Vạn vật ở trong vòng quay vĩnh hằng vô tận. Nơi chúng sinh ra, chúng nhất định phải trở về. Chúng phải chuộc tội và đền bù cho nhau, bởi những bất công của chúng trong trật tự thời gian
- Anaximander -
Qua chương trước, bạn đã thấy rằng, ngay cả trong hoàn cảnh trị liệu, mối liên hệ cảm xúc giữa con người với con người tồn tại với tư cách là mối quan hệ cá nhân. Freud giải thích mối liên hệ cảm xúc đó bằng quá khứ, coi nó như là một sự lặp lại những phản ứng trẻ thơ. Song thực ra, những cảm xúc đấy phát triển từ vấn đề xung đột ý chí và tội lỗi: (i) Trước hết, nó như là một sự nhân cách hóa ý chí cá nhân, rồi phóng chiếu lên một đối tượng khác; đồng thời bằng cách sùng bái hóa người kia, tôn cao họ lên, cá nhân đấy biện hộ cho giá trị phẩm hạnh của chính mình. (ii) Sau đó, nó phát triển thành sự khẳng định trực tiếp ý chí thông qua nhu cầu tình yêu, đồng thời thông qua người còn lại, trên danh nghĩa được-yêu-thương, để biện hộ cho ý chí của mình về mặt đạo đức xã hội. Nói cách khác, bằng cách nhân cách hóa ý chí trong cả hai nguyên lí vĩ đại của cuộc sống là tình yêu và áp lực, con người hiện thực hóa và khẳng định ý chí cá nhân của riêng mình.
Bạn cũng đã thấy vấn đề tội lỗi phát triển ra sao trong quá trình con người tìm cách khẳng định ý chí của mình: (i) Trước hết, thông qua một con người trần tục khác, hay bằng cách tạo ra hình ảnh một vị chúa siêu nhiên cũng thế thôi, anh ta tôn sùng cái ý chí của riêng mình, nó như là cách để ý chí trút bỏ cảm giác tội lỗi của mình; (ii) Trong khi đó, đòi hỏi tình yêu lại gây nên một ý thức mới về tội lỗi, bởi nó xuất sinh từ việc cá nhân thể hiện những khía cạnh đang bị cấm đoán của ý chí.
Cuối cùng bạn đã thấy một hành trình tâm lí: Từ việc hiện thực hóa ý chí bản thân trong hình ảnh một vị chúa toàn năng, lẫn một đối tượng tình yêu có thể bào chữa cho nó theo hướng thấy nó là tốt đẹp và cứu chuộc nó khỏi cảm giác tội lỗi; đi đến một kiểu cảm giác tội lỗi rất đặc thù, đấy là lòng biết ơn ngày một lớn lên, thể hiện trong khả năng và sự sẵn sàng quy phục, cũng là sẵn lòng trao đi. Có điều, sự sẵn sàng quy phục (hay trao đi) này không đơn thuần là một biểu hiện của lòng biết ơn. Rốt cuộc, sự quy phục và trao đi trở thành cái giá mà cá nhân muốn trả để đổi lấy tự do và độc lập cho ý chí của riêng mình. Bạn sẽ thấy, người phụ nữ cố gắng giải phóng bản thân khỏi người đàn ông cô ta yêu với cái giá là trao đi thể xác và sinh ra một đứa trẻ. Bạn sẽ thấy, người đàn ông phải trả giá để thoát khỏi cảm giác tội lỗi bằng thành tựu, bằng công trình, bằng tác phẩm – những thứ biểu trưng cho khả năng sáng tạo của anh ta. Sau rốt, tất cả đều được xem như là cảm giác tội lỗi. Lòng biết ơn cũng là cảm giác tội lỗi bởi nó hàm chứa mong muốn được tự do, được độc lập khỏi đối tượng đã nâng đỡ và cứu chuộc cho ý chí của nó. Bạn thấy cảm giác này quen thuộc đúng không?
CHIA LÌA (1): ĐIỀU KHÔNG TRÁNH KHỎI
TRONG CUỘC ĐỜI
Đến đây, hẳn bạn đã thấy bức tranh toàn cảnh của trải nghiệm trị liệu, với toàn bộ quá trình phát triển của nó: (i) Từ ý thức loạn thần kinh về cảm giác tội lỗi do xung đột ý chí và sự phủ nhận ý chí; (ii) Cho đến cảm giác tội lỗi trong sự sáng tạo nên trải nghiệm tự giải phóng ý chí; (iii) Trải nghiệm giải phóng ý chí này lên đến đỉnh điểm vào giai đoạn cuối của quá trình trị liệu và được giải quyết thông qua việc thiết đặt một hồi kết sao cho phù hợp với từng cá nhân cụ thể, cả về thời gian và ý nghĩa trị liệu với riêng họ.
Chắc chắn, đây không phải là nỗ lực đầu tiên của cá nhân hòng giải phóng ý chí của bản thân. Nỗ lực này sẽ thành công nếu nhà trị liệu để anh ta hoàn thành việc giải phóng đó và không chất chứa trong tâm hồn một món nợ ân nghĩa nào phải trả. Và bạn cũng thấy, việc này chỉ khả thi trong một trải nghiệm trị liệu thực sự ở hiện tại, chứ không phải kéo ngược cá nhân ấy về quá khứ, bất kể họ có thấy biết ơn cha mẹ mình (hay những đối tượng khác) hay không. Như là những chất liệu giúp cho quá trình trị liệu, những đối tượng đấy chỉ xuất hiện với tư cách: Một, là biểu tượng của sự ràng buộc sinh học; Hai, về mặt tâm lí, đấy là những biểu tượng của lòng biết ơn. Nói ách khác, tựu chung đấy là những biểu tượng cho cảm giác tội lỗi, mà giờ đây trong hoàn cảnh trị liệu, đã chuyển sang gắn liền với nhà trị liệu trong vai trò một người trợ giúp cho bệnh nhân.
Cảm giác tội lỗi này phát sinh từ quá trình phát triển cái tôi của cá nhân, và trong mỗi nỗ lực giải phóng của mình, cá nhân luôn luôn bị trói buộc với những đoạn quá khứ đã qua, anh ta không thể tự giải thoát bản thân khỏi chính những biểu tượng nhân cách hóa ý chí của mình. Nhiệm vụ của trị liệu và ý nghĩa của mỗi trải nghiệm chính là giúp một người giải phóng khỏi một đoạn quá khứ mà anh ta đã trải qua, bất kể quá khứ đó mang hình hài của biểu tượng nhân cách hóa nào, là cha mẹ, là người yêu hay một vị chúa siêu nhiên phi thực.
Thế nên, về mặt tâm lí mà nói, sự phân li giữa cá nhân và biểu tượng nhân cách hóa ý chí của anh ta đều là một biểu trưng cho sự chia lìa nói chung. Chia lìa, hóa ra, là một phần căn bản của cuộc sống. Như bạn đã thấy, sự phát triển của thế giới hữu cơ đều dựa trên sự chia tách này. Tuy nhiên, chỉ có con người, với những ý thức và sự hiểu biết về nguyên lí cuộc sống mới có thể lưu giữ hay gọi lại quá khứ trong trí nhớ của mình, mới có thể hình dung về tương lai trong tưởng tượng của mình, mới mang đến ý nghĩa tinh thần rất đặc biệt cho khái niệm chia lìa và cho cảm giác chia lìa này.
Thế nên, như trong The Trauma of Birth (Chấn thương sinh nở) đã nói: Ở con người, sự chia tách về mặt sinh học giữa cá nhân khỏi cơ thể người mẹ sau khi sinh nở cũng đồng thời mang ý nghĩa tinh thần như là cuộc chia li đầu tiên trong cuộc đời một con người. Tương tự như vậy, mọi bước tiến tiếp theo trên con đường tự lập của mỗi cá nhân đều mang dấu ấn của sự chia lìa này: cai sữa, tập đi, và đặc biệt là quá trình phát triển ý chí cá nhân. Quá trình đấy luôn được xem như là những cuộc chia lìa liên tục của đời người. Thậm chí trong lần chia lìa cuối cùng nơi cái chết, cá nhân đã phải để lại, phải bỏ lại phía sau thảy những giai đoạn và những thành tựu phát triển bản ngã của mình. Bởi chăng vì thế cái chết bao giờ cũng trở thành cuộc chia lìa đau đớn nhất?
