Một người đàn ông có hai gương mặt tâm hồn: một dùng để đối diện với thế giới; một để thủ thỉ với người phụ nữ mà anh ta yêu
- Browning -
Trong chương 5, chúng ta vừa phân tích, trong cái gọi là tình huống chuyển dịch, chúng ta đã thấy cái xung đột giữa Ý chí và Ý thức, giữa đòi hỏi tình yêu và mặc cảm đạo đức đi liền với nó. Nói tóm lại, tất cả các vấn đề đều tụ về một điểm trọng tâm. Vượt ra khỏi phức cảm Oedipus của phân tâm học, tôi đã tiếp cận trọng tâm đấy và đưa nó vào các nghiên cứu di truyền lẫn kĩ thuật trị liệu của mình những năm gần đây. Nói theo Tâm lí học Ý chí: Sự chuyển dịch và trạng thái đang-yêu – vốn gốc rễ là hiện tượng phóng chiếu – là một nỗ lực của cá nhân hòng nhân bản ý chí của mình trong người kia, và do đó, biện minh cho cái ý chí đấy, thay vì chối bỏ nó.Theo nghĩa này, cảm xúc luyến ái, về mặt lịch sử mà nói, được coi như là sự tiếp nối của cảm xúc tôn giáo. Ở những người tu đạo thì hai cảm xúc này thường hòa quyện vào nhau. Còn ở người bình thường, trạng thái đang-yêu chính là sự tiếp tục biện minh cho một ý chí phi thực, vốn trước đó được gửi gắm vào Chúa Trời, bây giờ chuyển thành sự tôn sùng trần tục gửi gắm vào một con người bằng xương bằng thịt. Con người đấy vừa mang ý chí tương đồng với mình nhất, lại vừa luôn khác biệt với mình. Trong sự phụ thuộc và phục tòng một cách tự nguyện này, cá nhân tạo ra một vị chúa của riêng mình khi anh ta hiến dâng mình cho một người yêu được sùng bái như thể một chúa tể. Và ở đây, ý chí của anh ta được giải phóng, thay vì bị phủ nhận bởi sự cưỡng bách (áp lực) của ý chí đối nghịch. Tôi gọi đấy là Tình yêu: nơi cá nhân thuận lòng phục tòng và tự biện minh cho ý chí của mình thông qua ý chí của tha nhân.
CUỘC XUNG ĐỘT VĨNH VIỄN NƠI CON NGƯỜI: BÊN NGOÀI VÀ BÊN TRONG, CHÍNH MÌNH VÀ THA NHÂN
Từ góc độ xung đột ý chí và những nỗ lực khác nhau hòng giải quyết xung đột này nơi mỗi con người, chúng ta có thể hiểu về tất cả các hiện tượng chuyển dịch tích cực lẫn tiêu cực mà phân tâm học đã mô tả và dùng để giải thích. Phải thấy rằng, người loạn thần kinh mang một ý chí tan vỡ yếu nhược, anh ta trước hết cố gắng dựng nên nơi nhà trị liệu hình ảnh một vị chúa mạnh mẽ cho chính mình. Nhà trị liệu, hay nói cách khác, vị chúa ấy (được quyền) cho phép và ngăn cấm, thừa nhận hay cản trở – tóm lại là, phải đón lấy cái trách nhiệm lương tri phán định cho xung đột ý chí đạo đức - xã hội của anh ta.
Trong tình huống trị liệu phân tâm cổ điển, nhà phân tâm không nhượng bộ trước nỗ lực này của bệnh nhân. Nói cách khác, ông ta không chịu đảm nhận vai trò vị chúa mạnh mẽ này. Nên vô hình chung, ông ta sẽ phải vào vai một vị thần tình yêu, người dường như sẽ phải thấu hiểu, ủng hộ và tha thứ cho mọi điều nơi bệnh nhân của ông ta.
Có điều ngay cả ở đây, phân tâm học cũng không hoàn toàn hiểu và sử dụng hiệu quả khía cạnh trị liệu này để giải quyết xung đột ý chí nơi bệnh nhân. Nó không nhận thấy lợi thế trị liệu trong chính bản thân tình huống trị liệu. Trong lí thuyết về vô thức và phức cảm Oedipus, nó cũng đánh mất ưu thế của mình trong việc cung cấp cho bệnh nhân một tư tưởng với nội dung mới hòng biện hộ cho cái ý chí của người ta. Ngay cả khi biện hộ được, thì hệ tư tưởng phân tâm cũng chỉ phù hợp với mẫu hình con người sáng tạo, họ mới là những người phải tự trút bỏ mặc cảm sáng tạo của chính mình. Còn với người rối loạn thần kinh, càng bào chữa lại càng không thể nào trút bỏ được gánh nặng của cảm giác tội lỗi. Đi theo hướng diễn giải quá khứ, thì phân tâm học hiểu phản kháng về cơ bản như là sự bất tuân và chống đối lại quyền lực người cha, song điều đấy không phải lúc nào cũng đúng.
Thế nên, sự mê đắm bám chấp vào tình yêu thương, vốn được Freud dùng quá khứ ấu thơ và phức cảm Oedipus để diễn giải, thì nay phải được xem xét từ khía cạnh tính dục. Theo đó, cả cái gọi là “đang yêu” và cái gọi là “phản kháng” hóa ra đều chỉ là những gương mặt của bản ngã (ego), tức là những biểu hiện của cuộc xung đột ý chí ở hiện tại mà thôi: (i) Một đằng, tình yêu là nỗ lực biện minh cho ý chí của chính mình thông qua một người khác; (ii) Một đằng, phản kháng là một biểu hiện của ý chí đối nghịch, một nỗ lực hòng phủ nhận cái ý chí tích cực của bản thân.
