con người. Lối kể ẩn dụ của nó có vẻ đã đánh lạc hướng khiến chúng ta luận ra một bài học đạo đức phẩm hạnh hoàn toàn khác với những gì nó thực muốn nói: Câu chuyện cổ Oedipus của Hi Lạp có thể được hiểu như là một phản ứng trước cái xung đột tinh thần của con người. Nào là nhà tiên tri huyền bí đầu tiên, một nhà triết học tiên đoán đầy mai mỉa hòng giải một câu đố đầy hóc búa, đầy tính giả định về bản chất con người. Bản thân chàng thanh niên Oedipus khôn ngoan trong câu chuyện ấy cũng chỉ là một người giải đố tự phụ, một kẻ duy lí thất bại trong việc giải thích sao cho hợp lí những vấn đề sâu xa nhất của con người. Trong khi anh ta hoàn toàn mù mờ về thế giới nội tâm tăm tối bên trong chính mình.
Đây mới là ý nghĩa của câu chuyện thần thoại cổ vẫn quen thuộc với chúng ta. Bài học đạo đức của nó không phải là kiểu Mười Điều Răn của Chúa. Đấy là một lời cảnh báo, rằng: Con người sẽ phải trả giá cho niềm kiêu hãnh tự phụ về trí tuệ và ý chí của mình, chừng nào họ không thể chấp nhận rằng dù là trí tuệ hay ý chí, thì đấy cũng chỉ là những gương mặt khác nhau của nhân cách mà thôi. Thần thoại Oedipus bảo với chúng ta: Cố gắng kiếm tìm sự thật của mọi thứ đằng sau vẻ ngoài của nó thường chẳng mang đến kết cục tốt đẹp gì. Càng trải nghiệm sự thật, càng biết nhiều, người ta càng trở nên kém may mắn hơn.
Chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi là: Tại sao thần thoại Oedipus lại sử dụng mối quan hệ cha mẹ - con cái để chỉ ra sự vô minh của con người thời đại đó là một vấn đề tôn giáo - đạo đức, chứ không phải một vấn đề tâm lí? Có lẽ bởi việc khám phá ra cha mẹ thực sự của mình nhắc nhở Oedipus về nguồn gốc con người trần tục của mình. Và bởi anh ta thừa nhận nguồn gốc trần tục đấy, nên thảy những cảm xúc và hành động anh hùng của anh ta, thảy những giới hạn ý chí và ý thức mà anh ta đã từng vượt qua trước đó lại bị kéo trở về trong giới hạn thân xác trần tục của anh ta. Do đó cái ý chí anh hùng của anh ta và cái ý thức con người trong anh ta xung đột mạnh mẽ với nhau. Ý chí mạnh mẽ của anh ta khởi lên, trong khi bản thân anh ta mù mờ về chính mình, anh ta phải chối bỏ ý thức tỉnh táo của mình để có thể hành động dứt khoát mà không lung lay, không gục ngã. Trong Oedipus, bi kịch phát sinh không phải từ những gì con người làm, mà từ việc biết hoặc tham muốn biết của con người. Và cuối cùng, chính con người đấy phải tự mình gánh lấy trách nhiệm cho sự biết của mình, thay vì đổ lỗi cho số phận, cho chúa trời, hay cho vô thức.
Các nhà tâm lí và khoa học hiện đại quá coi trọng sự hiểu biết, coi trọng ý thức tỉnh táo như một phương cách chữa lành. Họ đã không nhận ra ý nghĩa từ câu chuyện thần thoại cổ xưa, và rằng ý nghĩa lẫn bài học đạo đức phẩm hạnh của câu chuyện đều không còn phù hợp với ý thức của con người hiện đại nữa. Người ta có thể hứng thú với những bài học đạo đức của nó giống như với Mười Điều Răn của Chúa, người ta cũng có thể muốn dùng nó như một sự lên án cái ý chí bướng bỉnh của con người. Tất nhiên, phán định cái ý chí đấy của con người không phải là ý nghĩa của thần thoại Oedipus, cũng như không phải là nhiệm vụ của tâm lí học. Điều quan trọng nhất câu chuyện cho thấy đấy là: Sự thay đổi thái độ với tính cách cá nhân của con người qua các thời kì khác nhau của lịch sử; và sự thay đổi thái độ sống lẫn cách thế một cá nhân sống với ý chí trong mối quan hệ với ý thức của mình.