CHIA LÌA (2): ĐAU ĐỚN VÀ TRƯỞNG THÀNH
Trong trải nghiệm trị liệu, chúng ta đối mặt với một sự chia lìa rất đặc biệt. Ở một mức độ nhất định nào đó, nó tương đồng với những sự chia lìa trước đó, nhưng điều đấy không có nghĩa là chúng ta phải cưỡng ép lặp lại những trạng huống quá khứ đó. Tương tự như trong những chứng rối loạn thần kinh (khủng hoảng) tuổi trưởng thành47, đến một giai đoạn phát triển nào đó trong trải nghiệm trị liệu, sự chia lìa này buộc phải đi đến một nỗ lực cuối cùng: Nỗ lực giải phóng bệnh nhân khỏi toàn bộ quá khứ trước đó của anh ta – cái quá khứ đã sống trong anh ta và cho đến tận lúc này đã cố định nhân cách anh ta, cái quá khứ đã ghim chặt anh ta vào cảm giác tội lỗi.
47 Xem thêm về khủng hoảng bản ngã trong Genetische Psychologie, Tập II, S. 58.
Quá khứ này, như trên đã nói, được biểu tượng hóa trong một mối quan hệ đời sống như tình yêu, tình bạn hay hôn nhân, hoặc cũng có thể là trong mối quan hệ với cha mẹ (nếu cá nhân không thể tìm được trải nghiệm nào khác). Thực tế là, thông qua trải nghiệm với những mối quan hệ đó, cá nhân mong muốn giải thoát và cũng đã thử giải thoát mình, nhưng anh ta đã không thể làm được. Về mặt ý nghĩa, trải nghiệm trị liệu và mối quan hệ trị liệu sớm đã vượt lên khỏi tầm mức của các trải nghiệm kia, và vì vậy, nó trở thành một biểu tượng cho toàn bộ quá khứ của anh ta, do đó, cho chính anh ta. Việc cá nhân bám víu vào những đối tượng và mối quan hệ cảm xúc này, bao gồm cả quan hệ trị liệu, không phải do sự thôi đẩy của dục năng, mà bởi ý chí cá nhân của anh ta. Sự bám chấp này ngưng kết dưới dạng mê đắm tình yêu và dưới dạng lòng biết ơn, hòng bù đắp cho cảm giác tội lỗi trong chính anh ta. Tại điểm này, cảm xúc luyến ái (như chương trước đã nói) xuất hiện như một tư tưởng mang tính giá trị phẩm hạnh, nó như là phản ứng tội lỗi đầu tiên trước mong muốn tự do của ý chí, theo kiểu “Ta không nên có ý chí của riêng mình, ta chỉ nên thấy biết ơn và yêu thương thôi.” Trong hoàn cảnh trị liệu, nhà trị liệu không nên hiểu lầm những phản ứng mang tính lương tri này là một dạng dục năng hay mê đắm ấu thơ (như phân tâm học Freud diễn giải). Hơn nữa, mặc cảm tội lỗi mang tính đạo đức xã hội do quá trình phát triển cái tôi cũng nên được xem như là một giá trị phẩm hạnh, nếu trải nghiệm trị liệu là để giúp cá nhân giải phóng ý chí và thật sự kiến tạo một nhân cách mới nơi mình.
Vậy thì nhìn từ quan điểm này, vấn đề loạn thần kinh chẳng qua là một vấn đề của sự chia lìa, sự phân li. Đấy là một nỗi bế tắc trong đời sống tinh thần khi ý thức con người phải chịu đựng sự giải phóng và chia lìa: Đầu tiên là cuộc tách lìa khỏi nguồn sức mạnh sinh học của đấng sinh thành đã ban cho ta thân xác này. Sau đó là những cuộc phân li không ngừng khỏi từng phần đời mà bản thân đã sống qua – những phần đời này lại mang theo trong nó sức mạnh sinh thành ban sơ kia. Và vô hình chung, tổn thương từ cuộc chia lìa ban sơ với người mẹ ấy để lại những trở ngại cho sự phát triển nhân cách về sau nơi mỗi cá nhân.
Người rối loạn thần kinh trở nên đau khổ chính ở điểm này: Thay vì vượt qua quá khứ, sống ở hiện tại, anh lại cảm giác rằng mình không dám, không thể vượt qua. Anh ta đánh mất bản thân trong cảm giác tội lỗi bủa vây. Ở đây, có vẻ việc phải thừa nhận rằng thân xác mình với tư cách một con người lại phụ thuộc về mặt sinh học vào một cá thể khác, và sự tồn tại của mình chẳng qua là một phần nhỏ nhoi của sự sống vũ trụ mênh mông, khiến cho lòng tự tôn cá nhân bị tổn thương. Phải thừa nhận điều đấy, nghĩa là đi ngược lại với ý thức của anh ta về bản thân như một tiểu vũ trụ và đánh vào sự độc lập, tự tại của anh ta với tư cách một cá thể có ý chí. Thế nên, tâm lí tổn thương đấy quay lại trả thù bằng cách tôn mình lên trong bổn phận yêu thương và món nợ ân nghĩa.
Trong những phản ứng tội lỗi này, vấn đề chia lìa cho thấy nó có liên quan đến ý thức về sự khác biệt của cá nhân, có điều nó tổng quát và bao hàm nhiều điều hơn. Bởi sự chia lìa là điều đã xảy ra, nó là “sự đã rồi” không thể khác. Ở cấp độ sinh học đơn thuần, nó là điều cần thiết để một cá thể khai sinh, và nó diễn ra từ lúc ra đời, lớn lên, cho đến lúc chết đi, mà người ta không mấy ý thức về nó. Trong khi đó, ý thức tội lỗi xuất phát từ sự khác biệt là một nhận thức tỉnh táo về sự phân li, cũng về phản ứng của cá nhân trước nó, bất kể đấy là chia lìa: (i) theo nghĩa sinh học như ra đời, khai sinh, già đi và chết đi; (ii) theo nghĩa tâm lí học là cắt đứt ân nghĩa, quên đi lòng biết ơn; hay (iii) theo nghĩa đạo đức xã hội là khẳng định tính cách cá nhân với tư cách một cá thể độc lập, tách biệt và khác biệt với những cá thể khác.
CHIA LÌA (3): NGUYÊN MẪU PHẢN ỨNG CỦA NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ
Đến lúc này, tính dục – với tư cách một khía cạnh của sự khác biệt và chia lìa, cũng trở thành một vấn đề của chứng rối loạn thần kinh. Song nó không phải theo nghĩa một thực tế cụ thể như trong phức cảm thiến hoạn của Freud, mà theo một nghĩa sinh học rộng lớn hơn, đồng thời cũng mang tính đạo đức xã hội cao hơn. Tình huống trị liệu cho thấy, đàn ông và phụ nữ phản ứng với sự chia lìa theo những cách khác nhau. Khác biệt trong cách phản ứng là điển hình cho toàn bộ khác biệt về mặt tinh thần của hai giới, và cho thấy những biểu hiện khác nhau của mâu thuẫn ý chí và tội lỗi mà cả hai đều có. Đối với sự chia lìa – một biểu trưng cho một quá trình sống không ngừng bị tháo rỡ liên tục: (i) phụ nữ phản ứng thận trọng và có tính xây dựng hơn; còn (ii) đàn ông thì nổi loạn và có tính phá hủy hơn. Tất nhiên đấy chỉ là khía cạnh biểu hiện cực đoan nhất đối với sự chia lìa ở hai giới. Song, bất kể là giới nào và ở mức nào, thì cũng có một khoảng thỏa hiệp giữa hai xu hướng: Phá bỏ, tháo rỡ một phần sống cũ để phần sự sống mới có thể nảy nở sinh sôi. Nhưng nhìn chung:
(i) Người phụ nữ có xu hướng thận trọng, giữ gìn, bảo trì nguyên lí sinh học của đời sống này;
(ii) Người đàn ông có xu hướng sáng tạo, phát tán, có thể trở thành nhân tố hủy diệt dễ dàng hơn rất nhiều khi có một phản kháng nổi lên từ bên trong, hay một nhân tố bên ngoài chống lại ý chí của anh ta. Ý chí này có xu hướng sáng tạo tiêu cực, nghĩa là biểu hiện ra như một ý chí đối nghịch mang tính phá hủy. Và chúng ta dễ dàng nhận ra, sự phá hủy này bản chất bên trong là một sự phủ nhận những chướng ngại, những ngăn trở đối với ý chí anh ta, đã được anh ta chuyển thành hành động.
