Một con người ít là chính mình nhất khi anh ta nói với tư cách là chính mình. Hãy đưa cho anh ta một chiếc mặt nạ, anh ta sẽ nói sự thật
- Oscar Wilde -
Chúng ta đã cùng nhìn nhận lại về cái gọi trị liệu thực sự, bây giờ bạn sẽ được đi vào các cách thức và phương tiện cụ thể cho phép biến Tâm lí học Ý chí thành một kĩ năng trị liệu kiến tạo. Hãy nhắc lại một điều căn bản, và bạn phải luôn ghi nhớ điều này trong quá trình trị liệu: Người tìm kiếm sự trợ giúp chịu đựng chỉ bởi tạm thời hoặc có vẻ rõ ràng là ý chí anh ta đang trong tình trạng bạc nhược. Nhưng trên thực tế, anh ta có một ý chí cường hoành mạnh mẽ, song anh ta phải liên tục phải chối bỏ, phủ nhận, tìm cách hợp lí hóa, phóng chiếu, và thậm chí đôi khi đập tan nó, như trường hợp của chứng loạn thần kinh. Phương tiện chữa lành mà chúng ta đã nói đến chính là nhà trị liệu. Ông ấy phải vào vai ý chí đối nghịch mà nhờ đó cái ý chí tích cực của bệnh nhân được củng cố. Và trong mối quan hệ với ý chí đối nghịch này, ý chí của anh ta sẽ được một lần nữa tái thiết. Làm thế nào chuyện này có thể xảy ra? Chúng ta thực hiện nó như thế nào trong khi có đầy những khó khăn trở ngại như thế? Hay nó có thực sự có tác dụng trị liệu hay không? Tất cả những vướng mắc này, sau đây chúng ta sẽ trả lời.
THẤU HIỂU VÀ TỰ THẤU HIỂU
Với tư cách một liệu pháp trị liệu vẫn đang loay hoay tìm cách làm thế nào để trị liệu, phân tâm học đã trả lời rằng: Liệu pháp tâm lí về cơ bản là một “liệu pháp tình yêu”, tức là nó hoạt động trên cơ sở mối quan hệ chuyển dịch, nó làm hồi sinh mối quan hệ con cái với cha mẹ. Mối quan hệ với cha mẹ được hình thành dựa trên tình yêu và sợ hãi. Vì vậy cuộc trị liệu phân tâm sẽ là một phiên bản “nuôi dạy con” cải tiến, như chính Freud đã gọi nó là tái giáo dục hay giáo dục lại, nhưng với nhiều tình yêu thương hơn và ít sợ hãi hơn. Rồi chúng ta sẽ cùng xem phương pháp này có hiệu quả trị liệu đến đâu. Song cho đến lúc này, có thể nói phân tâm học của Freud hoạt động đơn thuần theo hướng giáo dục, và theo tôi, khía cạnh giáo dục đấy là tác nhân trị liệu duy nhất mà nó mang lại. Nhưng cũng chính vì thế, cuối cùng phân tâm học đã thất bại trong vai trò một liệu pháp mang tính kiến tạo đích thật dành cho cá nhân:
(i) Như một liệu pháp yêu thương, nó không thành công, trước tiên bởi phần lớn bệnh nhân đã cố gắng tìm giải pháp tương tự như thế trong cuộc sống đời thường và rồi cuối cùng là kết thúc trong đau khổ. Do đó họ mới tìm đến sự giúp đỡ của nhà trị liệu;
(ii) Thứ hai, giáo dục dựa trên tình thương, như ai cũng biết, là “làm hư” cá nhân và khiến anh ta thậm chí còn phụ thuộc nhiều hơn trước. Đây chính là sự mê đắm tính dục (libido fixation27) nổi tiếng trong phương pháp chuyển dịch, đấy đâu phải là “tình yêu thuần khiết”, đấy chỉ là một hiện tượng phản kháng thôi. Như vậy, nó không khác gì sự khẳng định ý chí trá hình của bệnh nhân, rằng: Tôi muốn có được điều đã phủ nhận chỉ đơn giản vì nó bị phủ nhận. Mặt khác, nếu nhà trị liệu áp dụng biện pháp nỗi sợ mang tính giáo dục để làm mất đi sự mê đắm tính dục này, thì ông ta sẽ nhận được phản ứng của ý chí đối nghịch (sự phản kháng) từ bệnh nhân, thay vì khẳng định ý chí tích cực nơi họ, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu trị liệu.
Rõ ràng một liệu pháp tâm lí mang tính kiến tạo dành cho người lớn không thể là giáo dục, cũng không phải là giáo dục lại bằng tình yêu thương hay nỗi sợ hãi. Đấy phải là một cách gì đó khác phù hợp với người đã trưởng thành, bởi đấy là những người không thể “nuôi dậy” được nữa. Họ chỉ cần được thấu hiểu, nghĩa là được chấp nhận như chính-mình-là.
Ở đây, chúng ta thấy một nghịch lí: Phân tâm học Freud, trên cơ sở thái độ người cha của mình, chỉ thấy bệnh nhân như là một đứa trẻ với tính tình như con nít, cần dạy dỗ giáo dục. Tuy nhiên, để áp dụng liệu pháp dựa trên thái độ này cho chính những đứa trẻ thì cũng không thể đem lại hiệu quả. Về phía Adler, bằng một cách có ý thức và có hệ thống, ông đã áp dụng những tiềm năng giáo dục chưa được phát triển của phân tâm học cho những đứa trẻ. Sai lầm của Adler nằm ở chỗ, sau đấy ông ấy cũng muốn áp dụng liệu pháp sư phạm đấy cho cả người lớn. Cả hai ông ấy đều làm chuyện khập khiễng cả: một bên chữa trị cho người lớn bằng liệu pháp theo kiểu trẻ thơ (nhưng lại không dùng được cho trẻ thơ); một bên mang liệu pháp dành cho trẻ thơ để áp dụng cả cho người lớn.