Trước đó, tôi đã từng nói về mối liên hệ giữa Ý chí và Ý thức được phản ánh qua các hiện tượng văn hóa lịch sử trong thần thoại và thơ ca39. Trong đó tôi không nhấn mạnh lắm đến mô-típ cha mẹ thường lặp đi lặp lại này. Điều tôi nhấn mạnh là, sự thay đổi trong thái độ của mỗi cá nhân và trong các thời đại khác nhau đối với vấn đề uy quyền cha mẹ. Trong chương giới thiệu viết năm 1905, bên cạnh diễn giải của Freud, tôi đã chỉ ra rằng: Cùng là phức cảm cha mẹ, nhưng trong vở kịch Oedipus thì nó được hình dung như một biểu tượng của hành động ý chí bị cấm đoán; còn trong Hamlet của Shakespeare thì nó được ý thức trước cả khi hành động kịp diễn ra, và do đó làm cho người anh hùng của chúng ta trở nên điên loạn và hoàn toàn tê liệt ý chí.
39 Đề tài loạn luân trong thơ ca và thần thoại.
HÓA RA, CON NGƯỜI KHÔNG THỂ CHỊU ĐỰNG BẢN THÂN NHƯ MỘT CÁ THỂ KHÁC BIỆT
Quay trở lại với người loạn thần kinh ở thời đại chúng ta, đấy là điều chúng ta vẫn thảo luận từ đầu đến giờ, họ là những trường hợp tâm lí điển hình. Cũng giống như mẫu hình Oedipus và Hamlet, người loạn thần kinh hiện đại cũng có chung vấn đề với cha mẹ của họ: Nói theo cách của tâm lí, đấy là mâu thuẫn giữa ý chí cá nhân và ý chí đối nghịch, ý chí đối nghịch đấy ngăn trở ý chí cá nhân của anh ta. Tuy nhiên, ý thức của họ thì không giống nhau. Từ góc nhìn tâm lí, quá trình phát triển của ý thức sẽ cho thấy một lịch sử phát triển cực kì thú vị của chứng đau thần kinh.
Như tôi đã chỉ ra, sự dự phần của Ý thức đã dần lớn hơn theo thời gian. Thực tế là đã có một loại rối loạn thần kinh, họ là những người về cơ bản phải chịu đựng sự tự- ý-thức, cái ý thức đến mức cực đoan về chính mình. Đối với những người này, chất thêm lên họ gánh nặng bằng việc khơi mãi vào cái ý thức của họ về bản thân, giống như liệu pháp phân tâm vẫn làm, chỉ làm cho tình trạng của họ tồi tệ hơn. Những gì họ cần là một trải nghiệm cảm xúc đủ mãnh liệt để bứt khỏi trạng thái tự ý thức đến mức dày vò bản thân, để thực sự trở nên sáng tỏ thấu rõ.
Hãy nhìn thực tế mà xem, trong khi phân tâm học giúp làm giảm số lượng bệnh nhân mắc chứng cuồng loạn, thì số lượng những người loạn thần kinh cưỡng bách lại tăng lên. Như chính Freud đã bảo, trong nhiều năm rồi ông không còn thấy chứng cuồng loạn cổ điển, và ông cho rằng đấy là bởi phân tâm học đã giúp bóc trần căn bệnh. Song thực ra, như tôi đã chỉ ra trong cuốn The Arstist40, bản thân phân tâm học chỉ góp phần tô đậm và chất thêm gánh nặng lên ý thức của người loạn thần kinh. Nghĩa là, phân tâm học chữa một chứng rối loạn này và tạo ra một chứng rối loạn khác. Mỉa mai thay, nó đã tạo ra chứng loạn thần kinh cưỡng bách một cách thật là có khoa học và có hệ thống, bởi nó có khuynh hướng khích lệ ý chí liên tưởng tự do về mặt trí năng, như một lực cưỡng bức để biện minh cho nó. Song tôi không có ý chê trách gì cả, vì phân tâm học đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó.