Sự khác nhau trong hai kiểu mẫu phản ứng nơi người nam và người nữ thể hiện ở cả cách họ ứng xử với nguyên lí chia lìa của đời sống, từ cấp độ sinh học cho đến những biểu hiện đạo đức xã hội cao nhất của xung đột ý chí:
• Ở cấp độ sinh học là sự khai sinh và sinh nở:
Người đàn ông thể hiện sự tạo tác của anh ta thông qua chia lìa. Anh ta sẵn sàng để một phần nhục thể của bản ngã phân li và ra đi. Như câu chuyện trong Kinh Thánh đã kể, rằng người đàn ông sáng tạo ra người phụ nữ từ chiếc xương sườn của mình. Người phụ nữ, ngược lại, tạo tác một sinh thể mới nhờ vào việc loại bỏ sự chia lìa, và thông qua sự hợp nhất để duy trì tính giữ gìn và bảo tồn. Thậm chí, ở mức hành động sinh nở thực tế, sự chia lìa này cũng chỉ là một chia lìa về mặt thể xác, và nó ngay lập tức bị vô hiệu hóa bởi mối ràng buộc tình cảm giữa người mẹ với đứa trẻ. Và theo nghĩa này, người phụ nữ thường có xu hướng bù đắp (tình cảm) quá mức cho đứa con của cô ấy bởi cuộc phân li thể xác đã diễn ra.
Người phụ nữ trở thành một đấng tạo tác thực sự, cả theo nghĩa sinh học và trong đời sống thực. Trong khi người đàn ông biểu trưng cho sự sáng tạo về mặt tinh thần và phi thực. Trong quá trình tạo tác tinh thần này, anh ta liên tục giải phóng từng phần cái tôi của mình. Đấy là những phần cái tôi anh ta buộc phải phóng chiếu ra, nhân cách hóa, khách quan hóa lên đối tượng. Trong khi đấy, người phụ nữ có thể thực sự tạo tác ra trong hình hài đứa trẻ, và sau cùng là nơi người đàn ông.
• Ở cấp độ ý chí phóng chiếu và tạo tác hình ảnh tinh thần:
Người đàn ông tạo tác hình ảnh một vị chúa siêu nhiên như thể đấy là một phần tách rời từ cái tôi ý chí của anh ta. Cũng như trong mọi công việc và thành tựu khác, anh ta liên tục giải phóng bản thân khỏi một phần quá khứ của mình; trong cả đời sống yêu đương cũng vậy, quá trình giải phóng này vẫn tiếp tục diễn ra48. Về điểm này, một lần nữa, phụ nữ nói chung vẫn thận trọng và thủ giữ hơn nhiều.
• Trong sự hình thành của chứng rối loạn thần kinh:
Người đàn ông hướng đến suy nghĩ cưỡng bách mang tính hủy diệt nhiều hơn, và họ có xu hướng đi đến địa hạt của trí tuệ và sự thật nội tâm. Trong khi phụ nữ thì thiên về các triệu chứng cơ thể, và trong bất kì trường hợp nào, nó cũng gần với đời thực hơn.
Đương nhiên, chúng ta không bỏ qua thực tế là chứng rối loạn thần kinh ở người nữ cũng có tính phá hủy và nhằm vào hủy hoại bản thân giống như ở nam giới. Đối với cả hai giới và với mọi dạng rối loạn thần kinh mà nói: Rối loạn thần kinh nói chung không chỉ là sự phá hủy mà còn là một nỗ lực hòng chia tách, là một bước tiến trong quá trình phát triển để đi đến sự độc lập – sự độc lập mà cá nhân phải trả giá bằng đau khổ, bệnh tật, bằng cách từ bỏ một phần cái tôi quá khứ của mình. Người đàn ông, trong sự hòa điệu tuyệt cùng với ý chí quyết liệt hòng giải phóng và phát triển bản thân nơi mình, đã cương cường đến mức phá hủy quá khứ của chính mình. Trong khi phụ nữ phải trả giá cho cảm giác tội lỗi của mình bằng nỗi đau đớn thể xác thực sự và bằng tạo tác của mình là đứa trẻ, từ đó bảo toàn bản thân mình.
48 Xem thêm Genetische Psychologie, Tập II, phần “Verliebheit und Projektion” (tạm dịch: Tình yêu và Phóng chiếu).
• Trong trải nghiệm trị liệu (và các trải nghiệm chia lìa khác của đời sống):
Sự chia lìa biểu trưng cho nguyên lí của đời sống tinh thần, đấy là sự-tự-lực của cá nhân. Ở đây chúng ta cũng thấy được những khác biệt về mặt sinh học trong phản ứng của người nam và người nữ trên phương diện đạo đức xã hội. Tại đó, biểu hiện tính dục chỉ như là một tượng trưng nhằm truyền tải xung đột ý chí và tội lỗi.
Người phụ nữ trong lúc chia lìa, cô ấy vẫn thấy ở người đàn ông đứa trẻ mà cô sẽ sinh ra. Nói cách khác, dù để họ ra đi, dầu phải phân li, nhưng cô ấy vẫn không thôi mong muốn lưu giữ, vì vậy cô ấy bày tỏ xung đột ý chí - tội lỗi dưới dạng những biểu tượng vật chất hữu hình hóa mong muốn của cô ấy. Cô ấy không muốn từ bỏ hay đánh mất người đàn ông, bởi cũng giống như đứa trẻ, người đàn ông đấy đã trở thành một phần tinh thần của cô. Về mặt tinh thần mà nói, cô ấy tưởng tượng người đàn ông chẳng khác nào đứa trẻ của mình. Sau đó cô ấy sẽ hiện thực hóa tưởng tượng này bằng việc muốn có một đứa con với người đàn ông, và chính trong đứa con này, cô đồng thời lưu giữ hình ảnh người đàn ông đấy. Mặt khác, bằng đứa con mà cô dâng hiến cho người đàn ông, cô ấy có thể giải thoát cho ý chí của mình. Do vậy, cô ấy vừa có thể trả được món nợ ân tình, cùng lúc nợ ân tình của cô cũng được đáp trả.
Ở đây, chúng ta phải thấy khía cạnh biểu trưng của mong muốn có một đứa con. Freud diễn giải ham muốn này giống như là mong muốn từ thời thơ ấu của đứa trẻ, đấy là có một đứa con thực sự. Chúng ta không thể nhìn theo cách đấy. Chúng ta phải thấy rằng, dù là ở hiện tại cũng như khi còn nhỏ, cái mong muốn trao cho người đàn ông một đứa con là một cách để người phụ nữ giải thoát bản thân khỏi người đàn ông ấy. Nhiều bệnh nhân cũng cố gắng hiểu ra mong muốn đấy, cố gắng hiện thực hóa nó nơi một người bạn đời, một đứa con hay một người nào đó trước khi định rời khỏi người ấy, như một cách đáp trả cho phép trị liệu tinh thần mà họ dành cho cô.
Trong mỗi lần chia li, người đàn ông thấy ở người phụ nữ hình ảnh người mẹ đã sinh ra anh ấy, cũng là người đã chia lìa khỏi anh. Đấy là người phụ nữ mà anh sẽ hủy diệt để có thể giải thoát mình mà không phải nhường lại cô ấy cho người khác. Còn chừng nào người đàn ông muốn gìn giữ mối quan hệ, anh sẽ mượn đến biểu trưng là những đứa trẻ, đấy cũng là đối tượng mà anh ta đồng nhất với công việc hay thành tựu của mình. Tương tự, người phụ nữ chỉ có thể thật sự biểu trưng hóa hành động giải thoát của mình thông qua hệ biểu tượng thuộc về sự khai sinh, chứ không phải sự hoài thai.