27 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.
Chúng ta cần phải nhắc lại, và bạn cũng cần ghi nhớ: Người lớn không thể được nuôi dạy hay giáo dục lại nữa, họ cần được thấu hiểu, nghĩa là được chấp nhận. Tuy nhiên, có điểm khác biệt căn bản, bạn rất cần lưu ý đấy là:
(i) Trong liệu pháp tình yêu của phân tâm học, cái mong muốn được thấu hiểu, cũng tương tự như mong muốn được yêu thương thuở bé thơ, là điều đã tạo nên hoàn cảnh trị liệu kiểu “ấu thơ”. Sự thấu hiểu trọn vẹn của nhà phân tâm cũng giống như một sự tha thứ của cha mẹ đối với một người.
(ii) Ngược lại, sự thấu hiểu mang tính kiến tạo, nói theo kiểu của Ibsen28, là một sự “tự buộc tội” (self-accusation), một “tòa án” đối với bản ngã của chính mình.
Việc một người thấu hiểu một người khác là dựa trên sự đồng nhất về tình yêu. Do đó trong sự thấu hiểu của nhà phân tâm, chúng ta bắt gặp hiện tượng đồng nhất hóa, nó giống như một bằng chứng của tình yêu mà bệnh nhân tìm kiếm ở người khác. Kết quả là, bệnh nhân chỉ có thể đạt đến sự thấu hiểu bản thân (vốn là mục tiêu trị liệu thực sự) thông qua đồng nhất hóa với người thấu hiểu anh ta, mà ở đây trong hoàn cảnh trị liệu thì chính là nhà phân tâm.
Song về bản chất, đồng nhất hóa chẳng khác nào sự tuân theo, sự tòng phục ý chí của một người khác, cũng giống như cơ chế trong tình yêu. Và bệnh nhân, ngay sau khi tòng phục liền nhận thấy cái ý chí yếu đuối, bạc nhược, lệ thuộc này của mình, anh ta lập tức phủ nhận: “Tôi sẽ không yếu đuối như vậy đâu!” Thế nên khi bệnh nhân đồng nhất hóa với sự thấu hiểu của nhà phân tâm, tự trong anh ta xuất sinh sự phản kháng với chính mình. Và rồi, biểu hiện ra bên ngoài là anh ta không chấp nhận liệu pháp phân tâm với tư cách một phương pháp “giáo dục lại” trên tinh thần phức cảm cha mẹ dựa trên đồng nhất hóa nữa.
28 Henrik J. Ibsen (1828 - 1906): Nhà văn, nhà soạn kịch vĩ đại người Na Uy, được xem là cha đẻ của kịch hiện thực và chủ nghĩa hiện đại trong kịch (ND).
Chúng ta đang đi vào vấn đề cốt lõi nhất của toàn bộ chương này, đấy là: Sự thấu hiểu. Như tôi đã nói, trong liệu pháp tình yêu của phân tâm học, thấu hiểu này có nghĩa là “được thấu hiểu”, bệnh nhân thông qua đồng nhất hóa để cảm thấy mình được thấu hiểu. Để rồi sự đồng nhất hóa đấy sau đó, hoặc rốt cùng, làm cho bệnh nhân theo một cách nào đó phụ thuộc vào nhà phân tâm; hoặc anh ta phủ nhận ý chí yếu đuối của mình, theo đó, từ chối chấp nhận sự đồng nhất hóa hoặc sự thấu hiểu.
Trong khi đấy, một liệu pháp mang tính tích cực và kiến tạo phải đưa bệnh nhân đến chỗ thực sự tự thấu hiểu chính mình mà không cần phải trải qua quá trình dạy dỗ, giáo dục với nhà trị liệu. Vì một nhà trị liệu tuyệt vời dù không thể giải thích cho bệnh nhân về “sự thấu hiểu”, nhưng bằng kĩ năng bậc thầy vẫn có thể hướng dẫn bệnh nhân tự hiểu chính mình. Nói như vậy, song còn rất xa nữa thì tự thấu hiểu chính mình mới trở thành một quá trình lí trí thuần túy, dù cho nó khởi phát trong trạng thái nhận thức tỉnh táo và trên cơ sở bày tỏ bằng lời nói sáng rõ của người được trợ giúp.
Ban đầu tôi định đặt tên chương này là “Thấu hiểu và Hiểu lầm”, nhưng sau đó tôi chọn khái niệm rộng hơn là “Phủ nhận”. Sự phủ nhận này không chỉ đối lập với thấu hiểu, nó còn chính là nguyên nhân thực sự của sự hiểu lầm, đặc biệt là hiểu lầm về bản thân, bởi hiểu lầm mà người ta phải tìm cách hợp lí hóa: hợp lí hóa những hiểu lầm về mình, và hợp lí hóa chính mình. Sự phủ nhận này khởi lên trong đời sống cảm xúc, đấy là một hình thức khẳng định ý chí một cách tiêu cực, dẫn đến nhu cầu con người diễn giải lại các hiện tượng tinh thần của chính mình. Và chừng nào sự phủ nhận cảm xúc không được xóa bỏ, hoặc ít nhất các cảm xúc phải được thừa nhận như là chính nó, thì xét cho cùng mọi diễn giải đều chỉ là sự “hiểu lầm” mà thôi. Ngoài ra, mọi diễn giải từ phía nhà trị liệu sẽ là vô nghĩa nếu nó không dẫn bệnh nhân đến sự thấu hiểu về chính cơ chế phủ nhận nơi họ, cũng như mối liên hệ của nó với việc ý chí đầu hàng trước cảm xúc.