Chứng loạn thần kinh cưỡng bức xuất hiện như một nguyên mẫu của chứng loạn thần Ý thức thời hiện đại, còn chứng cuồng loạn cổ điển là điển hình tiêu biểu cho chứng loạn thần Ý chí:
(i) Thời cổ đại, chứng cuồng loạn này vẫn được coi là hình thành trong tử cung người mẹ và được thể hiện trong các cơn động kinh. Sự cuồng loạn (về ý chí) này sau đó bị phủ nhận, nhưng nói thẳng ra là được biện hộ với lí do “mất đi ý thức”;
(ii) Đến thời trung cổ, tôn giáo “tuồn” vào ý thức con người ý niệm về phù thủy. Chứng cuồng loạn khi ấy không còn là “căn bệnh” linh thiêng do các vị thần gửi đến như một sự giải thoát tạm thời cho con người khỏi ý thức nữa. Nó trở thành một ám thị của quỷ dữ về cái ý chí độc ác trong con người, thế nên nó đáng bị trừng phạt;
(iii) Đến trường phái tâm thần học của Pháp, cơn cuồng loạn đã trở thành một “màn trình diễn kịch tính”, trong đó bệnh nhân tìm cách vượt lên người khác để xuất hiện đầy ấn tượng trước con mắt của những thầy thuốc vĩ đại;
(iv) Đến phân tâm học Freud, ông ấy đã nhìn thấy ở đó xu hướng đồng nhất hóa, đấy là cái mong muốn trở nên giống những người khác. Có điều ông đã không nhìn ra, đồng thời với mong muốn đồng nhất hóa là sự tranh đua, là mong muốn vượt lên những người khác để trở nên khác biệt. Freud cũng đã có một khám phá quan trọng khác liên quan đến chứng cuồng loạn ở Pháp vào cuối thế kỉ 19, đấy là nếu bị gây áp lực, bị ép buộc thì bệnh nhân có thể nói ra mọi thứ mà vờ như không biết khi người ta hỏi họ. Ông đã không đưa ra kết luận rằng, những cơn cuồng loạn “rất kịch” này ứng với một thái độ ý thức hoàn toàn khác với những cơn cuồng loạn thường gặp trước đây và với những cơn cuồng loạn mà sau này bản thân ông bắt gặp trong giai đoạn đầu hành nghề. Theo mô tả trong cuốn Studien über Hysterie41, những chứng đấy hoàn toàn khác biệt, chúng chứa đựng cảm giác tội lỗi hơn là một kiểu ước nguyện, tức là chúng chứa phần Ý thức nhiều hơn là phần loạn thần Ý chí.
40 Bản tiếng Đức Der Kunstler, 1905.
41 Tạm dịch: “Các nghiên cứu về chứng cuồng loạn” của Josef Breuer và Sigmund Freud xuất bản năm 1895 và được coi là luận thuyết đầu tiên trong phân tâm học cổ điển, sau được chỉnh sửa trong ấn bản năm 1922. Đây là một tập hợp các bài tiểu luận ban đầu đề cập đến khái niệm về chứng cuồng loạn cổ điển (theo Paul Julius Möbius, 1888), nhưng nhanh chóng đưa ra các khái niệm mới, chủ yếu là bệnh nguyên, tức là các bệnh được “chương trình hóa” từ trước khi con người sinh ra. Freud đã phát triển khái niệm của riêng mình, dựa trên giả định là các quá trình vô thức, và sau đó phát triển một liệu pháp tâm lí với phương pháp điều trị không chứa các yếu tố thôi miên và thanh tẩy.
Ngày nay, ít nhất là tại phòng khám tư của nhà trị liệu, người ta hầu như ít gặp những cơn cuồng loạn như vậy nữa. Chúng ta sẽ bắt gặp chứng loạn thần kinh cưỡng bách nhiều hơn, cả ở phụ nữ cũng như đàn ông. Họ là những người phải chịu đựng sự tự ý thức bản thân đến cực đoan, chịu đựng nỗi đau đến cùng cực khi quan sát nội tâm của chính mình. Với mức độ xuất hiện nhiều như vậy, chúng ta không thể xem chứng cưỡng bách chỉ như là một vài trường hợp bệnh lí đơn lẻ nữa rồi. Nó nhất định đặc trưng cho một giai đoạn phát triển, trong đó sự tự-ý-thức về bản thân của con người đã gia tăng theo cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Cần lưu ý các bạn là, chúng ta sẽ không áp dụng những giải thích về các dạng rối loạn thần kinh trước đó để hiểu về các chứng rối loạn thần kinh hiện đại, cũng như sẽ là vô ích khi áp dụng hiểu biết của chúng ta về rối loạn thần kinh thời hiện đại vào việc giải thích các chứng rối loạn trước đó, ngay cả việc so sánh chúng với nhau cũng thế, sẽ không đem lại kết quả nào cả. Chúng ta phải cẩn thận để không hiện đại hóa các chứng bệnh cũ, cũng như không lấy góc nhìn của các chứng bệnh cũ để nhìn nhận các chứng bệnh hiện tại. Vì giá trị của tri thức trong lĩnh vực tinh thần không chỉ ngắn ngủi nhất thời như tri thức nói chung, mà chúng càng trở nên lỗi thời nhanh chóng hơn nhiều vì chúng phụ thuộc vào sự thay đổi của ý thức con người, thậm chí chịu ảnh hưởng tức thì. Theo nghĩa này, chúng ta cần liên tục đưa ra định hướng mới cho tri thức của chúng ta, sao cho theo sát với sự thay đổi của ý thức, nghĩa là không chỉ thâu nhận nhiều tri thức cập nhật hơn, mà còn thâu nhận những cách hiểu khác mới mẻ hơn.