Tựu chung trong hoàn cảnh trị liệu, chúng ta chỉ có thể hiểu được trải nghiệm chia lìa tinh thần khi chúng ta vượt ra khỏi những biểu hiện tính dục của ý chí. Bởi tính dục, xét cho cùng, chỉ là một tải thể biểu trưng cho vấn đề giá trị phẩm hạnh giữa trao và nhận, giữa tạo tác và được tạo tác, giữa chia lìa và tội lỗi mà thôi:
(i) Đứa con, theo đó tượng trưng cho ý chí thủ giữ, đồng thời cũng là sinh mệnh gánh lấy phần cảm giác tội lỗi thay cho đấng sinh thành, cả về mặt sinh học lẫn mặt phẩm hạnh cá nhân;
(ii) Cha mẹ - đấng sinh thành, ngược lại, biểu trưng cho sự chia lìa, đồng thời cho lòng biết ơn, cho tội lỗi, với hai vai được chia ra cho người mẹ và người cha: Người mẹ, mặc dù chia lìa thể xác khỏi đứa trẻ, song vẫn ràng buộc tinh thần nó. Trong khi đấy, bản thân người cha vốn là sự chia lìa, là kết quả của sự lìa tách khỏi người mẹ, khỏi quá khứ, biểu trưng cho sự phát triển hướng đến sự tự lập.
Vậy là, những khái niệm về người mẹ, người cha và đứa con, ban đầu vốn chỉ thuần túy sinh học và xã hội học. Con người hiện đại đã gán thêm cho nó những ý nghĩa luân lí đạo đức, từ đó biểu trưng đấng sinh thành và hài nhi, đấng tạo tác và sinh mệnh được tạo tác cũng mang vai trò riêng rẽ, độc lập với vai trò giới tính, như chúng ta đã thấy trong trải nghiệm trị liệu.
Trong tình huống trị liệu phù hợp: nhà trị liệu nam có thể vào vai người mẹ, còn bệnh nhân nữ có thể trở thành một ý chí sáng tạo – điều vốn thường là đặc tính của người nam; hoặc cả nhà trị liệu và bệnh nhân đều trở thành đấng tạo tác, hoặc vào vai đứa trẻ (đồng nhất nhà trị liệu với anh chị em ruột) nếu hoàn cảnh trị liệu yêu cầu trải nghiệm những cảm xúc đấy. Chúng ta không nên hiểu sự đồng nhất hóa này là sự tái hồi những kí ức ấu thơ hay những mảnh quá khứ trong cuộc đời bệnh nhân. Thật ra, chúng chỉ mang tính biểu trưng về mặt cảm xúc và mang ý nghĩa về đạo đức xã hội mà thôi. Tùy theo tình huống và vấn đề mà cá nhân gặp phải, tùy theo xung đột ý chí và tội lỗi mà các vai mang tính biểu tượng sẽ thay đổi và biến hóa theo.
KHỔ ĐAU: CHÂN LÍ CỦA THỰC TẠI
Đến đây, hẳn chúng ta đã thấy, xung đột ý chí là căn nguyên của các chứng rối loạn thần kinh và phản ứng loạn thần kinh, và cá nhân tất nhiên muốn giải quyết xung đột này theo đặc trưng giới tính của mình. Nhưng họ chỉ có thể thực sự được giải thoát khỏi xung đột đấy theo hướng kiến tạo ý chí, khi nhà trị liệu vượt lên vấn đề giới tính và tính dục để đi đến vấn đề phi tính dục, nghĩa là đi đến mâu thuẫn ý chí - đạo đức trong nội tâm con người. Dưới góc độ này, chúng ta sẽ thấy ức chế loạn thần kinh chính là một biểu hiện của xung đột ý chí, cũng như sự dồn nén hay chuyển dịch là biểu hiện của xung đột ý thức. Trong đó, các triệu chứng của nó là một biểu hiện của xung đột ý chí và được gia tăng bởi xung đột ý thức, cái ý thức vốn tạo nên cảm giác tội lỗi. Cùng với đó, nhận biết một cách có ý thức về cái ý chí bị ức chế, bị ngăn trở đấy làm xuất sinh trong cá nhân một nỗi sợ hãi. Đấy có thể là một nỗi sợ từ thực tế, hay chỉ thuần túy là nỗi sợ trong thâm tâm mà thôi.
Trên tất cả, thứ chống lại ý chí của chúng ta, ngăn trở nó, còn hơn cả cái ý chí đối nghịch ngoại lại kia, chính là thực tại. Cho dù là một ý chí đối nghịch ngoại lai từ bên ngoài, hay về sau đã biến thành cái ý chí đối nghịch trong chính chúng ta, cùng với mọi biểu hiện ý thức của nó, thì rốt cùng, chúng đều chỉ có một nguyên mẫu, đấy là thực tại. Đây chính là giản đồ của xung đột ý chí - tội lỗi, và rõ ràng như nó biểu hiện trong các chứng rối loạn thần kinh, nó không hề phụ thuộc vào chuyện giới tính.
Sở dĩ vấn đề tính dục trở nên nổi cộm trong các chứng rối loạn thần kinh, bởi vì nó mang đến những cách giải tỏa tự nhiên cho xung đột ý chí trong nội tâm. Thật ra, nó thực sự có tác dụng trị liệu của nó, nếu chỉ giới hạn ở góc độ sinh lí, và miễn là chúng ta không dùng ý thức áp đặt lên nó những giá trị đạo đức xã hội. Nói cách khác, miễn là chúng ta chưa đẩy sự cá tính hóa tiến xa đến mức muốn cái bản năng tính dục đấy quy phục trước cái tôi ý chí của mình, để rồi biến nó thành một biểu hiện của xung đột ý chí. Người ta cố phủ nhận xung đột ý chí - tội lỗi đấy trong nội tâm mình, người ta đẩy vấn đề sang cho một thứ cụ thể hữu hình là tính dục, để rồi đánh giá, phán định về nó với tư cách là chính ý chí đấy. Thế nên, trong cuộc sống bình nhật của con người, đời sống tính dục có thể giúp giải tỏa mâu thuẫn ý chí - tội lỗi, bởi nó đã được cụ thể hóa và hợp thức hóa về mặt đạo đức phẩm hạnh, thành các phong tục tập quán và các nguyên tắc ứng xử thông thường trong đời sống hôn nhân vợ chồng. Còn ở góc độ xung đột ý chí và tội lỗi về mặt tính dục trong mỗi cá nhân, thì nó thất bại, và thất bại này chính là cái chúng ta vẫn gọi là chứng rối loạn thần kinh.
Song về bản chất, bạn phải hiểu là, xung đột ý chí và tội lỗi này không liên quan gì đến giới tính và tính dục. Cảm giác tội lỗi đấy chẳng qua xuất sinh do sự cá tính hóa, sự khác biệt với những người khác và sự chia lìa khỏi những người gần gũi nhất, những điều thân thương nhất. Thường thì đời sống tính dục là đủ để hàn gắn, chữa lành tổn thương chia lìa này, vì nó tạo ra mối kết nối giữa cá nhân với giống loài của mình về mặt sinh học, và ràng buộc tinh thần anh ta với cái tôi hỗ trợ (trợ lí bản ngã)49 của mình. Trong đó, người đàn ông tìm thấy sự hợp nhất nơi người phụ nữ (người mẹ), còn người phụ nữ tìm thấy sự hợp nhất trong đứa con.
49 Assistant ego: Trong tình huống trị liệu, ý chỉ nhà trị liệu trong vai trò người trợ giúp, hỗ trợ bệnh nhân. Ở đây, chỉ đối tác trong một mối quan hệ.