LÀM CHO Ý THỨC VÀ TRỞ NÊN Ý THỨC
Tương ứng với mong muốn được thấu hiểu và sự tự thấu hiểu, chúng ta có hai quá trình: (i) “làm cho có ý thức”, đấy thực ra là một hành động diễn giải, hay giải thích từ bên ngoài; và (ii) “trở nên có ý thức”, là một quá trình hoàn tất trong tự bản thân mỗi người bằng cách tự nói ra bằng lời của chính họ. Việc bày tỏ bằng lời, bản thân nó không phải là giải thích hay diễn giải, mà đấy là tác nhân trị liệu cụ thể dành cho phần Ý thức, cũng giống như việc loại bỏ sự phủ nhận là tác nhân trị liệu đối với phần Ý chí.
Cả hai tác nhân trị liệu này đều manh nha xuất hiện trong liệu pháp sơ khởi do Breuer29 đề xuất: Bằng liệu pháp thanh tẩy (catharsis30), ít nhất là giúp cho bệnh nhân tạm thời giải phóng cảm xúc; còn trong thôi miên, giúp cho bệnh nhân trở nên có ý thức. Ở đấy không có diễn giải nào cả, vì may mắn thay, nhà trị liệu khi ấy không có sẵn trong tay bất kì lí thuyết nào để tùy ý sử dụng cả, và vì vậy ông phải để bệnh nhân tự lực. Với bệnh nhân mà nói, chính vào lúc đó, anh ta bắt đầu một quá trình thực sự trở-nên-có-ý-thức, thực sự trở nên tỉnh táo. Bởi thông qua nỗ lực của bản thân, anh ta đã tạo ra những kết nối nhất định trong đời sống tinh thần của mình, đấy là những kết nối mà chính anh ta đã phá hủy trước đó. Nhà trị liệu chỉ giúp bệnh nhân ráp nối từng mảnh vỡ đó, giúp anh ta thấy được một bức tranh tinh thần hoàn chỉnh có nghĩa.
Cả hai phần đáng giá của kĩ thuật trị liệu ban đầu này được bệnh nhân của Breuer gọi là “chữa trị bằng trò chuyện”. Đấy là kĩ thuật vẫn còn được dùng trong trị liệu phân tâm cho đến nay: một mặt, nó dùng trong trải nghiệm chuyển dịch, vốn là điều không thể tránh khỏi; mặt khác, trong các quá trình tái nhập ý thức đi kèm, đặc biệt là trong việc giãi bày thành lời. Tất nhiên cái gọi là giãi bày bằng lời này không giống như trong biện pháp liên tưởng tự do – vì nói là “tự do” nhưng không hề tự do, mà nó chịu ảnh hưởng của tình huống phân tâm. Nhân tố trị liệu chính nằm ở việc giãi bày thành lời những cảm xúc một cách có ý thức. Còn trong phân tâm học, cái gọi là “làm cho phần Ý thức nhận thức được về cái vô thức” hoặc chỉ là cách thay thế một sự hợp lí hóa này bằng một sự hợp lí hóa khác; hoặc nó sẽ thoái hóa trở thành một cuộc đấu ý chí tay đôi giữa bệnh nhân và nhà phân tâm.
29 Josef Breuer (1842 - 1925): Bác sĩ người Áo, có công khám phá nhiều vấn đề trong sinh lí học thần kinh. Ông đã góp phần vào phương pháp trò chuyện trị liệu và đặt nền tảng cho phân tâm học như sau đó Sigmund Freud đã phát triển thành một lí thuyết có hệ thống (ND).
30 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.
Việc bày tỏ bằng lời nói rất quan trọng: (i) Trước hết bởi nó thể hiện một sự tự điều hướng (self-guidance) của cá nhân, đấy là một hành động của ý chí, trong đó hai trụ cột cơ bản trong đời sống tinh thần của chúng ta là Ý chí và Ý thức hợp lại với nhau. (ii) Bày tỏ bằng lời xuất phát từ sự tự nguyện. Nó khác với xưng tội: xưng tội vốn có nghĩa là quy phục hay biện hộ trước người khác. Nó cũng khác với việc “tỏ ra có ý thức” thông qua một sự cưỡng ép, bắt buộc từ bên ngoài. Nó là một kiểu thú nhận với chính bản thân, là sự chinh phục cái ý chí của chính mình dưới sự thôi thúc của cảm xúc, và do đó ít có nguy cơ dẫn đến hiểu lầm về bản thân. Còn trong cách diễn giải thuộc về trí năng, luôn tiềm chứa nguy cơ hiểu lầm về chính mình, bởi nó dựa trên sự phủ nhận cảm xúc của bản thân, bất kể nó biểu hiện ra như là sự hợp lí hóa hay là sự diễn giải.
Nói về nguyên tắc của nó thì đơn giản như thế. Song cho đến nay người ta vẫn chưa thực sự hiểu rõ việc “bày tỏ thành lời những cảm xúc được ý thức của chính mình”, ngay cả trong liệu pháp phân tâm. Tôi nhấn mạnh phương pháp này bởi chỉ trong điều kiện của Liệu pháp Ý chí kiến tạo, nó mới có thể được đánh giá đúng mức và phát huy giá trị lẫn hiệu quả trị liệu của nó.