Chẳng hạn, các thầy thuốc thời cổ cho rằng chứng cuồng loạn có nguồn gốc nhục thể (bệnh từ trong bụng mẹ), đấy không chỉ vì họ không nhìn thấy vai trò của ý thức, mà đơn giản bởi vì ý thức không hiện hữu. Cũng vậy, chúng tôi nhấn mạnh phần tinh thần, không phải vì chúng tôi là những nhà tâm lí học giỏi hơn người xưa, mà bởi vì vào lúc này vai trò của ý thức trong con người đang ngày càng chiếm ưu thế hơn. Đối với loại rối loạn thần kinh ý thức thời hiện đại, chúng ta gần như hoàn toàn có thể bỏ qua các triệu chứng cơ thể, bởi vì ở anh ta, xung đột ý chí đã chuyển thành xung đột ý thức. Những gì nhà trị liệu nhìn thấy được có lẽ chỉ là một phần nhỏ cái ý thức đã thôi đẩy đằng sau những triệu chứng hoặc ca cuồng loạn ngày nay mà thôi. Và xét đến cùng, chúng ta cũng chỉ có thể trị liệu một cách hiệu quả khi nhìn từ quan điểm của xung đột ý thức như thế.
Gần đây, tôi thấy những cơn co giật cuồng loạn ở một nữ bệnh nhân rất thông minh, chúng chắc chắn do cái ý chí có-ý-thức rất tỉnh táo của bệnh nhân tạo ra, và nếu muốn, cô ấy cũng có thể kiểm soát soát được chúng một cách có ý thức. Hồi nhỏ, cô ấy vẫn sử dụng các triệu chứng dạng như của chứng rối loạn tic42 (máy giật) trong những lần lên cơn nhẹ của mình, cô ấy chỉ đánh mất ý thức trong những lần lên cơn nặng, song vẫn có thể kiểm soát hành động của mình ở một mức độ nhất định.
42 Rối loạn Tic, hay rối loạn máy giật, là một dạng rối loạn vận động hay một phát âm không chủ đích, xảy ra bất ngờ nhanh chóng nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần.
Theo đó trong trị liệu, tùy vào việc bệnh nhân đang rơi vào tình trạng xung đột ý chí chiếm ưu thế, hay xung đột ý thức chiếm ưu thế mà nhà trị liệu đưa ra các liệu trình trị liệu khác nhau. Dù là trường hợp của từng cá nhân, hay với các dạng rối loạn thần kinh, đều cần đến các liệu trình khác nhau như thế.
(i) Nếu xung đột chủ yếu thể hiện trong Ý chí, và theo đó, cá nhân mượn đến vô thức dưới bất kì hình thức nào hòng phủ nhận vai trò của ý chí trong hành vi của mình, thì khi đó nhà trị liệu phải giúp bệnh nhân ý thức được cái thực tế tâm lí này, rằng anh ta đang cố phủ nhận ý chí, chứ không phải giải thích cho anh ta về cái nội dung ý chí mà thường anh ta đằng nào cũng biết. Thế có nghĩa là, loại người này không cần phải học để trở nên có ý chí, anh ta cần học cách chấp nhận ý chí của mình một cách có ý thức, thay vì nương vào vô thức để trốn tránh;
(ii) Nếu xung đột diễn ra chủ yếu trong địa hạt của Ý thức, thì xung đột ý chí sẽ chuyển thành xung đột trong tư tưởng, trong suy nghĩ. Vì vậy bệnh nhân phải học cách trở nên có ý chí, thay vì học cách suy nghĩ. Không nên “tiếp tay” cho sự chối bỏ ý chí của họ (dù với mục đích phủ nhận hay biện minh) bằng cách nhồi nhét cho họ thêm nhiều những hoạt động trí óc và các nội dung mang tính tư duy nhận thức khác.
Về bản chất, cả hai loại rối loạn thần kinh hiện đại này thật ra đều biết về ý chí của họ và cái trách nhiệm đi liền với ý chí đấy. Chỉ khác nhau là:
(i) Ở loại xung đột ý chí:
• Anh ta không muốn biết bất cứ điều gì về cái ý chí đấy, anh ta dồn nén nó;
• Loại người này đau khổ bởi anh ta liên tục tự lừa dối mình, song sâu thẳm bên trong anh ta lại ý thức được sự tự lừa dối đấy, nó biển thành cảm giác tội lỗi trong anh ta, anh ta thấy tội lỗi trước nhất với chính mình.
• Anh ta phải chịu đựng sự tự lừa dối, thứ mà anh ta không ngừng muốn bóc trần.
(ii) Loại xung đột ý thức:
• Anh ta muốn biết, biết nhiều hơn nữa, đến mức trở thành một kẻ hướng nội cực đoan tự thu rút vào bên trong;
• Loại người này đau khổ vì anh ta không còn có thể tự lừa dối chính mình được nữa, anh ta đâm ra hoài nghi cả bản thân, và biểu hiện ra bên ngoài thành mặc cảm tự ti;
• Anh ta đi đến sự tự hủy diệt trong quá nhiều sự thật phơi bày về bản thân, những sự thật mà anh ta không thể lay chuyển dù hoài nghi bao nhiêu chăng nữa.