Trong cuộc trị liệu, bản thân bệnh nhân sẽ cố gắng trút bỏ xung đột ý chí trong mình bằng cách biểu hiện ra một gương mặt nào đấy của ý chí. Nhưng có giải phóng được ý chí đấy hay không lại còn tùy thuộc nhiều yếu tố. Nhà phân tâm thì cố gắng diễn giải phản ứng của bệnh nhân bằng những cái trong quá khứ của anh ta. Cái đấy thật ra nó chỉ thay thế cho xung đột ý chí ở hiện tại thôi, nó chẳng khác nào lối biện minh của tôn giáo, nó không lôi ra được bản chất thực sự của tình huống.
Chúng ta phải nhận ra cái xung đột ý chí nằm ở gốc rễ đằng sau tất cả các tình huống đó. Và chúng ta chỉ có thể nhận ra và hiểu được bằng cách sống với những trải nghiệm ở hiện tại mà thôi, chứ không phải quay ngược về với quá khứ. Sở dĩ bệnh nhân tìm cách biến xung đột ý chí thành một vấn đề nào đó khác, chủ yếu là vì anh ta muốn biết nhà trị liệu thật ra muốn cấm đoán anh ta điều gì, ông ấy thực sự mang đến giá trị gì, hay ông ấy đại diện cho điều gì đó khác không. Tất nhiên, không có nghĩa ông ấy đại diện cho thẩm quyền cha mẹ, hay một đối tượng tình yêu nào đó trong quá khứ. Ông ấy chính là một hiện thực trong tình huống trị liệu ở hiện tại, một nhân tố tham gia vào trải nghiệm trị liệu. Lúc này, nhà trị liệu trở thành: (i) Một đối tượng của sự ngưỡng mộ, yêu mến hoặc tôn sùng. Ông tượng trưng cho cái bản ngã đã được nhân cách hóa của bệnh nhân, giống như một vị Chúa Trời, có điều đây là một vị chúa bằng xương bằng thịt, thay vì một vị chúa tưởng tượng. Và (ii) với tư cách là đối tượng của nhu cầu yêu thương, nhà trị liệu đại diện cho đạo đức xã hội, với vai trò chấp thuận và biện hộ cho ý chí của bệnh nhân, tương đương với vai trò của đối tác trong một mối quan hệ yêu đương thực sự.
Cái cốt lõi của tình huống trị liệu chính nằm ở sự chuyển vị của những giá trị tinh thần này:
(i) Trong mối quan hệ cảm xúc thì quan hệ giữa nhà trị liệu với bệnh nhân tương ứng với mối quan hệ tình yêu thực sự, tuy nhiên nó thiếu đi cái khía cạnh quan hệ thể xác nên nó gây ra cảm giác không thực;
(ii) Còn trong quan hệ nhân cách hóa ý chí từ bệnh nhân sang nhà trị liệu, thì hình ảnh một vị Chúa Trời vốn rõ ràng là cái phi-thực, nay lại được hiện thực hóa và hiển hiện rất thực trong một con người bằng xương bằng thịt (nhà trị liệu). Và bệnh nhân gửi gắm cái lí tưởng thiêng liêng của mình vào con người có thực này, thay vì gửi vào một hình ảnh cha mẹ nào đó trong quá khứ.
Đây chính là hai mặt của xung đột ý chí khi nó thể hiện ra trong tình huống trị liệu thực tế. Hai mặt này mạnh mẽ như nhau, đồng thời lại trái ngược nhau. Trong tình huống trị liệu, cuộc xung đột vĩnh viễn trong con người sẽ phơi bày ra trước mắt chúng ta. Đấy là cuộc xung đột giữa: (i) Việc nhân cách hóa ý chí của mình trong một đối tượng siêu nhiên (như Chúa Trời) và (ii) việc nhân cách hóa lí tưởng đạo đức xã hội hòng biện minh cho ý chí của mình thông qua một con người khác (đối tượng của tình yêu); giữa (i) cảm xúc tôn giáo và (ii) cảm xúc luyến ái. Và trong cả hai địa hạt ý chí lẫn lí tưởng đạo đức, xung đột này đều xuất hiện như một cuộc đấu tranh giữa: (i) một bên là mong muốn phi hiện thực với (ii) một bên là khuynh hướng hiện thực hóa, vật chất hóa.
Dưới góc nhìn của Liệu pháp kiến tạo ý chí, cả hai điều đó chẳng qua chỉ biểu thị cho ý thức về bản thân, cho cái ý chí mong muốn được tự tại, độc lập nơi cá nhân mà thôi:
• Nếu muốn thỏa mãn đến cùng cái ý chí cá nhân thì việc nhân cách hóa ý chí cá nhân trong hình ảnh Chúa Trời phải là phi thực, tuyệt đối phi thực. Sự phi thực, sự không thực tồn tại của Chúa Trời mang đến cho cá nhân cái giá trị tinh thần lớn lao mà anh ta hằng mong muốn khi cố gắng phóng chiếu ý chí của mình vào đấy. Tất cả sự vĩ đại và quyền năng mà anh ta ao ước, bằng cách phóng chiếu lên vị Chúa phi thực kia, gián tiếp trở thành của anh ta;
• Trong khi đó, đối tượng tạo tác của tình yêu phải được hiện thực hóa hòng đạt được mục tiêu của nó, đấy là hoàn thành ý chí tích cực thông qua việc chấp nhận người kia, chấp nhận một ý chí khác.