Một lần nữa, tôi nhấn mạnh vai trò của cái ý chí có- ý-thức trong việc thấu hiểu tâm lí và tâm lí trị liệu. Như bạn đã thấy vai trò của ý chí và cách nó chi phối toàn bộ tình huống trị liệu và quá trình trị liệu. Ý thức cũng vậy: Nếu nhà trị liệu đừng vội trao cho bệnh nhân một cái cớ thuận tiện để anh ta dễ dàng chối bỏ trách nhiệm của bản thân, thì thật đáng ngạc nhiên là bệnh nhân biết khá nhiều, và thật ra những gì thuộc về vô thức mà anh ta không biết cũng ít thôi, không đến mức như phân tâm học làm quá lên. Chính Freud, thông qua những trải nghiệm đầu tiên với bệnh nhân được Bernheim31 thôi miên, đã thấy rằng nếu thúc ép bệnh nhân một chút, anh ta sẽ bộc lộ rằng mình thực sự biết mọi thứ, dù anh ta giả vờ như không biết. Đến nay thì có thể nói rằng thậm chí hầu hết bệnh nhân đã có ít nhiều tri thức phân tâm thông thường, nên không thể nói là anh ta không biết gì, hiểu gì về mình. Hơn nữa, trong khi phân tích các giấc mơ phức tạp hay các hành vi biểu hiện triệu chứng, nhà phân tâm thấy rằng tất cả các liên tưởng tự do và diễn giải cuối cùng đều dẫn đến một kết quả mà dầu thế nào đi chăng nữa bệnh nhân cũng ý thức được kết quả này.
31 Hippolite Bernheim (1840- 1919): Một bác sĩ và chuyên gia thần kinh học người Pháp. Ông chủ yếu được biết đến với lí thuyết thôi miên.
Có lẽ về mặt trị liệu, có lúc việc đi đường vòng như thế này là điều cần thiết đối với bệnh nhân. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Với lối diễn giải của tình huống phân tâm thì bệnh nhân phải đi đường vòng xa đến mức nào? Ở đây chúng ta phải hiểu rằng, trong bất cứ trường hợp nào, bệnh nhân hẳn đã ý thức được đôi điều trước khi bước vào cuộc trị liệu. Thế nên vấn đề không phải là làm cho anh ta trở nên ý thức về cái phần vô thức của mình như thế nào. Vấn đề chính là: Giúp cho anh ta sẵn sàng bày tỏ những gì anh ta ý-thức-được ra thành lời. Chính anh ta chứ không phải ai khác cần tự nói ra điều đấy. Như chính Freud có lúc đã nhận ra, và ông đã từng nói đùa rằng: Thực ra vào một lúc nào đó ý thức luôn bị gạt sang một bên, để rồi sau đó nó được đưa ra ánh sáng một lần nữa bằng một con đường vòng vèo có xu hướng bóp méo nó. Vì sau con đường đấy thì chắc chắn cái được ý thức không còn là cái nội dung thuần túy tâm lí trước đó nữa. Nó đã sai lệch đi so với cái-thật nội tâm của người ta rồi. Vậy thì tại sao trong trị liệu, cả nhà phân tâm lẫn bệnh nhân lại cứ thích đi con đường vòng vèo này? Một lần nữa chúng ta hãy quay trở lại với vấn đề chính, đấy là sự phủ nhận cảm xúc.
SỰ PHỦ NHẬN CẢM XÚC: TIẾNG NÓI CỦA Ý CHÍ ĐỐI NGHỊCH
Chúng ta đã cùng nhau nói về sự phủ nhận ý chí hay phủ nhận hành động có-ý chí ít nhiều nơi mỗi người. Ở đây hãy đi đến cái gọi là phủ nhận sự-biết. Nó không hoàn toàn tương ứng với cái gọi là “dồn nén” trong phân tâm học của Freud. Phủ nhận ý chí hay hành động có-ý chí, như chúng ta đã thấy, có nghĩa là: “Tôi không-muốn gì cả, tôi không có ý chí của riêng mình.” Còn phủ nhận sự- biết có nghĩa là: “Tôi không-biết gì cả, tôi vô tội.” Trong cả hai trường hợp, cái ý chí có-ý-thức của bệnh nhân đều có xu hướng trút bỏ và bào chữa: một đằng là trút bỏ cái gánh nặng thuộc về ý chí, còn đằng kia là bào chữa cho cái ý thức của mình.
Có một thực tế chúng tôi thường xuyên nhận thấy trong trải nghiệm phân tâm là: Trong khi bệnh nhân cảm nhận và hiểu được những kết nối phức tạp một cách tương đối dễ dàng, trong khi nhà trị liệu lại cho rằng bệnh nhân hẳn sẽ gặp khó khăn. Điều này thực sự có nghĩa là: Bệnh nhân dù thế nào cũng biết. Anh ta chỉ chờ đợi một sự xác nhận của nhà trị liệu mà thôi (ngay cả khi bản thân anh ta không nói rõ ra như vậy), để bản thân anh ta có thể thú nhận những gì mình biết; cũng như có lúc anh ta cần sự ủng hộ của chúng ta hòng bày tỏ cái ý chí của mình. Trên thực tế, trong các cuộc phân tâm cũng thế, nói chung là bệnh nhân hầu như đều không trải nghiệm điều gì mới mẻ đến mức mà họ chưa từng nhận thức được trước đó cả. Về điểm này, tôi sẽ giải thích thêm một chút.