Để trị liệu thì:
(i) Với loại đầu tiên, nhà trị liệu phải cấp cho anh ta sự thật, giúp anh ta trở nên tỉnh táo, có ý thức, bởi kẻ này đau khổ vì vô minh;
(ii) Với loại thứ hai, nhà trị liệu phải cho anh ta chút ảo tưởng, nghĩa là, giúp chữa lành trái tim anh ta, cứu vớt anh ta khỏi cái mộng ảo tan vỡ, khỏi nỗi tuyệt vọng tột cùng với bản thân và cuộc sống. Giúp anh ta buông xuống sự tự ý thức đầy dằn vặt kia, nghĩa là, giúp anh ta trải nghiệm những cảm xúc tức thời và chân thực ở hiện tại. Bởi kẻ này phải chịu đựng quá nhiều dằn vặt của việc thấu biết. Có điều, cái biết này không phải là những tri thức tâm lí học, mà đấy là sự biết mang tính trực cảm về bản thân, là sự tự nhận thức về các quá trình tinh thần của chính mình.
Bi kịch là, thật ra những con người đấy không thể chịu đựng dù là sự thật hay ảo tưởng nữa, bởi anh ta không thể chịu đựng bản thân như một cá thể khác biệt với những cá thể khác.
SỰ KHÁC BIỆT GIỚI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ TÍNH DỤC: GƯƠNG MẶT MẠNH MẼ NHẤT CỦA XUNG ĐỘT Ý CHÍ
Một lần nữa, hãy hình dung xem loại tính cách rối loạn thần kinh này, hay cũng có thể gọi là tâm thần phân liệt, xảy ra như thế nào: (i) Đầu tiên, xuất hiện nhận thức về sự khác biệt giữa bản thân với những người xung quanh, đấy như là một hệ quả của việc trở nên có ý thức về ý chí của bản thân; (ii) Sau đó, diễn giải sự khác biệt này là thấp kém và là hệ quả của sự suy giảm, xuống cấp của ý chí về mặt đạo đức phẩm hạnh; (iii) Cuối cùng là liên hệ giữa xung đột tâm lí này với vấn đề giới tính sinh học, coi đấy như một sự khác biệt của giới tính, trong đó xem người đàn ông là đại diện cho ý chí tích cực chủ động, được đánh giá cao hơn, còn xem người phụ nữ là thụ động, tiếp nhận, và ít được coi trọng hơn.
Toàn bộ cuộc xung đột với bên ngoài thực tế chính là cuộc so kè giữa ý chí này với ý chí kia, và hẳn sẽ phải có một ý chí chịu khuất phục một ý chí khác, bằng cách ấy khám phá sự khác biệt giữa các cá nhân. Thực ra, sự khác biệt, hay nói cách khác, sự tồn tại ý chí riêng với tư cách là sự đối lập, sự không-giống-nhau chỉ đơn giản là cơ sở cho sự phê phán đạo đức phẩm hạnh, và ở mỗi cá nhân nó biểu hiện thành mặc cảm tự ti hay cảm giác tội lỗi. Ở đây một lần nữa chúng ta lại đối mặt với vấn đề đạo đức phẩm hạnh, cái cản trở chúng ta thấu hiểu sâu sắc về các quá trình tâm lí. Những lời chỉ trích hay sự trừng phạt từ bên ngoài thật ra không làm cho những đứa trẻ tiếp thu được cái gì là tốt, cái gì là xấu. Nó chỉ làm cho chúng gia tăng ý thức về việc mình có một cái tôi, một ý chí đối nghịch.
Phải thấy là, người ta đang nhầm lẫn: Thay vì xem xét từng biểu hiện cụ thể của ý chí thì người ta lại đánh giá luôn bản thân cái ý chí đấy là “xấu tệ”, “ngang ngược”, “bất trị”. Sự phán xét sai lệch này đã đánh thẳng vào cốt lõi “làm người” nơi mỗi cá nhân, phán định giá trị phẩm hạnh của một con người. Vậy là, từ cái vốn chỉ là sự khen chê vô thường bên ngoài, sự phán xét này nghiễm nhiên trở thành tiêu chí giá trị bên trong, rồi dần dần thật sự trở thành một vấn đề đạo đức xã hội, nghĩa là ai cũng căn cứ vào đấy để xét đoán một con người.