Tình huống trị liệu phân tâm lại đảo ngược cả hai hiện tượng trên về mặt tinh thần: (i) Biến Chúa Trời từ phi thực thành có-thực và (ii) làm cho đối tượng tình yêu trở thành không-thật; từ đó khiến toàn bộ xung đột ý chí trong bệnh nhân giải phóng và biểu hiện ra như là sự phản kháng và đòi hỏi tình yêu. Cả hai biểu hiện ý chí và ý chí đối nghịch này xuất hiện chỉ bởi vì sự đảo ngược trên: Biến sự phóng chiếu vị Chúa siêu nhiên từ không thực thành một tình huống trợ giúp có thực, gây ra một sự phản kháng từ bên ngoài, theo đúng nghĩa đen của từ này. Phản kháng này sẽ không diễn ra nếu không có sự đảo ngược đó. Tương tự, bởi nó biến cảm xúc luyến ái từ một điều rất thực thành một thứ phi thực nên đã làm xuất sinh cái ý chí đối nghịch kia nơi bệnh nhân.
Lẽ thường là, Chúa Trời với tư cách là Đấng tạo tác của chính chúng ta và đại diện cho ý chí của chúng ta, sẽ không phản kháng lại chúng ta, trừ khi bản thân chúng ta muốn thế. Và cũng rất ít khả năng người yêu của chúng ta chống lại chúng ta, bởi người ấy nguyện ý phục tòng ý chí của chúng ta kia mà. Nhà phân tâm đã thất bại trong trị liệu, bởi trong cả hai vai trò, ông ta đều nhận về sự kháng cự: (i) Với tư cách là vị Chúa Toàn Năng, ông ta quá đỗi chân thực. Do đó bệnh nhân có xu hướng coi ông ta như một người cha xác thịt, hơn là hình ảnh phóng chiếu ý chí bản ngã sáng tạo của mình, và anh ta dùng ý chí phản kháng để chống đối lại “thẩm quyền người cha” đó; (ii) Với tư cách là đối tượng của tình yêu, ông ta lại quá là phi thực. Thế nên bệnh nhân có xu hướng yêu nhà trị liệu theo kiểu ái kỉ, như thể yêu chính mình, như yêu một người mẹ, như đấy là một phần bản ngã của mình – nó gây ra một chứng tâm thần khác nơi anh ta.
Phương pháp phân tâm của Freud muốn giải thích trạng thái tâm lí với những biểu hiện phản kháng và đòi hỏi tình yêu này theo hướng nhân quả, bằng cách truy tìm cội nguồn của ý chí từ những tình huống tương đồng trong quá khứ. Chính bệnh nhân cũng cố gắng làm điều đấy: Trong tình huống phân tâm hiện tại, anh ta được nhà phân tâm cấp cho những hình ảnh mang tính biểu tượng để phóng chiếu cuộc xung đột bên trong mình. Anh ta cố gắng lặp lại những nỗ lực không may trước đó trong việc giải quyết xung đột ý chí bằng những gì mới được cung cấp. Tuy nhiên, những gì bệnh nhân được cấp cho lại chính là con người của nhà trị liệu. Ông ta ở vào cái thế phải tự mình loại bỏ chính những nội dung gây ra phản kháng và đòi hỏi mà ông ta đã cung cấp cho bệnh nhân, từ đó chạm đến xung đột ý chí thực sự trong anh ta. Ông ta phải có khả năng đem cái xung đột đã được đẩy ra bên ngoài này trở lại bản ngã của bệnh nhân, chứ không phải đưa cho anh ta vài dữ liệu quá khứ, để rồi giúp anh ta biến nó thành một sự thực, dùng nó phủ nhận hiện tại, thay vì thấu hiểu nó.
Khó khăn của nhiệm vụ này nằm ở chỗ: Một là, bản thân nhà trị liệu đã trở thành một nhân tố tham gia vào nội dung ý chí hiện thời của bệnh nhân. Hai là, trong tình huống trị liệu, ông ấy phải vượt qua thảy mọi lí thuyết và diễn giải, để đối mặt với chính trải nghiệm tức thời ở hiện tại. Không thể “cắt nghĩa” nội dung của trải nghiệm trị liệu này bằng những gì đã qua trong quá khứ, lẫn sự việc diễn ra ở hiện tại. Chỉ có thể hiểu về nó từ góc độ tâm lí học trên phương diện xung đột ý chí. Do đó, hơn bất kì trải nghiệm nào khác, tình huống trị liệu đòi hỏi nhà trị liệu phải chiến thắng cái tôi của mình, và đưa bệnh nhân quay trở lại với xung đột ý chí bên trong anh ta, ít nhất là đủ để anh ta có thể: (i) phân minh giữa xung đột nội tâm mình với những yếu tố tác động bên ngoài; (ii) tách bạch bản thân khỏi nhà trị liệu, và do đó, (iii) minh định hiện tại với những gì đã qua trong quá khứ.