Người rối loạn thần kinh và mẫu người sáng tạo đều là những cá nhân có quá trình cá tính hóa ý chí quá mạnh mẽ, theo đó họ cũng phải gánh chịu một cảm giác tội lỗi tương đương với sự mạnh mẽ của ý chí. Và mối quan hệ tính dục đấy không đủ để bù đắp cho họ, nên ngay cả nó cũng bị phủ nhận. Không phải là vì bản năng tính dục khiến họ thấy tội lỗi, giống như phân tâm học đã nói trong phức cảm Oedipus, mà vì cái giá đấy không đủ để bù đắp cho cảm giác tội lỗi dày vò mãnh liệt họ phải mang trong mình. Theo đó, tuýp người sáng tạo, cũng giống như người rối loạn thần kinh, phải tìm một phương thức bù đắp khác mang tính cá nhân hơn. Phương thức này hoặc chỉ có những khả năng sáng tạo rất giới hạn, ví dụ như tình yêu, tuy vậy nó vẫn có thể giúp giải tỏa phần nào. Hoặc nó phải có tính phổ quát, vượt lên trên giới hạn của giới tính, để đạt đến một giá trị chung, thay vì một sự giải tỏa mang tính cá nhân chỉ khiến anh ta thấy tội lỗi thêm một lần nữa. Bạn hãy hình dung thế này cho dễ hiểu: Tình yêu, trong vai trò là một phương thức trả nợ, nó giống như tiền giấy. Nó sẽ được chấp nhận chừng nào cá nhân đảm bảo được năng lực tín chấp của mình, nói cách khác, là có khả năng yêu thương. Nhưng rốt cuộc, đến một lúc nào đó, chúng ta phải thừa nhận là tình yêu không thể nào bù đắp cho cảm giác tội lỗi trong nội tâm mỗi người. Nó chỉ có tác dụng trì hoãn, kéo dài việc “trả nợ”, và rồi người ta sẽ phải tiếp tục chịu đựng cảm giác tội lỗi dày xé với chứng rối loạn thần kinh.
Sau khi khước từ tất cả những nỗ lực đền bù tội lỗi bằng tính dục, từ chối nỗ lực bào chữa trong những trải nghiệm tình yêu và tôn giáo, như chúng ta đã thấy, cảm giác tội lỗi cuối cùng cũng xuất lộ với hình hài nguyên sơ của nó nơi người loạn thần kinh. Và rốt cùng, anh ta phải thừa nhận nó và trân trọng nó. Tính dục, tôn giáo và tình yêu, đến cùng, chỉ là những nỗ lực phủ nhận của con người nói chung và cá nhân nói riêng hòng thoát khỏi cảm giác tội lỗi xuất sinh từ sự cá tính hóa. Cảm giác tội lỗi này không bắt nguồn từ đời sống yêu đương và tính dục – như Freud nghĩ, song rất có thể đã vì thế mà gia tăng thêm. Vẫn có cách để một cá nhân có thể cá tính hóa cao độ cùng với cái tôi ý chí mạnh mẽ của mình, ngay cả khi quy phục trước đối tượng tính dục (đối tác), mà đồng thời vẫn có thể bù đắp cho cảm giác tội lỗi, và do đó, cùng lúc bào chữa cho chính nó và ý chí của riêng nó. Cách duy nhất đấy là: Hiện thực hóa ý chí và cá tính trong một công việc sáng tạo và thành tựu do chính mình tạo tác. Trong sự sáng tạo và tạo tác này, chúng ta đưa một phần cá thể của mình trả lại cho sự sống toàn thể. Nó như một sự cứu chuộc cho cảm giác tội lỗi mà chúng ta đã mang theo từ thuở chia lìa với đấng sinh thành, với đấng tạo tác; đồng thời với điều đó, chúng ta khẳng định và duy trì ý chí của mình theo cách phù hợp với cá tính của mình.
KẾT NỐI: THỰC TẠI NGOÀI TÔI, CÁI-THẬT TRONG TÔI
Trải nghiệm trị liệu đã chỉ ra cho chúng ta thấy: Tất cả các nhu cầu phản ứng và kết nối, xét đến cùng, đều biểu hiện cho những vấn đề phổ quát của con người, cùng với những nỗ lực của họ trong việc giải quyết chúng. Việc phủ nhận xung đột ý chí về mặt đạo đức xã hội dẫn đến sự đánh đồng nó, thu hẹp nó vào xung đột tính dục:
(i) Bởi tính dục là không đủ để bù đắp cho cảm giác tội lỗi dày vò trong nội tâm;
(ii) Cá nhân tìm đến sự cứu chuộc qua tình yêu, bằng cách để ý chí của mình quy phục trước một ý chí khác;
(iii) Dẫu vậy, điều đấy chỉ càng khiến ý thức về tội lỗi của anh ta gia tăng. Bởi nó ngụ ý rằng, rốt cùng anh chỉ đang lợi dụng một kẻ khác hòng xóa bỏ cảm giác về sự khác biệt của mình, rằng hóa ra anh đâu chỉ quy phục trước ý chí của mình tôi, anh quy phục trước ý chí của tất cả tha nhân kia mà;
(iv) Cuối cùng, đằng sau gương mặt của tính dục và tình yêu, hình hài tội lỗi sơ nguyên đã hiện ra.
Và để hoàn toàn hóa giải cảm giác tội lỗi sơ nguyên này, như chúng ta thấy, tính dục lẫn những cảm xúc luyến ái đều bất lực. Liệu pháp Ý chí, trên tinh thần trị liệu kiến tạo, sẽ giúp hóa giải cảm giác tội lỗi này trong con người. Từ sự thấu hiểu bản chất của chứng rối loạn thần kinh, chúng ta đang đi đến những vấn đề rốt ráo tận sâu thẳm trong nội tâm con người, mà rối loạn thần kinh chỉ là điểm nút mà thôi. Nhà trị liệu phải thấy rằng: Xung đột ý chí và tội lỗi trong con người là một vấn đề thuộc về xung đột giữa cá nhân và đạo đức xã hội, nó vượt ra ngoài vấn đề tính dục thông thường. Vậy thì thông qua trải nghiệm trị liệu, nhà trị liệu phải giúp những người vốn đã suy sụp ý chí sống có thể phục hồi khả năng giải quyết xung đột ý chí trong chính anh ta, sao cho nó thống nhất giữa nội tâm và ngoại hiện, sao cho bên trong có thể biểu hiện ra bên ngoài; và về mặt đạo đức xã hội, anh ta có thể biểu lộ cái ý chí cá nhân khác biệt của mình mà không còn cảm thấy tội lỗi dày vò. Còn nếu chỉ tìm sự xoa dịu, giải thoát tạm thời khỏi cảm giác tội lỗi bằng cách để cảm xúc, phẩm hạnh của mình quy phục trước một ý chí khác, thì nội tâm anh ta chỉ luôn tìm cách phản kháng mà thôi.
Sự giải phóng thực sự trong trị liệu được thực hiện trọn vẹn trong trải nghiệm về sự chia lìa. Trải nghiệm này biểu trưng cho toàn bộ vấn đề giữa quá khứ và hiện tại, giữa sự tương đồng và sự khác biệt, nói cách khác, là biểu trưng cho toàn bộ quá trình phát triển nhân cách và cảm giác tội lỗi nảy sinh trong quá trình đấy. Theo đó, mặc dù nó tự khoác lên mình hình dạng và các biểu hiện của giới tính và tính dục, và bệnh nhân cũng cố gắng giải quyết vấn đề theo hướng đó, thì chúng ta cũng phải hiểu và giải quyết theo cách khác, vượt ra khỏi phạm vi của tính dục. Toàn bộ tiến trình trị liệu, cho đến tận giai đoạn chia lìa, chính là những nỗ lực khác nhau của bệnh nhân hòng tạo ra sự hòa hợp “là một” với nhà trị liệu, bằng cách phóng chiếu và đồng nhất hóa50: (i) khi cố uốn nặn ông ấy theo ý chí của riêng mình, cũng như (ii) khi cố gắng điều chỉnh hoặc phục tòng ý chí của ông ấy. Cả hai nỗ lực đều làm tăng thêm cảm giác tội lỗi trong nội tâm bệnh nhân. Và chỉ với trải nghiệm chia lìa trong hoàn cảnh trị liệu, bệnh nhân mới có thể vượt qua được cảm giác tội lỗi này. Bởi khi đấy, những gì anh ta tìm cách phóng chiếu và đồng nhất hóa sẽ được đưa trở về với nội tâm anh ta, đặt lên bản thân anh ta, lên ý chí của anh ta và trách nhiệm của riêng anh ta. Anh ta sẽ không thể bào chữa cho ý chí của mình bằng cách phóng chiếu nó lên người khác, hoặc tìm cách rũ bỏ trách nhiệm bản thân bằng việc đồng nhất hóa với người khác được nữa.