Rốt cùng khi nó đã trở thành một vấn đề xã hội thì về mặt tâm lí mà nói, một cá nhân không thể tự mình giải quyết triệt để được xung đột này, bởi nó phát sinh từ chính bản chất đối kháng tiêu cực của ý chí. Chúng ta chỉ có thể giải quyết nó trên phương diện trị liệu mà thôi. Chúng ta không thể tự hóa giải xung đột ý chí trong và với chính mình. Chúng ta phải giải quyết nó trong mối hệ với người khác, người sẽ biện minh cho ý chí của chúng ta, làm cho nó trở nên tốt đẹp (nói đúng ra là chúng ta thấy nó tốt đẹp) khi người kia tự nguyện quy phục trước nó, và như vậy mới có thể ngưng vấn đề lại.
Ý nghĩa tâm lí của tính dục cũng chính nằm ở điểm này: Trong mối liên hệ giữa hai cá nhân, ắt hẳn phải có một người quy phục trước ý chí của người kia. Bạn có thể nhận ra và hiểu thêm về nó trong đời sống tình yêu hiện đại. Trong chương sau, bạn cũng sẽ được tiếp tục khám phá sâu hơn về bản thân trong mối quan hệ cảm xúc này, khi nó được thể hiện trong trải nghiệm trị liệu. Ở đây chỉ lưu ý rằng:
• Sở dĩ thông qua một người khác, chúng ta cảm thấy đã hiện thực hóa ý chí của mình một cách tốt đẹp suôn sẻ, theo đó trở nên tự do và thoải mái, bởi vì nó ngay lập tức giúp chúng ta giải quyết cái mâu thuẫn đạo đức xã hội vốn không thể giải quyết, cũng không thể trốn tránh kia. Ít nhất trong mối quan hệ tính dục, sự khác biệt của chúng ta tạm thời chuyển hóa thành sự tương đồng và một sự phấn đấu chung vì mục đích chung, nghĩa là loại bỏ chủ nghĩa cá nhân cực đoan;
• Kể cả khi tính dục gây ra cảm giác đau đớn về sự khác biệt, bản thân nó vẫn là “vô tội”. Hơn nữa, trong các biểu hiện về tinh thần và thể xác của nó, tính dục cũng chứng tỏ nó là phương pháp tự nhiên duy nhất để chữa lành, hoặc ít nhất là làm dịu cuộc xung đột luân thường đạo lí khởi lên từ lúc đầu. Như bạn đã biết, đấy là cuộc xung đột mà chúng ta không bao giờ có thể tự giải quyết một mình, vì nó đã chuyển từ xung đột nội tâm thành xung đột giữa cá nhân và xã hội;
• Tính dục là nhân tố giúp loại bỏ một cách mạnh mẽ nhất sự phủ nhận ý chí, bởi cuối cùng nó chuyển biến mặt tiêu cực, phản kháng của ý chí thành cái biểu hiện tích cực nhất của ý chí. Và bản thân con người có thể chấp nhận nó, vì nó không những không bị ý chí tha nhân phản đối, mà nó còn được cho là tốt đẹp, được thừa nhận, và vì vậy dẫn đến sự tự nhận thức, tự khẳng định chính nó.
Do đó, tính dục cho thấy nó là một trường hợp đặc biệt của Ý chí. Nó nảy sinh một cách độc lập từ sự cá nhân hóa và thường tìm thấy khả năng giải quyết triển vọng nhất trong đời sống tình dục. Những xung đột tính dục đến mức rối loạn thần kinh trong đời sống hôn nhân và luyến ái, xét cho cùng, chỉ có thể hiểu là một biểu hiện của xung đột ý chí nguyên thủy, chứ không phải theo chiều ngược lại như Freud nghĩ – là từ xung đột ý chí làm nảy sinh xung đột tính dục và giới tính. Đúng là trông thì có vẻ như xung đột ý chí nảy sinh trong địa hạt tính dục, nhưng trên thực tế, đã có một xung đột đạo đức xã hội ẩn núp sâu đằng sau tính dục, sau cái gương mặt mạnh mẽ nhất của ý chí.
Tuy nhiên, đến cùng thì đời sống tính dục cũng thất bại trong vai trò giải phóng ý chí của nó. Theo cách gọi của tính dục, thì xung đột ý chí này có thể là mọi thứ mà chúng ta gọi là “cuộc đấu tranh giới tính”: từ chuyện quyến rũ, tán tỉnh, cho đến sự thống trị kiểu bạo dâm, hay những hành động bẻ gãy ý chí đối phương, với sự ghen tuông là biểu hiện tiêu cực đỉnh điểm. Phức cảm nam tính ở người nữ và nỗi lo bị thiến hoạn của người nam, như chúng ta đã thấy nhiều trong các chứng loạn thần kinh, cũng thuộc về xung đột ý chí này.