Trước hết phải nói rằng, các mối kết nối trong đời sống tinh thần của bệnh nhân đã được hình thành vào một vài thời điểm nào đó trong cuộc đời anh ta, song đến một lúc chúng lại bị phá vỡ. Và cho đến lúc ấy, anh ta vẫn còn có ý thức được về những mối kết nối đấy, ngay cả những kết nối từ khi còn sơ sinh. Do đó, cái mà Freud gọi là vô thức nguyên thủy, đúng ra phải nói thế này: Đấy không chỉ là cái phần “có thể trở nên ý thức được”, mà thật ra đã từng được-ý-thức. Mọi thứ còn lại, theo như Jung nói, chưa-từng-được-ý-thức mới thực sự là vô thức. Jung là người đầu tiên phân biệt giữa “vô thức tập thể” và “vô thức ấu thơ”. Sau đó bản thân Freud cũng thừa nhận sự khác biệt này bằng cách đưa ra khái niệm sinh học về “id32” (cái tự ngã). Cái id này là cái chưa bao giờ được ý thức, và nếu chúng ta truyền đạt nó cho bệnh nhân theo như cách chúng ta hiểu về nó, thế thì về mặt trị liệu anh ta sẽ không thể tiếp nhận nó theo kiểu “tôi đang ý thức về cái vô thức của tôi”, mà anh ta sẽ cho phép mình phóng chiếu cái trách nhiệm thuộc về mình lên một quyền lực siêu việt hay sức mạnh siêu nhiên nào đó theo kiểu tôn giáo. Từ góc nhìn trị liệu kiến tạo của tôi thì kiểu phóng chiếu đấy là phản-trị-liệu, ngay cả khi nó vẫn thường được người ta dùng đến suốt nhiều thế kỉ nay như một liệu pháp phóng chiếu tự phát.
32 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.
Một điểm khác biệt sâu xa hơn nữa trong Liệu pháp Ý chí của tôi là: Trong khi Freud cho rằng việc bệnh nhân cố gắng tiếp cận tất cả những kí ức và ấn tượng đã từng ghi dấu trong ý thức là điều cần thiết và khả dĩ đạt được, nhất là những kí ức và ấn tượng được ông cho là điển hình. Tôi chỉ để cho mỗi cá nhân đào sâu vào một phần nhận thức nhất định. Tôi sẽ cố gắng đi vào bản chất, vào bản thân mỗi cá nhân để xem tại sao người thì nhớ được quá nhiều, kẻ lại nhớ được rất ít. Đồng thời để có thể thực sự thấu hiểu cái động cơ tâm lí đích thật bên trong mỗi người, chứ không phải đưa ra một bản phân tích lịch sử cuộc đời họ như phân tâm học đã làm.
Ở đây chúng ta sẽ thấu tỏ vấn đề trung tâm của toàn bộ chứng loạn thần kinh nói riêng và tâm lí học nói chung: Bệnh nhân không-biết điều gì hoặc không-muốn-biết điều gì? Và tại sao lại như thế? Và sau rốt, vấn đề cũng không nằm ở cái biết hay không biết đấy, mà ở động lực tâm lí đằng sau đó, ở điều đã thôi đẩy họ tận sâu bên trong. Bởi Ý thức không phải là một trạng thái, mà là một chức năng, một phẩm chất. Luôn có rất nhiều điều tuy không hiện hình trong Ý thức vào lúc đó, nhưng vẫn có thể ít nhiều được nhận thức một cách dễ dàng, bởi chúng đã từng được nhận thức trước đó. Thế nên mới gọi là khả năng trở nên có ý thức. Thật ra, những gì một người thực sự không-biết và không-muốn-biết không phải là quá khứ, mà chính là hiện tại, là cái ma trận cảm xúc ngay-tại-đây và ngay-lúc-ấy bị Ý chí coi là yếu đuối, và theo đó, bị phủ nhận. Chúng ta thấy điều này rõ nhất trong tình huống phân tâm, khi bệnh nhân liên tục cố gắng phủ nhận cảm xúc của mình, đồng thời chối bỏ ý thức của bản thân trong việc nhận thức những cảm xúc đấy.
Do đó, nhà trị liệu chỉ có thể hiểu được phản ứng của bệnh nhân nếu ông ta thấy rõ rằng: Bệnh nhân phủ nhận cảm xúc thực của mình trước nhà trị liệu, và sự phủ nhận đấy cái biểu hiện ban đầu của ý chí đối nghịch ẩn đằng sau. Với những bệnh nhân quá bảo trì trạng thái của họ, họ không trải qua quá trình chuyển dịch hoặc thực sự rất ít cho thấy sự chuyển dịch, thì cơ chế phủ nhận cảm xúc này ở họ càng trở nên rõ ràng hơn. Còn những bệnh nhân có sự chuyển dịch tích cực quá mức, mạnh mẽ quá mức thì ở họ lại có xu hướng chối bỏ ý chí phản kháng mạnh mẽ trong mình. Mà như bạn đã biết rồi, sự phản kháng đấy (dù tiêu cực) cũng là một biểu hiện của ý chí tự do, ý chí tự chủ trong mỗi con người. Ấy thế nhưng trong tình huống phân tâm, trước nhà trị liệu, cái ý chí này chỉ có thể biểu hiện mình trong trạng thái chối bỏ chính mình với một vẻ đầy khuất phục, yếu ớt theo kiểu “Vì tôi đã rất vui vẻ đến gặp bác sĩ, nên tôi chẳng bao giờ muốn rời đi nữa cả.”
QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI: TÁI HỒI VÔ TẬN NHỮNG NỖI ĐAU
Trong tình huống trị liệu thực tế, như tôi đã nói, việc diễn giải lại quá khứ ở tầng mức ấu thơ trong quá trình chuyển dịch chỉ càng làm tăng thêm khuynh hướng phủ nhận của bệnh nhân, chứ không thể giúp anh ta thừa nhận nó. Thường là sự chuyển vị33 cảm xúc theo kiểu ngược dòng về ấu thơ trong quá trình phân tâm không làm cho bệnh nhân thỏa mãn. Vì không được thỏa mãn, nên sau đó anh ta làm phát sinh thêm những tình huống phân tâm đầy khó khăn và những xung đột khó nhằn, hòng phủ nhận những phản ứng cảm xúc của mình trong quá trình phân tâm. Về mặt tâm lí học, chỉ cần hiểu được những phản ứng cảm xúc tức thời ngay-tại-đó của bệnh nhân thôi cũng đã tạo ra sự khác biệt rất lớn trong kết quả trị liệu rồi.