50 Xem Genetische Psychologie, Tập II, phần ”Verliebheit und Projektion” (Tạm dịch: Tình yêu và Phóng chiếu), Sđd.
Tuy nhiên, chính trong trải nghiệm chia lìa cuối cùng này, trị liệu gặp phải khó khăn lớn nhất. Bởi tình huống chia lìa này sẽ trở thành một dạng nguyên mẫu, hội tụ toàn bộ xung đột ý chí nơi bệnh nhân nếu anh ta một lần nữa sử dụng nó như một phương tiện để bào chữa cho cảm giác tội lỗi và phủ nhận ý chí của mình. Ở điểm này, nhà trị liệu không những phải thành thạo tâm lí học, mà còn phải thấu hiểu con người. Khả năng thấu hiểu này phải được nhà trị liệu chuyển hóa thành kĩ năng: (i) để có thể làm chủ tình huống hội tụ đỉnh điểm cái xung đột ý chí - tội lỗi nơi bệnh nhân; (ii) diễn hóa nó tùy theo những dạng thức và biểu hiện mà xung đột này diễn ra; (iii) từ đó lựa chọn một vai trò giới tính phù hợp và tương thích với sự phát triển nhân cách của cá nhân.
Trên hết, như tôi đã nhấn mạnh, bệnh nhân phải đủ chín muồi về mặt tâm lí cho cuộc chia lìa cuối cùng này, cho dù anh ta không thể thú nhận với chính mình hay với nhà trị liệu. Sự miễn cưỡng này thể hiện ra trong xu hướng đòi hòi tình yêu và các biểu hiện của ý chí đối nghịch được thúc đẩy, tất cả đều hòng cố gắng phủ nhận ý chí hướng đến tự do và mong muốn hóa giải cảm giác tội lỗi trong nội tâm. Cái gọi là “dàn dựng hồi kết”, trên bề mặt thì là biểu thị một sự nhượng bộ của nhà trị liệu, một sự bằng lòng ưng thuận trước việc phủ nhận ý chí tự do của bệnh nhân. Song thực chất, nó chắc chắn sẽ làm cho cái ý chí đối nghịch nơi bệnh nhân phải phản ứng, và từ đó, đi đến cuộc chiến cuối cùng buộc bệnh nhân phải chấp nhận ý chí của riêng mình – cái ý chí sẽ xuất hiện dưới vỏ bọc của một áp lực đến từ bên ngoài. Đấy là lúc nhà trị liệu đi đến quyết định dừng cuộc trị liệu của mình.
CUỘC CHIA LI CUỐI CÙNG: NỖI ĐAU LỚN NHẤT, SỰ TÁI SINH MẠNH MẼ NHẤT
Cho dù xung đột ý chí có khoác lên mình những dạng thức và biểu hiện khác nhau, như đã nói ở trên, thì xét từ những động lực đã tạo ra nó, thật ra con người cũng chỉ có duy nhất hai kiểu phản ứng:
(i) Hoặc là chấp nhận ý chí hướng đến tự do của mình, chấp nhận sự phát triển hướng đến độc lập và tự lập của mình, giống như anh ta tuyên bố rằng: “Ít nhất tôi tự mình làm điều đó.”
(ii) Hoặc là từ chối sự chia lìa, lẫn ý nghĩa của nó đối với sự trưởng thành nhân cách. Lúc đầu thì phản ứng với nó bằng những cơn dằn vặt về sự chia li (trong các giấc mơ). Nhưng sự dằn vặt đấy không phải là thôi thúc lặp lại các tình huống ấu thơ như Freud đã nói. Con người chỉ muốn phóng đại một cách tài tình ý nghĩa của sự chia lìa ở ngay thời điểm hiện tại, hòng làm nguôi ngoai cảm giác tội lỗi trong mình. Song thực tế là lại làm giảm đi ý nghĩa của hiện tại và khuếch trương vai trò của quá khứ một cách không đáng có, tất cả chỉ để đảm bảo cho cơ thể được thoải mái và xoa dịu nội tâm mình.
Với kiểu phản ứng đầu tiên, nhà trị liệu phải để cá nhân thực sự tự hoàn thành quá trình chia lìa, ngay cả khi nó chủ yếu biểu hiện ra dưới dạng những phản kháng. Nhà trị liệu có thể khắc phục các phản kháng này, tất nhiên không phải bằng cách cung cấp cho nó những chất liệu để nó tiếp tục bào chữa và biện hộ, hay trốn tránh. Mà phải bằng một cách linh động và tích cực, giúp cá nhân kiến tạo ý chí bằng cách giải quyết xung đột ý chí - tội lỗi trong chính mình.
Trong trường hợp phản ứng thứ hai, nhà trị liệu phải khiến cho sự phủ nhận cảm xúc của bệnh nhân xuất lộ, bởi đấy vốn cũng là một dạng phản kháng tiêu cực. Đồng thời, ông ấy phải chỉ ra đằng sau những chấn thương trong quá khứ chính là trải nghiệm chia lìa ở hiện tại mà bệnh nhân đang từ chối đối mặt, và anh ta phản ứng bằng cách bám chấp vào cảm giác tội lỗi, thay vì tự giải phóng cho bản thân.
Trong cuộc phục hồi những trải nghiệm chia lìa trong quá khứ này, chúng ta phải phân biệt được giữa:
(i) Một bên là sự chia li do cá nhân tự mình thực hiện, chẳng hạn như rời bỏ cha mẹ hay những người có thẩm quyền khác, từ bỏ đối tượng tình yêu; với
(ii) Một bên là sự chia lìa làm cho cá nhân tổn thương, giống như trạng thái bị ruồng bỏ, có thể được biểu trưng bởi sự ra đời, sự cai sữa và những bước phát triển sinh học cần thiết khác.
Tương ứng với mỗi khả năng này – một là bị chia lìa, hai là tự chia tách, thái độ của ý chí cùng với phản ứng tội lỗi phát sinh từ đó cũng khác nhau ở mỗi cá nhân:
(i) Bị chia lìa được nhận thức như là một sự cưỡng bách, do đó nó bị đáp trả bằng ý chí đối nghịch. Ý chí đối nghịch này có thể biểu hiện ra không chỉ là sự phản kháng, chống đối, mà còn dưới dạng mê chấp tình yêu và dưới dạng lòng biết ơn;
(ii) Tự chia tách, như một biểu hiện ý chí, được nhận thức là một sự giải thoát, tháo gỡ cá nhân khỏi cảm giác tội lỗi, và ngay cả như vậy, anh ta vẫn có thể hợp lí hóa nó về mặt đạo đức xã hội. Thường thì trong trường hợp này, cá nhân cố gắng chuyển áp lực chia lìa thành mong muốn giải phóng; đồng thời cũng thúc đẩy ý chí cưỡng bách chia lìa, anh ta viện đến định mệnh rằng: “Tôi không thể không làm thế, mọi chuyện đã định sẵn là như thế rồi.”