Bình thường, người đàn ông sẽ ứng với ý chí tính dục chủ động, họ cũng thật sự tích cực hơn và sáng tạo hơn trong những phương diện khác của đời sống. Còn người phụ nữ, cả trong tính dục cũng như những phương diện đời sống khác, thể hiện những mặt tiêu cực hơn, phản ứng mang tính cá nhân theo ý muốn riêng mình hơn. Ở người loạn thần kinh, chúng ta có thể thấy những biểu hiện ngược lại: Đàn ông thể hiện những hành vi tiêu cực, thụ động và phủ nhận (mang chất nữ tính); còn phụ nữ lại có những hành vi chủ động, hung hăng, năng nổ (mang chất nam tính) – trong cả ý chí, và theo đó trong đời sống tính dục. Do đó, trị liệu cho những đối tượng này chính là: làm cho người nữ có thể “trao đi” và người nam có thể “đón nhận”.
Dưới ánh sáng của Tâm lí học Ý chí: Phức cảm nam tính ở phụ nữ thật ra không phải là sự phủ nhận vai trò người nữ giống như phân tâm học đã nói. Đấy thực tế là sự từ chối vai trò của người nam, nói đúng hơn là, từ chối sự áp đặt của một ý chí ngoại lai mạnh mẽ hơn, biểu hiện rõ nhất trong quan hệ giới tính với tư cách ý chí tính dục. Đến đây, chúng ta một lần nữa thấy được một trong vô số nghịch lí trong lí thuyết của Freud. Vốn thường lí thuyết này giải thích hầu hết mọi thứ theo chiều hướng từ bên ngoài và từ quá khứ, song trong trường hợp giới tính này thì nó lại làm chuyện “ngược”:
(i) Trường hợp phức cảm nam tính ở người nữ: Ở đây, Freud đưa ra một lời giải thích hoàn toàn từ bên trong và bảo rằng đấy là sự chối bỏ vai trò tính dục của người nữ. Song thật ra thì, đích thực có một yếu tố ngoại lai từ bên ngoài tác động đến, đấy chính là cái ý chí tính dục xa lạ của người đàn ông làm cho người phụ nữ phản ứng;
(ii) Trường hợp phức cảm thiến hoạn ở người nam: Freud giải thích theo lối từ bên ngoài, ông cho rằng đấy là nỗi sợ hãi quyền lực người cha. Trong khi đúng ra, đây lại là nhu cầu nội tại của người nam: Nhu cầu phủ nhận cái “trung tâm của ý chí chủ động”43, tức phủ nhận quyền lực của người cha, theo đó phủ nhận hoặc tự tiêu trừ cái quyền lực chuyển giao đấy nơi chính mình, giống như trường hợp tự thiến tâm thần44.
43 Theo chữ dùng của Schopenhauer (Chú thích của tác giả).
44 Xem thêm những nhận xét của tôi về Trị liệu tiêu trừ (Eradication Therapy) trong Phần II của Genetische Psychologie (Chú thích của tác giả).
Theo nghĩa này: Ước muốn nam tính của người nữ và mong muốn thiến hoạn của người nam là một biểu hiện của xu hướng thích đồng tính. Đồng tính luyến ái, vì thế, chẳng qua chỉ là một chứng loạn thần kinh, là biểu hiện của sự tự-ý-thức bản thân trong địa hạt tính dục, hay nói cách khác là, ý thức sự khác biệt về mặt sinh học đến mức cực đoan của mỗi cá nhân.
Thêm một điểm nữa cho thấy bản chất chữa lành của mối quan hệ luyến ái: Một phần, nó dựa trên sự đồng nhất hóa sâu rộng, không chỉ về mặt thể xác, mà còn xóa bỏ sự khác biệt về mặt cảm xúc. Một phần khác, nó giúp thừa nhận và khẳng định sự khác biệt của ý chí cá nhân, điều này làm cho người ta hạnh phúc, bởi ý chí người ta được thỏa mãn trước sự phục tòng tự nguyện của một ý chí khác. Người nữ có khuynh hướng phục tòng mạnh hơn. Người nam ít có khuynh hướng phục tùng hơn, bởi ý chí của anh ta quyết liệt hơn. Tuy nhiên ngay cả ở người nam cũng có sự phục tùng. Thế nên trong tính dục, người ta tìm thấy niềm hạnh phúc và sự giải thoát, bởi tính dục là biểu tượng phổ quát nhất cho việc hiện thực hóa ý chí cũng như sự phục tòng của ý chí:
(i) Bộc lộ ý chí chính là quyết liệt vượt qua sự khác biệt của ý chí cá nhân để tận hưởng một niềm hạnh phúc ngắn ngủi, và rồi sau đó có một tri nhận mới mẻ về sự khác biệt đấy, về cái ý chí ngoại lai kia;
(ii) Tự nguyện quy phục trước một ý chí khác lại nhấn mạnh sự tương đồng, đặc biệt trong cảm xúc. Cái cảm xúc đấy làm cho người ta gắn kết và đồng nhất với nhau.