Quay trở lại với quá trình trở nên có ý thức. Đấy chắc chắn không phải là cái ý thức đã được diễn giải, giải thích và được nhồi nhét vào đầu bệnh nhân. Bình thường thì nhà phân tâm thường tìm cách diễn giải cá tính của bệnh nhân. Với tôi, chỉ cần nhà trị liệu tạo ra một trải nghiệm cảm xúc đúng nghĩa, trong đó: Toàn bộ cá tính của bệnh nhân có cơ hội được bộc lộ và thấu hiểu, thì anh ta sẽ thấy bản thân tìm được một chỗ dựa chắc chắn. Và hiệu quả trị liệu sẽ đạt được khi nhà trị liệu cho phép bệnh nhân thấu hiểu mình trong một trải nghiệm trực tiếp vào một khoảnh khắc, một sát-na của thực tại. Tôi đã cố gắng làm điều đó ngay trong các ca trị liệu của mình: Để cho bệnh nhân dám sống và thấu hiểu chính mình, nhờ đó trở thành một sinh mệnh tự kiến tạo. Bạn thấy đấy, vượt lên những lí thuyết và kĩ thuật, vượt lên những triết lí lẫn diễn giải, tôi muốn lần đầu tiên trong lịch sử trị liệu, nỗ lực mang đến cho bạn một bối cảnh nơi bạn đạt được sự thấu ngộ tức thì ngay trong khoảnh khắc trải nghiệm, một cách có ý thức, trong chính hành động mà bạn trải nghiệm đấy. Tôi gọi là đấy dám-sống.
33 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.
Hãy cùng xem xét một chút mối liên hệ giữa sự thấu ngộ tức thì này – một sự thấu hiểu thực sự về mặt tâm lí rất sống động và trực tiếp với cái gọi là sự thấu hiểu theo kiểu nhân quả trong tâm lí học với tư cách một khoa học.
Hễ đã giải thích theo kiểu nhân quả, bạn nhất định sẽ sa vào giải thích quá khứ. Và khi giải thích quá khứ thì thật ra là bạn đang diễn giải lại, đang tìm bằng chứng, đang tra vấn về sự phát triển của bản thân, về những động cơ và xung lực của bạn trong quá khứ dưới ánh sáng ý chí và trạng thái ý thức nhất thời của bạn ở hiện tại. Từ đấy khởi sinh một chuỗi vô tận những khả năng diễn giải về con người bạn, chứ không thật-là-bạn. Đã là diễn giải, nó không còn là tâm lí nữa, nó cũng đi rất xa khỏi các thái độ khác nhau của một người, xa khỏi cái mà bạn vẫn gọi ngắn gọn là tâm trạng. Phân tâm học coi kiểu truy nguyên quá khứ - nhân quả này là con đường duy nhất và bấy lâu nay không ngừng đi theo, hòng tiến thẳng đến chân lí của tâm lí học. Nhưng đã là diễn giải thì nó biến đổi đa dạng, nhiều chiều kích và nhiều phiên bản, bạn hẳn phải nghi ngờ về độ xác thực và đáng tin cậy của chúng chứ.
Tôi đã từng đi theo con đường đó của phân tâm học, cho đến khi tôi lần ngược trở lại theo dấu vết của một hiện tượng tinh thần trong quá khứ (đến tận giai đoạn sơ sinh), tôi đã không thể giải thích nó một cách logic theo nhân quả nữa, và vì vậy không thể thật sự giải thích nó. Sau này tôi nhận ra, một quá khứ phải đúng như nó là và không cần thêm bất cứ diễn giải nào khác, bởi nó đúng là vậy, hay đơn thuần chỉ bởi nó đã-là-như-vậy. Quá khứ chính là quá khứ, vì vậy nó được cho là an toàn hơn, đáng tin cậy hơn, người ta cảm thấy có thể hiểu được nó hơn là hiểu về hiện tại. Về nguyên lí nhân quả, ý nghĩa khoa học của nó nói chung thì thôi chúng ta không bàn đến. Còn ở đây trong tâm lí học, khi nó được kết hợp với lối diễn giải quá khứ, nó chứa đầy những lỗ hổng và sai lầm trong suy luận.
Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ nói một cách thấu đáo hơn về điều này. Ở đây, chúng ta chỉ xem xét một khía cạnh, đấy là: Bằng cách diễn giải - “viết lại” quá khứ, chúng ta dùng quá khứ để phủ nhận hiện tại, đấy có thể là sự phủ nhận ý chí hoặc cảm xúc, sự tri nhận hoặc sự thấu hiểu.
Người loạn thần kinh sống với quá khứ nhiều quá, đến mức anh ta còn không thực sự sống với hiện tại. Nói như Freud, anh ta chịu đựng và đau khổ vì chính những hồi tưởng của mình, chứ không phải bởi cái dục năng (libido) của anh ta. Chỉ bởi anh ta bám chấp vào quá khứ quá mạnh mẽ mà thôi. Anh ta bám vào quá khứ đấy vì anh ta muốn bảo vệ bản thân khỏi trải nghiệm trị liệu ở thực tại, đấy là một cuộc đầu hàng của cảm xúc trước thực tại. Tại đây, chúng ta phải đối mặt với câu hỏi quan trọng là: Thế thì bao nhiêu phần của quá khứ vẫn đang tác động tới hiện tại? Hay nói như Freud là bao nhiêu phần kí ức vẫn đang sống trong vô thức của chúng ta?
Ban đầu Freud cho rằng tất cả các trải nghiệm đều được lưu giữ lại; sau đó ông bảo, chỉ một số chấn thương nào đó được lưu giữ thôi; và cuối cùng là, cá nhân chỉ tạm thời thoái lui về một số trải nghiệm nhất định. Ông ngần ngừ trước bước tiếp theo, mặc dù trong một số quan niệm của mình ông đã tiến gần đến nó. Có thể vì chính ông cũng biết rằng, kết quả sau cùng sẽ lật đổ toàn bộ lí thuyết “dồn nén vô thức” trước đó của ông.