TÌNH YÊU VÀ ÁP LỰC
Ở đây, hãy cùng nói đến một lẽ sống cơ bản, ít nhất là với con người thời đại chúng ta, như đã mô tả trước đó, đấy là đòi hỏi tình yêu cá nhân. Đòi hỏi này thậm chí vượt ra ngoài nhu cầu phóng chiếu ý chí tính dục và mong muốn ái tình, nó còn hàm chứa cả sự biện hộ cho ý chí cá nhân về mặt phẩm hạnh. Nhu cầu tình yêu ẩn nơi đáy sâu tâm hồn con người hiện đại chúng ta là sự tiếp nối của nhu cầu tinh thần trước đó về một vị Chúa siêu nhiên phi thực. Đối với Liệu pháp kiến tạo ý chí của chúng ta, nó tạo ra trở ngại rất lớn, bởi liệu pháp này phải giúp cá nhân hiểu được những mối quan hệ tinh thần và cảm xúc đấy trong chính trải nghiệm trị liệu. Nếu nhà trị liệu thành công trong bước này, thì khuynh hướng dằn vặt mình theo kiểu rối loạn thần kinh, biểu hiện ở cảm giác tội lỗi và mặc cảm tự ti nơi con người, sẽ chuyển thành sự tự chấp nhận bản thân, từ đó cá nhân cũng trở nên độc lập với những lực lượng và sức mạnh chi phối từ bên ngoài, trong đó có cả cái thực lẫn phi thực.
Ở đây chúng ta thấy rằng, cái khao khát mãnh liệt hòng giải phóng bản thân khỏi trách nhiệm của chính mình thông qua một người khác, rốt cùng bắt nguồn từ xung đột giữa đạo đức xã hội và phẩm hạnh cá nhân, giữa phản ứng của đạo đức xã hội đối với ý chí nói chung, cũng như phản ứng của phẩm hạnh cá nhân đối với những gương mặt nhất thời hoặc điển hình của ý chí nói riêng. Rõ ràng là chúng ta phải có những biểu hiện ý chí, và đi liền với chúng là các giá trị phẩm hạnh. Tương tự, chúng ta có các giá trị luân lí đạo đức đi liền với ý chí hoặc ý chí đối nghịch. Xung đột tất yếu sẽ nảy sinh khi mặc dù biểu hiện của ý chí có thể là tốt đẹp, nhưng bản thân ý chí luôn bị coi là xấu tệ, trái với luân thường đạo lí hay quy ước xã hội. Càng như vậy thì ý chí cá nhân càng cố gắng không ngừng biện minh cho mình bằng vô số những biểu hiện tốt đẹp (tỏ ra tốt đẹp) của mình, để rồi chỉ chuốc lấy tuyệt vọng. Trong mối quan hệ tình yêu, người kia có thể tạm thời đóng vai trò trợ giúp, một phần vì họ chấp nhận bản thân cái ý chí của chúng ta và giúp cho nó trở nên tốt đẹp hơn, hoặc tự cảm thấy mình tốt đẹp hơn. Ngược lại, giáo dục có thể làm cho ý chí thể hiện ra những mặt tốt đẹp của mình, nhưng cuối cùng nó cũng không giúp ích gì nếu bản thân cá nhân không tự chấp nhận ý chí của chính mình.
Ở đây, hẳn bạn đã nhận ra hai nguyên lí lớn đối lập nhau trong mọi mối quan hệ tình cảm, mọi mối dây cảm xúc, trong cả các tình huống giáo dục lẫn trị liệu, đấy là: Tình yêu và Áp lực.
(i) Trong tình yêu và thông qua tình yêu, dù là với một vị chúa siêu nhiên hay con người trần tục, mỗi người đều có thể chấp nhận bản thân, chấp nhận ý chí của mình, bởi “người kia” đã chấp nhận mình, chấp nhận ý chí của mình rồi;
(ii) Trong khi các hình thức giáo dục đều tìm cách làm thay đổi cá nhân theo một chuẩn mực định sẵn, tức là khuôn cái ý chí của anh ta vào một biểu hiện nhất định thông qua sự cưỡng ép, qua các áp lực.
Theo đó, giáo dục thì dựa trên tiêu chí phẩm hạnh, còn tình yêu dựa trên tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Và tình khi nó có tác dụng biện hộ cho ý chí của con người ta, chứ không phải tạo một áp lực lên ý chí, một sự cưỡng ép ý chí người ta. Thế nên tình yêu, như chúng ta biết, là không thể cưỡng ép, vì cưỡng ép tức là hoàn toàn đi ngược lại bản chất của nó. Còn giáo dục không thể chỉ dựa vào tình yêu, nếu không nó sẽ không đạt được mục tiêu của mình, bất kể đấy có phải là mục tiêu mà chúng ta mong muốn hay không.
Liệu pháp kiến tạo ý chí của chúng ta nên tránh cả hai điều này: tình yêu và áp lực. Liệu pháp đấy phải giúp người ta củng cố khả năng tự xác quyết về mặt đạo đức. Thật tiếc là trị liệu phân tâm đã lẫn lộn hai điều này với nhau đến mức vô vọng: Nó dùng sự cưỡng chế mang tính giáo dục hòng khiến cho bệnh nhân trực tiếp thay đổi ngay lập tức hệ tiêu chí đạo đức đang thống soát tâm trí mình. Có điều sự thay đổi đó chỉ diễn ra trên cơ sở nguyên tắc thứ hai là tình yêu mà thôi.