Trong cả hai trường hợp này, dù là bị chia lìa hay tự chia lìa, chúng ta cũng đều thấy cái nỗ lực lấy sự phủ nhận hiện thực làm sự khẳng định ý chí của cá nhân. Trong khi, mục tiêu của trải nghiệm trị liệu là biến cái hiện thực về sự chia lìa đấy trở thành không-hiện-thực, tức là, nó chỉ mang ý nghĩa là một biểu trưng tâm lí mà thôi. Về mặt tâm lí học, nhà trị liệu phải thiết lập một chướng ngại cho ý chí của bệnh nhân, và chướng ngại này biểu hiện ra thành ý chí đối nghịch của nhà trị liệu. Tuy nhiên, chướng ngại ý chí này chỉ có thể có tác dụng trị liệu nếu nhà trị liệu hiểu đúng các phản ứng của bệnh nhân và sử dụng chúng hiệu quả trong quá trình kiến tạo nhân cách. Bởi ở đây, bệnh nhân không chỉ biến trải nghiệm chia lìa và tình huống mà sự chia lìa này diễn ra thành hiện thực, anh ta còn nỗ lực biến chính mình trở thành một hiện thực với tư cách một thực thể riêng rẽ, khác biệt và độc lập. Có điều, mọi nỗ lực hòng biến tất cả thành hiện thực, chẳng hạn như khi bệnh nhân cố biểu hiện sự chia lìa thông qua việc thay đổi cảnh huống của chính mình, hoặc thông qua việc hiện thực hóa hoàn cảnh trị liệu, chỉ dẫn anh ta đến việc rời xa chính mình với tư cách một con người có thực, cũng tương tự như khi anh ta cố trút bỏ gánh nặng và cố bào chữa cho mình thông qua một trợ lí bản ngã không-thực. Chỉ khi nào anh ta cắt đứt mọi khả năng này thì cái tôi của anh ta mới có thể trở thành hiện thực, tức là, anh ta mới có thể nhìn nhận và chấp nhận chính mình như một cá thể độc lập với những cá thể khác.
Trong trải nghiệm chia lìa ngoài đời thực, cá nhân có phản ứng sợ hãi đối với việc hiện thực hóa cái tôi của chính mình. Đây không phải là phản ứng sinh học bản nguyên theo kiểu nỗi sợ chết. Trái lại, đấy là nỗi sợ sống, nói đúng hơn, là nỗi sợ của việc biến cái tôi thành một tính cách cá nhân độc lập. Do đó, nỗi sợ mà cá nhân từng trải qua khi chào đời đã và vẫn là nỗi sợ có thực duy nhất cho đến lúc này: Nỗi sợ sống và sợ trải nghiệm. Mọi nỗi sợ khác, dù là nỗi sợ chết hay nỗi sợ thiến hoạn, đều không phải là nỗi sợ mang tính sinh học bản nguyên, mà đấy là phần ý thức của con người với tất cả những khả năng giải thích và diễn giải của nó về cái tôi của mình. Nằm ở gốc rễ của sự chia lìa, và phản ứng sợ hãi đi kèm với nó, chính là vấn đề của ý thức, và xét đến cùng, chính là về cá nhân hóa của con người. Trong trải nghiệm chia lìa tinh thần, được thể hiện trong quá trình một con người phát triển cá tính bằng cách từ bỏ những phần quá khứ đang sống trong mình, chúng ta phải nhận ra biểu hiện của tính cá nhân trong cái nguyên lí phát triển sinh học của con người nói chung.
Với con người, toàn bộ sự cá nhân hóa này phụ thuộc vào tha nhân về mặt tinh thần, chẳng hạn những người mà tâm lí chúng ta coi trọng như cha mẹ, con cái, bạn bè thân quý. Đối với cá nhân mà nói, một vài trong số những người này sau đó sẽ trở thành đại diện cho sức mạnh vĩ đại của tự nhiên, thứ sẽ ràng buộc cái tôi cá nhân cả về mặt thể xác lẫn xúc cảm, và rồi làm nên bản chất lẫn số phận của anh ta.
Mỗi cá nhân đều có sự ràng buộc về mặt sinh học, xã hội và phẩm hạnh đạo đức, theo đó chúng ta cũng bị giới hạn lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau về mặt tinh thần, cảm xúc và sự lĩnh hội. Phải nói rằng là, những mối ràng buộc này càng nhiều và càng chặt chẽ, thì dưới góc độ chủ nghĩa cá nhân mà nói, sự phát triển của cái tôi càng diễn ra một cách cá nhân hơn, nghĩa là càng độc lập hơn. Nói cách khác, những mối ràng buộc về mặt cảm xúc vốn rất khó để nới lỏng, và chúng chỉ có thể nới lỏng trong trải nghiệm chia lìa, đồng thời cũng chính là biểu hiện cho việc giải trừ mặc cảm tội lỗi với giống loài, xã hội, và với cái tôi của chính mình.
Trong trải nghiệm chia lìa: Cá nhân phản ứng bằng cách vừa tăng cường mối ràng buộc về mặt cảm xúc với người mà giờ đây đang đại diện cho tất cả các mối ràng buộc khác; đồng thời bằng một ý chí hướng đến tự do, chống lại bất cứ lực cưỡng ép nào khiến anh ta phải phụ thuộc vào người khác. Có điều ý chí tự do này chỉ có thể được thừa nhận một cách rụt rè và dần dần từng chút, bởi một đằng nó bị phủ nhận do mối ràng buộc cảm xúc, một đằng bị nỗi sợ hãi ức chế và ngăn cản. Trong khi việc thể hiện ý chí độc lập và tự chủ bị ràng buộc bởi cảm giác tội lỗi, và do đó bị phủ nhận, thì nỗi sợ hãi lại đóng vai trò như một động lực thúc đẩy xu hướng phủ nhận này bằng cách làm thắt chặt mối ràng buộc cảm xúc để sự chia lìa không thể xảy ra.
Vì vậy, không thể giải thích nỗi sợ hãi theo hướng dục năng, theo kiểu mất đi mê đắm tình yêu, hay mất đi tình mẫu tử. Mê đắm tình yêu đấy, bản thân nó phải được hiểu như là một phản ứng đối với cảm giác tội lỗi nảy sinh khi cá nhân ý thức được ý chí muốn chia lìa của mình. Tức là, không phải bởi chia lìa nên sợ hãi. Mà cảm thấy sợ hãi, cảm thấy tội lỗi bởi ý chí chia lìa. Ý chí chia lìa này, cũng giống như ý chí hợp nhất, xét về mặt sinh học lẫn nhân học mà nói, thực tế chính là một nguyên lí của đời sống con người. Song do cảm giác tội lỗi đi liền với ý chí chia lìa, nên nó hiếm khi biểu hiện ra và ít cởi mở hơn nhiều so với ý chí hợp nhất – vốn không mang theo cảm giác tội lỗi. Ở đây chứa đựng toàn bộ vấn đề của chứng rối loạn thần kinh và là nền tảng căn bản của mọi kĩ thuật trị liệu.
Ở người bị rối loạn thần kinh, bởi sự phát triển tính cá nhân mạnh mẽ, cùng căn nguyên là sự phủ nhận ý chí cá nhân, những nỗ lực chia lìa thường dẫn đến sự hủy hoại tiêu cực. Và tương tự như vậy, xu hướng tập hợp các chứng phì đại51 chỉ là một sự bù đắp cho cảm giác tội lỗi. Phân tâm học, vốn không thừa nhận ý chí, đã coi cảm giác tội lỗi như là một sự phản ứng đối với khuynh hướng hợp nhất này, và cho rằng nó biểu hiện chủ yếu trong khía cạnh tính dục. Freud, do đó, luôn giải thích tội lỗi như là một phản ứng đối với ý chí tính dục. Trong khi thực ra, đấy là một phản ứng với ý chí cá nhân, nghĩa là ý chí đối nghịch sẽ được bào chữa và cảm giác tội lỗi sẽ được giải tỏa bởi sự hợp nhất về thể xác lẫn tinh thần trong tình yêu. Adler không đi vào đường lối tính dục, thì lại diễn giải ý chí như là một sự tranh đấu hòng đạt được quyền lực xã hội. Và tương ứng với khía cạnh xã hội này, mặc cảm tội lỗi đấy chỉ tìm thấy sự cứu rỗi trong cảm giác xã hội, thay vì trong cảm giác tính dục như Freud diễn giải. Jung có lẽ là người nhìn nhận cảm giác tội lỗi này sâu sắc hơn cả, theo nghĩa rộng lớn và phổ quát hơn. Ông ấy thấy sự cứu rỗi dưới dạng vô thức tập thể – cái mang tính cá nhân, cũng đồng thời bao chứa điều lớn lao hơn cá nhân. Tuy nhiên, không ai trong số họ công nhận ý chí cá nhân đúng như nó vốn là, cùng với cái cảm giác tội lỗi đi liền theo nó. Còn tất nhiên, dù là mặt sinh học, mặt xã hội hay tầm mức vũ trụ, thì cũng chỉ là những lối diễn giải khác nhau theo nghĩa này hay nghĩa kia mà thôi.