Thuyết dồn nén vô thức đấy vốn là một bức tranh, theo nghĩa đen, về một đống những trải nghiệm chấn thương bị chôn vùi trong nội tâm con người. Theo nghĩa này thì chắc chắn không có phức cảm vô thức nào cả, thậm chí cũng không có vô thức (tức là cái không được nhận thức, không được biết đến) theo nghĩa thời sự của từ này. Vậy là những trải nghiệm còn dở dang chưa trọn vẹn, những trải nghiệm chưa được giải phóng hoặc những trải nghiệm chấn thương không phải là bị dồn nén vào vô thức và được lưu giữ lại ở đó, mà chúng được tiếp tục tái hồi vĩnh cửu trong cuộc sống hiện tại của con người. Ở hiện tại, chúng hoặc là bị chối bỏ, hoặc tìm cách đi đến một kết thúc cho chính mình, hoặc chuyển tiếp sang những trải nghiệm hoàn toàn mới. Tại đây, trong chính trải nghiệm hiện thời, cũng như trong toàn bộ quá trình trị liệu, nó không chỉ bao chứa toàn bộ hiện tại mà còn chứa đựng thảy cả cái quá khứ đấy. Nói cách khác, quá khứ – hay cách bạn nói về quá khứ, cũng chính là một loại hiện tại. Và chỉ ở đây, trong trải nghiệm hiện tại này, chúng ta mới thật sự thấu hiểu về tâm lí của một người, và nhờ đó, thật sự đạt được hiệu quả trị liệu.
Quay trở lại với khái niệm Vô thức một chút. Vô thức, đúng như nghĩa ban đầu của từ này, vốn là một khái niệm hoàn toàn tiêu cực, nó ám chỉ một thứ gì đó nhất thời không có ý thức. Lí thuyết của Freud thì nâng nó lên thành nhân tố quyền lực nhất trong đời sống tinh thần của con người. Tuy nhiên phân tâm học không có bất kì thí nghiệm tâm lí nào làm cơ sở cho việc đề cao sức mạnh vô song này của vô thức. Thật ra, nó chỉ được đề ra trong cái nhu cầu bức thiết về lương tri phẩm hạnh của con người. Nghĩa là khi con người có nhu cầu tìm một tải thể khả dĩ hòng thay thế cho ý niệm về Chúa Trời, về Đấng giải thoát, hòng giải phóng bản thân khỏi trách nhiệm của chính mình mà thôi.
PHỦ NHẬN, NGỤY TẠO VÀ HỢP LÍ HÓA: NHU CẦU THIẾT YẾU CỦA TÂM LÍ
Bạn phải thấy rằng, cái sức mạnh đằng sau chi phối quá khứ và quyết định thái độ của một người đối với quá khứ đấy, thật ra chính là Ý chí:
(i) Bằng cách mượn một tải thể, ý chí tự bảo vệ mình trước cuộc xâm lăng của những cảm xúc hiện thời, và cố gắng phủ nhận những cảm xúc đấy bằng cách kéo nó trở về một sự việc trước đấy, hoặc đặt nó vào điều gì đó đã qua;
(ii) Sự phủ nhận này mạnh mẽ đến mức nó đi đến việc ngụy tạo quá khứ của chính nó, trong một nỗ lực hòng tháo rỡ thực tại và phá hủy cái hiện tại mà nó không mong muốn. Cái ý chí đấy muốn nói rằng: “Dù sao tất cả đã qua rồi!”
Theo nghĩa này, cá nhân lúc nào cũng có thể bám chấp vào những trải nghiệm trong quá khứ của mình. Anh ta tạo ra ấn tượng rằng những trải nghiệm đấy cho đến nay vẫn chưa được giải thoát, chúng vẫn bị dồn nén trong vô thức của mình, để dễ bề đẩy trách nhiệm sang cho những “dồn nén vô thức” đấy.
Tâm lí học Ý chí, thay vì quan tâm đến bản thân nội dung của những gì bị phủ nhận hay được chuyển vị, thì thực sự đi đến chỗ thấu hiểu cái nhu cầu thiết yếu của tâm lí con người, rằng: Tại sao tâm lí lại cần đến sự phủ nhận và chuyển vị đấy đến thế? Tại sao nó phải làm thế? Đấy mới là câu hỏi chúng ta nên đặt ra. Về mặt trị liệu, xác định điều trọng tâm cần hướng tới là cực kì quan trọng. Nó cho phép chúng ta đánh giá một phản ứng tâm lí điển hình của bệnh nhân một cách tích cực và mang tính kiến tạo.
Bấy lâu nay phân tâm học cứ mãi hiểu lầm về những phản ứng tâm lí này và đi chệch hướng, thế nên nó không thực sự trị liệu được cho người ta. Nhà trị liệu Ý chí phải thấy là, trong các pha quan trọng của tình huống trị liệu, đặc biệt là về pha cuối, bệnh nhân đột nhiên bám lấy một vấn đề rõ ràng đã được giải quyết từ một quãng đời bất kì nào đó trong cuộc sống của anh ta và nói về nó như thể nó chưa được giải quyết. Tại sao anh ta phải làm thế? Không chỉ vì anh ta có ý định kéo dài thời gian trị liệu, mà còn hòng chối bỏ cái ý nghĩa cảm xúc thực sự mà nó mang lại. Thế có nghĩa là trải nghiệm (trị liệu) ở hiện tại vẫn chưa được giải quyết, chẳng qua là bệnh nhân mong rằng nó được giải quyết giống như các trải nghiệm lúc trước mà thôi. Nhà trị liệu Ý chí dễ dàng nhận thấy rằng, nếu cứ sa đắm và kéo dài quá trình phân tâm để giải quyết vấn đề này và trải nghiệm đến từ quá khứ, mà không tìm cách giải phóng xung đột trong tình huống trị liệu hiện tại, thì rốt cuộc chẳng dẫn tới đâu cả. Chính cái xung đột hiện tại mới là yếu tố quan trọng duy nhất, vì nó là trải nghiệm duy nhất đang thực sự diễn ra.