Liệu pháp kiến tạo không cưỡng cầu cá nhân thay đổi bằng cách nhồi nhét vào anh ta một hệ tư tưởng mới. Nó nhằm giúp anh ta phát triển bản thân, giúp anh ta có thể chấp nhận bản thân như vốn có. Cùng lúc đòi hỏi tình yêu phải được chuyển hóa thành sự hình thành lí tưởng đạo đức của riêng anh ta, đấy là tiền đề để anh ta tự chấp nhận chính mình. Sau đó, đây là cái điều Mới lạ, điều mà bệnh nhân chưa từng trải qua trước đây, cả trong các mối quan hệ mang tính giáo dưỡng với cha mẹ, cũng như trong các mối quan hệ tình yêu mang tính biện hộ về đạo đức, đấy là: Anh ta không cần phải thay đổi bản thân theo bất kì loại lí tưởng phổ quát hoặc ngoại lai nào để khiến cho người khác có thể chấp nhận anh ta. Chỉ anh ta và một mình anh ta phải làm, và có thể làm, cả hai điều đó, tức là: (i) Vừa phát triển theo lí tưởng của chính mình; (ii) Đồng thời trên cơ sở lí tưởng này, chấp nhận bản thân về mặt đạo đức xã hội.
Ở đây hãy lưu ý rằng: Dưới góc độ tâm lí, biểu tượng người mẹ và biểu tượng người cha, về cơ bản, cũng chỉ đại diện cho hai nguyên tắc lớn: tình yêu và áp lực. Trong thực tế, nó ứng với những nỗ lực khác nhau của con người trong việc giải quyết xung đột ý chí nơi bản thân mình:
(i) Nguyên tắc tình yêu, tương ứng với biểu tượng người mẹ, giống như một phương tiện để biện hộ, và qua đó, để chấp nhận ý chí của chính mình thông qua một người khác. Đấy là người đã tự nguyện tuân phục theo ý chí của ta;
(ii) Nguyên tắc áp lực, tương ứng với biểu tượng người cha, như một cách để khẳng định và xác lập ý chí của chính mình bằng việc chống lại ý chí quyền lực của người kia. Đấy là kẻ đại diện cho ý chí đối nghịch trong chính ta.
Có điều, dù theo nguyên tắc nào, con người cũng không thể tránh khỏi phải đối diện với vấn đề tội lỗi:
(i) Liệu pháp tình yêu làm xuất sinh trong người ta cảm giác tội lỗi của một đấng tạo tác, của nhu cầu cần đến một người khác để biện minh cho ý chí sáng tạo đấy nơi mình – chúng ta đã thấy rõ điều đấy trong mối quan hệ tình yêu;
(ii) Nguyên tắc áp lực luôn đi cùng với ý thức về tội lỗi, nó nảy sinh do mong muốn khẳng định cái ý chí vốn bị ngăn trở, bị coi là xấu tệ, muốn tuyên bố nó trong khi lại được bảo rằng không nên mang cái ý chí (đối nghịch) nguy hại đấy.
Ý thức về tội lỗi có xu hướng hà khắc, hủy diệt. Còn cảm giác tội lỗi nảy sinh từ sáng tạo lại có xu hướng tiến bộ, mang tính kiến tạo, bởi nó thúc đẩy ý chí đạt tới những thành tựu mới hơn và cao hơn45.
Do đó, chính trong và từ tình huống trị liệu, vấn đề tội lỗi ở cả hai dạng thức (ý thức lẫn cảm giác) đều khởi lên: (i) một phần do sự khẳng định ý chí bằng cách phóng chiếu cái tôi lên nhà trị liệu; và (ii) một phần do nhu cầu tình yêu bị ngăn trở trong mối quan hệ với con người cá nhân của nhà trị liệu. Tại đây tình huống trị bộc lộ ra như là một vấn đề đạo đức xã hội, và tình huống này thực sự đặc trưng cho toàn bộ chứng loạn thần kinh. Một lần nữa ở đây, xung đột giữa tình yêu và áp lực thể hiện dưới dạng những chuyển vị tinh thần trong tình huống trị liệu, và thực tế chỉ có thể hiểu được từ góc độ xung đột giữa ý chí và việc phủ nhận ý chí đấy.
45 Xem chương “Sáng tạo và tội lỗi” trong Cái thật và thực tại, Sđd.
Nhu cầu tình yêu
Nhu cầu tình yêu, cùng với những đòi hỏi thật sự mạnh mẽ và dữ dội nhất của nó, là một biểu hiện của ý chí tích cực, xuất hiện ở đây với tư cách ý chí tính dục. Nhu cầu này còn biểu hiện đồng thời với mong muốn được trao đi và phục tòng, như một biểu hiện của lòng biết ơn, của cảm giác tội lỗi (chứ không phải là ý thức về tội lỗi). Cảm giác tội lỗi này thể hiện ra ở hai điểm: Một là, khả năng yêu thương theo hướng kiến tạo tích cực. Hai là, dưới dạng ý thức loạn thần kinh về cảm giác tội lỗi, vốn gắn chặt với những biểu hiện bị cấm đoán của ý chí. Nghịch lí ở chỗ, trong thực tế: Cảm xúc luyến ái xuất hiện như một biểu hiện của tội lỗi đích thực (đối với bản thân ý chí); trong khi cảm giác tội lỗi là một phản ứng đối với đòi hỏi tình yêu bị ngăn cấm.
Có thể xét nhu cầu tình yêu với 3 giai đoạn phát triển của nó trong tình huống trị liệu:
(i) Ban đầu, nhu cầu tình yêu chỉ là biểu hiện của ý chí đối nghịch: mong muốn càng bị cấm đoán, bị ngăn trở thì càng trở nên mạnh mẽ; mong muốn càng mạnh mẽ hơn thì lại càng làm cho cấm đoán dữ dội hơn. Ở đây chúng ta thấy có sự tương đồng với tình huống Oedipus. Tuy nhiên, sự tương đồng này chỉ thể hiện trong những tình huống tương tự, khi mà xung đột ý chí nổi lên.