51 Hypertrophy hay chứng phì đại: Cơ quan trong cơ thể nở to do kích thước tế bào tăng lên.
Từ ý chí cá nhân, con người tất yếu phải có ý chí tự do và ý chí chia lìa. Đây là điều mà nhà trị liệu không thể phủ nhận từ góc độ chứng rối loạn thần kinh thông qua cảm xúc tình yêu – như lí thuyết của Freud, cũng không thể lên án nó về mặt xã hội như lí thuyết sư phạm của Adler, hay bào chữa cho nó từ vô thức tập thể và giá trị phẩm hạnh như học thuyết có thiên hướng tôn giáo của Jung. Như tôi đã nói: Ý chí chia lìa chính là một nguyên lí cuộc sống, cũng giống như ý chí hợp nhất. Nhưng do ý chí chia lìa gắn liền với cảm giác tội lỗi nên nó bị phủ nhận. Trong khi, ý chí hợp nhất được khẳng định nhờ vào sức mạnh và sự trọn vẹn của nó trong đời sống tình yêu và tình dục của chúng ta.
Nếu nhìn từ góc độ sinh học đơn thuần, sự chia lìa thậm chí còn là một nguyên lí bản nguyên hơn, đấy có lẽ cũng là nguyên lí sống mạnh mẽ hơn. Bởi chúng ta có thể tăng trưởng và sinh sôi không phải chỉ bằng sự kết hợp đơn thuần, mà còn bằng sự chia tách, giống như những loài động vật không sống theo bầy đàn cũng không theo gia đình, hay những con vật cho dù đi theo bầy đàn nhưng vẫn thường xuyên trong tình trạng cô lập. Tôi cho rằng, ý chí hợp nhất trong con người, bất kể nó biểu hiện ra trong cảm giác xã hội và quốc gia dân tộc nói chung, hay biểu hiện rất cá nhân trong các mối liên hệ cá nhân như gia đình, bạn bè, tình yêu, thì chỉ là một kiểu cảm giác tội lỗi hòng bù đắp cho ý chí chìa lìa – và phản ứng tội lỗi này đã tìm ra cách biểu hiện mạnh mẽ và sắc nét nhất trong ý thức về ý chí cá nhân.
Bây giờ, trải nghiệm trị liệu cần tập trung thấu hiểu và sử dụng hiệu quả nhân tố ý chí chia lìa này. Vì bản thân bệnh nhân cũng cố gắng phủ nhận ý chí chia lìa của mình bằng cách triệu tập tất cả các khuynh hướng phủ nhận, bất kể dưới hình hài tình yêu hay cảm giác tội lỗi, hoặc là cả hai. Trong khi thấu hiểu khía cạnh tâm lí của ý chí chia lìa và tận dụng nó về mặt cảm xúc, liệu pháp kiến tạo ý chí đạt tới điểm mấu chốt của nó. Ở điểm này, vấn đề tội lỗi và ý chí hiển lộ ra dưới hình hài nguyên thủy của nó. Ý chí hợp nhất được đẩy lên ở đây cũng như bất kì cảnh huống nào của cuộc sống, không chỉ bởi vì sự kết hợp giúp con người ta chuộc lại và xóa bỏ cảm giác tội lỗi, mà còn bởi cảm giác tự quyết, sự kết nối mang lại cho người ta sự khoái lạc và niềm vui thích. Trong khi sự chia lìa, với một cá nhân mà nói, được xem như là sự miễn cưỡng chia tách về mặt sinh học, luôn khiến người ta cảm thấy bị cưỡng bách, ngay cả khi tự cá nhân mang ý chí chia lìa đấy.
Trải nghiệm trị liệu phải giúp cho bệnh nhân lần đầu tiên có thể nhìn nhận sự chia lìa là cần thiết, và đấy là điều do anh ta tự xác quyết. Việc anh ta dám làm nó giống như một chiến thắng của ý chí cá nhân – cái chiến thắng mà thường chỉ một cá nhân sáng tạo mới có thể đạt được. Và rồi bệnh nhân sẽ không phản ứng với xu hướng hợp nhất của tình yêu và cảm giác tội lỗi, cũng không phủ nhận nỗi đau đớn của sự chia lìa – điều mà trong thực tế anh ta không hề nhận ra nên dễ dàng đổ lỗi cho người khác. Nếu không thì anh ta sẽ phản ứng như là anh không thể bỏ mặc nhà trị liệu, vì làm thế thì ông ấy sẽ rất đau khổ. Có thể một chút cảm giác tội lỗi vẫn còn rơi rớt lại, bệnh nhân vẫn sẽ nói: “Tôi không thể rời đi bởi như thế sẽ làm tổn thương người kia.” Song anh ta cũng có thể nói: “Tôi sẽ ra đi, bất kể có làm tổn thương người khác hay không, miễn là nó không làm tổn thương tôi.”
Sự giải phóng mang tính kiến tạo này đưa chúng ta quay trở về với vấn đề thực tại. Trong trải nghiệm trị liệu, ý chí chia lìa sẽ đưa cuộc trị liệu nhanh chóng đi đến hồi kết một cách khá tự nhiên, nếu ngay từ lúc đầu nhà trị liệu nhìn nhận nó như là một vấn đề ý chí mang tính đạo đức xã hội, chứ không là một vấn đề phẩm hạnh như kiểu cảm giác tội lỗi tính dục:
(i) Ban đầu, bệnh nhân tiến vào một hoàn cảnh trị liệu không-có-thực nhằm tránh né một thực tại đầy đau đớn. Nguồn cơn của nó nằm ở cuộc sống nội tâm đầy xung đột của anh ta. Và trong hoàn cảnh trị liệu, anh ta coi trải nghiệm chia lìa này là quá thực. Nó thực không phải theo kiểu chuyển dịch tình yêu (vốn rất không thật rồi), mà thực về mặt cảm xúc: Bởi anh ta ý thức được cái bản ngã biệt lập của mình, chính bản ngã này xác quyết và muốn chia lìa khỏi cá thể khác.
(ii) Từ việc hiện thực hóa cái bản ngã này, biến cái cá tính của mình thành thật, anh vui vẻ quay trở về thực tại cuộc sống, nơi không những mang lại và cho phép anh ta phóng chiếu, bào chữa, phủ nhận, hợp lí hóa, đồng nhất hóa với cái ảo tưởng rằng nó ít khắc nghiệt và đau khổ hơn so với quá trình trị liệu; mà còn đòi hỏi những điều đấy từ anh ta, như thế anh ta mới sống được. Tất nhiên, ở đây chúng ta cũng phải hiểu rằng, đấy không phải là sự phản kháng với tính dục, ngay cả khi nó được diễn giải thành tâm lí thơ ấu (như phức cảm thiến hoạn và phức cảm Oedipus); đấy cũng không phải kiểu tình yêu mang tính chuyển dịch. Chỉ đơn giản là bệnh nhân muốn rời bỏ trải nghiệm trị liệu. Trước việc sẽ phải tự chịu trách nhiệm như một cá nhân có ý chí, có trách nhiệm, anh ấy liền trốn tránh nhiều hơn, xa hơn khỏi sự thật trong nội tâm mình. Anh ta lại muốn an dật trong những tư tưởng và ảo tưởng ở thực tại làm anh thấy thoải mái.
Nhưng nhà trị liệu không được để cho bước quay trở lại cuộc sống này của anh ta thành ra một cuộc trốn chạy, rời xa khỏi chính mình, hay thành ra sự kiếm tìm ở nó một cách phản kháng với tình huống trị liệu. Bởi bệnh nhân không chỉ phải tin vào trải nghiệm trị liệu, bất kể tư tưởng và diễn giải của phương pháp trị liệu là gì, anh ta còn phải có niềm tin nói chung. Và trên hết, anh ta phải tin vào chính mình với tư cách là một cá nhân tự chủ, khác biệt và phân biệt với những người khác. Trong quá trình chia lìa này, anh ta phải đối mặt với cảm giác tội lỗi mà anh ta không thể phủ nhận, cũng không thể bù đắp bằng bất cứ phương cách nào. Anh ta chỉ có thể chịu trách nhiệm và cứu chuộc tốt nhất khi đương đầu với đời sống thực tế.