Thực thi ý chí bằng con đường của sự khác biệt thì mang tính thể xác hơn, ngắn ngủi hơn. Còn tự nguyện quy phục bằng con đường của cảm xúc thì mang tính tinh thần hơn, bền vững hơn. Nó dẫn đến giải phóng người ta khỏi sự khác biệt, đưa người ta đến cảm giác hợp nhất với chính mình, với tha nhân, và với vũ trụ.
Người loạn thần kinh ở cả hai giới là những người đều không có khả năng khuất phục trước người kia, hoặc không có khả năng hợp nhất với chính mình. Bởi trong anh ta, xung đột nội tâm giữa ý chí với cái mặt tính cách tiêu cực của chính nó quá mãnh liệt, đến mức cả sự thúc đẩy từ bên ngoài, lẫn sự giải tỏa từ bên trong đều không thể bảo vệ anh ta khỏi sự tự hủy hoại chính mình. Anh ta không có khả năng quy phục và hợp nhất, bởi anh ta không thể thoát khỏi sự tự-ý-thức về bản thân đến cực đoan. Xung đột ý chí và sự dằn vặt của ý thức trong anh ta chỉ là hai mặt của một và cùng một vấn đề, hoặc có thể nói cách khác, là giữa mặt bên trong và mặt bên ngoài. Xung đột giữa bên trong và bên ngoài nơi một con người, từ xưa đến nay, luôn là cội nguồn của khổ đau.
Để trị liệu cho những ca này thực sự rất khó, vì nó phải đáp ứng cả hai khía cạnh cùng một lúc, dù về bản chất, chúng tương phản nhau. Nếu liệu pháp kiến tạo lên đến đỉnh điểm, và kết quả là cá nhân bây giờ có thể chấp nhận bản thân như một cá thể khác biệt, một nhân cách với ý chí độc đáo, thậm chí có thể khẳng định ý chí, thay vì phủ nhận nó, thì sẽ xuất sinh hai hệ quả đối lập nhau: Một mặt, chấp nhận sự khác biệt về mặt xã hội, có nghĩa là cá nhân dám cảm thấy mình khác biệt với những cá nhân khác trong xã hội. Mặt khác, chấp nhận sự khác biệt về mặt giới tính, có nghĩa là cá nhân chấp nhận vai trò giới tính của mình, rằng về mặt sinh học, mình cũng giống như những cá nhân cùng giới khác.
Ở đây, chúng ta vấp phải một trong những phản kháng mạnh mẽ nhất trong việc chấp nhận vai trò giới tính của chính mình. Đấy không chỉ là phản kháng của ý chí cá nhân, mà còn là sự xung đột giữa bản thể trong tư cách một cá nhân(individual being) với bản thể trong tư cách giống loài (generic being). Phản kháng này gây ra một trong những khó khăn lớn nhất trong trị liệu: Cá nhân không thể chấp nhận vai trò tính dục của mình, vì như vậy một lần nữa nó sẽ cướp đi cá tính của anh ta, sẽ biến anh ta trở thành một cá thể mang tính loài nói chung. Duy nhất trong trải nghiệm tình yêu, chúng ta mới có thể chấp nhận ý chí tính dục như thể là ý chí cá nhân, chấp nhận đặc tính giống loài như thể nó là đặc tính cá nhân của chính mình. Ở đây, khẳng định tình yêu chính là chiến thắng vĩ đại nhất của ý chí có-ý-thức nơi cá nhân đối với ý chí giống loài nói chung, bởi cái ý chí giống loài đấy sẽ bị phủ nhận nếu nó không phục tòng ý chí cá nhân.
Trong liệu pháp phân tâm, Freud mô tả chiến thắng trong cuộc đấu tranh ý chí đấy là hiện tượng chuyển dịch. Mặc dù một cá nhân cần đến người kia để giải quyết xung đột đạo đức xã hội nơi mình, vì lợi ích của ý chí chính mình, song anh ta không muốn chấp nhận lời biện minh này theo kiểu một lời giải thích chung chung, dù là về đạo đức hay tâm lí. Lợi ích đấy phải là cho cá nhân, thuộc về cá nhân. Bất kể cả là nhà phân tâm hay là bệnh nhân, cũng phải bào chữa cho ý chí với tư cách một cá nhân, chứ không phải dưới danh nghĩa tâm lí học chung chung, nhờ đó mới có thể hiểu được ý chí, và từ đó mà chấp nhận nó. Nói cách khác, một mối quan hệ trị liệu hữu hiệu chính là một mối quan hệ hết sức cá nhân, trên cơ sở ngầm khẳng định sự khác biệt của ý chí cá nhân.