(ii) Về sau, nhu cầu tình yêu này còn biểu hiện ở sự sẵn lòng trao đi, buộc mình phải tuân phục, đáp ứng theo những thỉnh nguyện của tình yêu, và thông qua sự đáp ứng những đòi hỏi đấy hòng tìm kiếm sự thỏa nguyện ý chí của chính mình. Tuy nhiên, sự quy phục này không chỉ đơn thuần là một chiến lược tâm lí (theo như Adler nói) hòng thỏa mãn cá nhân, mà nó còn cho thấy một bước tiến tinh thần to lớn trong khả năng trao đi của con người với tư cách một cá nhân. Chúng ta có thể sử dụng khả năng trao đi này một cách tích cực và kiến tạo, và như Adler đã nói, đừng cố làm cho nó phải “lộ mặt”. Ngay cả khi bản thân sự trao đi này là để nhận được một điều gì đó, thì nó cũng chứa đựng một hạt mầm cho giải pháp mang tính xã hội để giải quyết cái xung đột ý chí nơi mỗi cá nhân. Trong sự quy phục đã hàm chứa sự sẵn sàng trao đi nơi người ta nhận được.
(iii) Tuy nhiên sự trao - nhận này phải được xem xét một lần nữa về mặt đạo đức xã hội, nghĩa là, chúng ta phải quay trở lại với: một là những biểu hiện ý chí bị cấm đoán; hai là động lực ý chí bên dưới đó. Vì nếu không, ý thức phẩm hạnh về tội lỗi sẽ thay thế cho mặc cảm đạo đức xã hội, và dẫn bệnh nhân đến cấp độ thứ ba của xung đột tình yêu: Ở đây anh ta sẽ chỉ trao đi hòng trút bỏ ý thức tội lỗi của mình đối với cái ý chí bị ngăn trở, bị cấm đoán của anh ta. Điều này xuất hiện nếu người ta cho phép anh ta chối bỏ lòng biết ơn ngày càng lớn lên trong mình, đến mức phải dùng tình yêu để bù lấp cho nó, và cuối cùng là dùng chính bản thân mình để bù lấp, và để có thể giải thoát hoàn toàn khỏi ý thức tội lỗi.
Cảm giác tội lỗi
Bây giờ, hãy cùng xem vấn đề tội lỗi phát triển như thế nào trong tình huống trị liệu. Từ bản chất của mối quan hệ, có thể thấy ngay rằng thật ra cũng như vấn đề tình yêu, nó có 3 mức độ:
(i) Mức độ đầu tiên, cảm giác tội lỗi phát sinh như là một phản ứng đối với nhu cầu tình yêu, vì nhu cầu tình yêu này ban đầu vốn một biểu hiện của sự khẳng định ý chí (đối nghịch). Do đó, nó liên quan đến ý chí đối nghịch, nó mang theo nhận thức về đạo đức xã hội.
(ii) Mức độ thứ hai, cảm giác tội lỗi xuất sinh như một phản ứng trước sự sẵn lòng quy phục hòng phục vụ cho mục đích của ý chí. Do đó, cảm giác tội lỗi này liên quan đến những biểu hiện ý chí bị cấm đoán (chẳng hạn như tính dục), nó mang theo nhận thức về phẩm hạnh cá nhân.
(iii) Mức độ thứ ba và cuối cùng, cảm giác tội lỗi là phản ứng đối với mong muốn được trao đi, hòng thông qua tình yêu để xóa bỏ tội lỗi này. Và về mặt tâm lí, nó thể hiện ý thức về tội lỗi, là vì: một là nó phủ nhận, chối bỏ lòng biết ơn và sự phụ thuộc (đối với người kia); hai là nó nhằm mục đích giải thoát cảm giác tội lỗi của mình thông qua việc bù đắp đầy đủ về mặt tình cảm (cho người kia).
Vậy là trong tình huống trị liệu, chúng ta đã thấy sự phát triển ngược chiều của tình yêu và cảm giác tội lỗi.
• Cảm xúc tình yêu dường như ngày càng trở nên có luân lí đạo đức hơn: từ một nhu cầu đơn thuần rất vị kỉ của ý chí (ý chí đối nghịch), nó phát triển thành một khả năng trao đi gần như vô tư, không vị lợi;
• Trái lại, cảm giác tội lỗi có vẻ trở nên điên loạn hơn bao giờ hết: xuất phát từ một nhu cầu mang tính đạo đức xã hội của ý chí, nó đi đến sự phủ nhận gần như hoàn toàn lòng biết ơn (với tha nhân), và vì vậy đi đến ý thức về tội lỗi.
Tôi cho rằng, cơ chế phòng vệ trước lòng biết ơn này khiến cho tình yêu trở nên mê đắm và bền chặt hơn bao giờ hết, mà vẫn không xóa bỏ đi cảm giác tội lỗi. Nó cho thấy rằng cách diễn giải của trị liệu phân tâm là sai lầm. Và rằng, đây chính là yếu tố cơ bản mang tính kiến tạo trong Liệu pháp Ý chí của chúng tôi: Nếu một cá nhân đang cố gắng nói rằng, anh ta không chỉ đơn thuần là hoàn thành ước nguyện (giống như lí thuyết phân tâm đã nói), mà anh ta muốn tạo ra chính mình, và theo đó, sẽ trở nên độc lập. Thì thực ra hãy hiểu rằng: Anh ta đã tạo ra chính mình, và vì thế đang trở nên độc lập và có thể trở nên độc lập nếu được cho phép. Thay vì diễn giải sự phòng vệ của anh ta như là sự phản kháng chống lại thẩm quyền của cha mẹ.
CON ĐƯỜNG KIẾN TẠO Ý CHÍ: TỰ MÌNH, DO MÌNH VÀ CHO MÌNH
Do đó, cách trị liệu duy nhất để thoát khỏi xung đột tội lỗi này chính là để cho cá nhân tự mình kiến tạo quá trình phát triển cho chính mình và tự do của riêng mình. Đấy là điều mà anh ta vẫn làm, vẫn muốn làm. Nhưng chừng nào còn có một người là biểu tượng cho tình yêu hoặc áp lực (thẩm quyền), thì chừng đó anh ta vẫn còn phải chối bỏ, phủ nhận ý chí, để rồi phải xem sự phủ nhận đấy như là một biểu hiện ý chí của mình. Phương pháp phân tâm của Freud khiến cá nhân chìm sâu hơn vào vấn đề tội lỗi, vì nó diễn giải rằng: Nỗ lực trở nên độc lập của anh trước hai biểu tượng thẩm quyền (tình yêu và áp lực) này là sự phản kháng; trong khi sự phục tùng của anh ta trước chúng là sự chữa lành.
Khi nhà phân tâm trở thành người mang lấy thẩm quyền cha mẹ, cả ở khía cạnh tình yêu lẫn áp lực, ông ta đóng vai trò người giáo hóa phẩm hạnh cho bệnh nhân. Và khi bệnh nhân nâng vai trò của nhà phân tâm lên như một vị chúa và tuyên bố ông ta là đối tượng tình yêu, anh ta chấp nhận những yêu cầu, kì vọng này. Từ đó, làm xuất sinh tất cả các phản ứng tội lỗi mà chúng ta vừa mô tả ở trên. Đồng thời, từ chính những yêu cầu và kì vọng của nhà phân tâm, và hơn thế nữa, là từ những điều nhà phân tâm chia sẻ với bệnh nhân, ý thức về tội lỗi nơi bệnh nhân tăng lên.
Cứ cho là tình huống phân tâm cùng với sự liên tưởng tự do của nó giúp bệnh nhân bộc lộ toàn bộ cái phẩm hạnh chân thật đi chăng nữa, thì kết quả vẫn là vô ích. Bởi mục tiêu mà trị liệu cần đạt được phải là mục tiêu mang tính đạo đức xã hội, chứ không phải phẩm hạnh cá nhân. Kết quả này chỉ có thể xảy ra nếu: (i) toàn bộ xung đột ý chí (mà Freud diễn giải là chuyển dịch và phản kháng) không còn cần dùng đến những biểu hiện bề ngoài của ý chí để biện minh cho chính nó, và (ii) bản thân ý chí đấy không còn bị phủ nhận, chối bỏ về mặt tâm lí nữa. Nó phải được đối xử như một xung đột ý chí nội tâm thuần túy của cá nhân đấy. Nói cách khác, nhà trị liệu không thể thực sự giải quyết xung đột này bằng cách diễn giải lại quá khứ. Ông ta phải thừa nhận xung đột đấy như một sự thật tinh thần ngay trong trải nghiệm trị liệu ở hiện tại. Chỉ như vậy thôi, đã giúp bệnh nhân tránh được rất nhiều mặc cảm tội lỗi đi kèm theo rồi. Kĩ thuật phân tâm của Freud không thể giải quyết cảm giác tội lỗi này, nó để cho bệnh nhân bị cuốn vào, bị nhấm chìm trong trạng thái chống đối hoặc bám chấp lấy quá khứ trong quá trình chuyển dịch.
Trong tình huống trị liệu, nhà trị liệu không được đảm nhận vai trò thẩm quyền dưới bất kì hình thức quyền lực nào. Ông ấy cần phải đảm nhận tốt vai trò của một người trợ giúp bản ngã (với tư cách như là một trợ lí bản ngã)46. Trong liệu pháp phân tâm của Freud, nhà phân tâm vô hình chung lại rơi vào thế bị động do quá phụ thuộc vào thuyết lí của mình, thế nên ông ta tập trung vào những biểu hiện bề ngoài của ý chí và hướng chúng đến sự giáo hóa về phẩm hạnh và sư phạm. Trong khi, đúng ra trị liệu phải hướng đến việc giúp cho bệnh nhân bộc lộ cái ý chí sống năng động của mình về mặt đạo đức xã hội. Theo đó, ý chí được giải phóng khỏi mọi ràng ríu trong quá khứ lẫn hiện tại. Ý chí khi đó chỉ nằm ở chính bản thân cá nhân đấy mà thôi, nó tìm thấy sự giải thoát và cứu rỗi duy nhất trong chính mình. Theo nghĩa này, về mặt trị liệu mà nói, giúp cho bệnh nhân có ý thức về ý chí sống của mình không có nghĩa là tái tạo lại những giấc mơ thời thơ ấu, không phải là khơi dậy mặc cảm Oedipus hay những trải nghiệm bị dồn nén trong anh ta, vì tất cả đấy đều chỉ là sự thay thế hòng bao biện, chống đối, trốn tránh. Trải nghiệm trị liệu thực sự tự nó phải cho phép ý thức thấu rõ xung đột ý chí nội tại bên trong chính mình, trong mọi khía cạnh, dù là tình yêu hay là cảm giác tội lỗi.
46 Xem Genetische Psychologie, Tập II, S. 39.
Về nguyên tắc, xung đột ý chí này – và cảm giác tội lỗi cũng như mặc cảm tự ti đi liền với nó, là giống nhau ở cả hai giới, bởi vấn đề của nó là vấn đề . Tuy nhiên ở mỗi giới, tùy theo khác biệt về mặt sinh học và hệ tư tưởng đạo đức phẩm hạnh ràng buộc, mà xung đột ý chí lại biểu hiện ra theo những cách lối khác nhau.
Như đã chỉ ra trong chương trước, bệnh nhân không những biến xung đột ý chí thành hiện thực, mà còn làm cho xung đột đấy mang theo tính cá nhân của riêng mình. Tuy nhiên, cũng như trong cuộc sống, khuôn mẫu cá tính này chịu ảnh hưởng của giới tính (chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn trong chương tiếp theo). Ở đây về cơ bản, bạn sẽ thấy hai kiểu phản ứng chung cho cả nam giới lẫn nữ giới: (i) Với nhà trị liệu khác giới, họ chủ yếu phản ứng bằng ý chí tính dục tích cực, theo kiểu đòi hỏi tình yêu; (ii) Còn với nhà trị liệu cùng giới, họ chủ yếu phản ứng bằng ý chí đối nghịch tiêu cực.
Tuy nhiên, ý chí tính dục và ý chí đối nghịch ở nam giới và nữ giới bộc lộ ra khác nhau:
• Về mặt sinh học, ý chí tính dục tích cực xuất hiện chủ yếu ở người đàn ông; còn ở người phụ nữ, chủ yếu là ý chí đối nghịch.
• Song trong hoàn cảnh trị liệu, bởi thiếu vắng tình yêu từ nhà trị liệu khác giới, nên ý chí tính dục ở người phụ nữ lại trở nên mạnh mẽ hơn; còn ý chí đối nghịch lại mạnh mẽ hơn ở người đàn ông.
Theo đó, nếu nhà trị liệu áp dụng những khái niệm tính dục thô nguyên này vào những vấn đề ý chí và cảm giác tội lỗi nói chung cho cả hai giới, thì: Trong hoàn cảnh trị liệu, người phụ nữ sẽ phản ứng nam tính hơn là trong cuộc sống. Còn người đàn ông, ngược lại, trong trị liệu anh ta sẽ phản ứng theo cách nữ tính hơn là trong cuộc sống.
Nhà trị liệu dễ rơi vào kiểu thuận tiện là cố gắng giải thích những phản ứng trái ngược này là đồng tính luyến ái, thậm chí là “đồng tính luyến ái vô ý thức”. Trong khi đó thực ra, trong hoàn cảnh trị liệu, do bệnh nhân không bộc lộ được ý chí tính dục đúng như phản ứng của ý chí thông thường của mình với những giới tính khác, thì nó sẽ bộc lộ ra thành là từ chối tình yêu và xung đột tội lỗi mà thôi.
Vào thời đại của chúng ta, với con người theo chủ nghĩa cá nhân, thì tính dục – cũng giống như bất kì biểu hiện nào khác, chính là cái để phục vụ cho ý chí, cho những biểu hiện tích cực hay tiêu cực của ý chí. Thế nên thành ra, người phụ nữ ban đầu sẽ cố gắng khẳng định ý chí tích cực của mình bằng những đòi hỏi tình yêu trong cuộc chinh phục của ý chí tính dục với nam giới; để rồi cuối cùng lại mong muốn bù đắp cảm giác tội lỗi bằng cách trao đi thể xác, hòng giải phóng chính mình.
Đứa trẻ cũng vậy, nó đóng một vai trò kép tương tự trong mối quan hệ giữa người phụ nữ với người đàn ông: Một mặt, nó hiện thực hóa cái mong muốn sở hữu người đàn ông hoặc thứ gì đó từ anh ta (tương tự như anh ta). Mặt khác, đó cũng được xem như là “món quà” của người phụ nữ dành cho người đàn ông mà cô ta đã chinh phục, chiếm hữu, hòng giúp bản thân thoát khỏi cảm giác tội lỗi.
Ở đây chúng ta thấy ngay sự khác biệt cơ bản nhất trong cấu trúc tâm lí của đàn ông và phụ nữ:
• Đối với phụ nữ, ngay cả trong xung đột ý chí tiêu cực hòng được giải thoát, thì tính xây dựng, tích cực và kiến tạo của họ vẫn lớn hơn nhiều so với đàn ông. Còn người đàn ông bộc lộ ý chí sáng tạo về mặt tinh thần nhiều hơn bằng cách phóng chiếu và phóng đại cái bản ngã đến mức phi thực, anh ta khuếch trương bản thân.
• Phụ nữ nói chung thường có khuynh hướng thực tế hơn nhiều, và theo đó họ có thiên hướng giữ gìn, bảo trì và bảo vệ. Còn người đàn ông có xu hướng cố gắng phát tán, tàn phá và hủy hoại khi ý chí đối nghịch nơi anh ta đụng độ, chạm trán với thực tại.
• Bởi thế, người phụ nữ vẫn chiến thắng trong khi cô ấy trao đi, vì cô ấy vượt qua được cái phần ý chí đối nghịch trong mình và giải phóng nó. Trong khi người đàn ông dù trong chiến thắng của ý chí, cũng phải khuất phục, chịu thua trước ý chí đối nghịch, phản kháng của chính mình.