Còn cách giải thích theo hướng nhân quả - quá khứ, như bạn đã biết, thật ra là một sự phủ nhận những trải nghiệm cảm xúc tức thời ở hiện tại, nó không dựa trên sự thấu hiểu tâm lí thực sự. Và hóa ra phân tâm học lại khuyến khích cho khuynh hướng phủ nhận này ở mỗi cá nhân, cũng như trong ý thức xã hội nói chung. Trong Tâm lí học di truyền của tôi, tôi gọi đấy là “siêu phân tâm học”, nó không chỉ là một nội dung của lí thuyết phân tâm, nó cũng là một phần trong cái ý thức của bệnh nhân và một tầng mức ý thức xã hội nhất định. Ngay cả khi một người không tìm đến phòng trị liệu, anh ta vẫn có thể sử dụng hệ tư tưởng phân tâm này vào bất cứ lúc nào trong cuộc sống như một bằng cứ quá khứ hoặc ấu thơ hòng phủ nhận, ngụy tạo và chuyển vị những phản ứng cảm xúc của anh ta ở thực tại34.
Xét cho cùng, tâm lí đích thật trong mỗi người không phải là những sự kiện, những tổn thương, hay những nỗi đau trong quá khứ, lẫn hiện tại. Mà vì để che giấu những vết thương đấy, trốn chạy chúng, tránh đối diện với chúng, và với chính mình, nên người ta nhất thiết phải tìm mọi cách phủ nhận, ngụy tạo và chuyển chúng sang một tải thể khác. Đấy mới là cơ chế tâm lí đích thật của con người.
Hãy lấy phức cảm Oedipus làm ví dụ. Giống như hầu hết các khái niệm phân tâm khác, phức cảm Oedipus này cũng phục vụ cho khuynh hướng phủ nhận từ cả hai phía, bệnh nhân và nhà trị liệu. Nó giúp bệnh nhân chuyển vị những phản ứng cảm xúc ở hiện tại về những sự việc trong quá khứ từ thời ấu thơ. Thực tế mà anh ta phải chịu đựng không phải là bản thân cái ý muốn hủy hoại cha mình và kết hôn với mẹ mình giống như phức cảm Oedipus trong lí thuyết phân tâm đã nói. Anh ta phải chịu đựng nhiều hơn thế: Anh ta phải gánh chịu cảm giác tội lỗi đi kèm theo cái ý chí của mình. Cảm giác tội lỗi, đấy mới là một vấn đề tâm lí thật sự. Thế nên thật là vô cùng ngây thơ khi cứ mãi rao giảng cho anh ta về cái hành động ý chí (giết cha lấy mẹ) trong “lời nguyền” phức cảm Oedipus không cách gì phá bỏ nổi kia; rồi thêm nữa, bảo với anh ta rằng anh không thể, không bao giờ được phép muốn điều đó. Theo nghĩa này, phân tâm học của Freud thật ra là giáo dục để ý chí của con người ta tiếp tục khuất phục, thay vì dẫn đường cho ý chí đấy và đưa nó vượt thoát ra khỏi bóng đêm tiêu cực mịt mùng.
34 Xem thêm Genetische Psychologie, Tập II.
CÁI-THẬT NỘI TÂM: BẢN CHẤT TIÊU CỰC CỦA Ý CHÍ
Ý chí chỉ có thể vượt thoát ra khi cái phần chống đối tiêu cực trong chính mỗi người được chuyển thành ý chí tích cực, ở đó cá nhân chứng thật ý chí của mình, thay vì phủ nhận nó. Đây là nhiệm vụ cốt tử của trải nghiệm trị liệu, trong đó con người có cơ hội học cách viên thành ý chí một lần nữa, kiến tạo bản thân và lần nữa tái sinh.
Theo một nghĩa nào đó, trải nghiệm trị liệu này mang ý nghĩa biểu trưng tương tự như việc sống lại một lần nữa phức cảm Oedipus thuở ấu thơ. Điểm khác biệt quan trọng duy nhất nằm ở chỗ: Giá trị biểu trưng này của trải nghiệm trị liệu được thừa nhận. Còn trong phân tâm học của Freud: một mặt, bệnh nhân phải coi phức cảm Oedipus là thực sự tồn tại, nó đã từng ở đó trong một giai đoạn ấu thơ của cuộc đời; mặt khác, đến lúc anh ta phải chối bỏ nó, chôn vùi nó, phủ lấp nó. Vậy thì khi đó cuộc trị liệu sẽ đi theo hai chiều hướng sau:
(i) Một là, nếu nhà trị liệu phiên dịch phức cảm Oedipus một cách đơn giản, bằng ngôn ngữ đời hơn, thì nó chính là mang ngụ ý rằng: Hóa ra, con người ta phải đau khổ, phải cam chịu việc mình có một đấng sinh thành, có cha có mẹ;
(ii) Còn khi nhà trị liệu sử dụng câu chuyện thần thoại về Oedipus, thì tức là ông ta đã mang vào trị liệu một đánh giá về mặt lương tri phẩm hạnh. Và, như bạn biết rồi, cái đánh giá đạo đức đấy không những sẽ không có tác dụng về mặt giáo dục, mà còn mang theo tinh thần đàn áp rất thô bạo và nghiệt ngã. Bằng cách kể một câu chuyện, thần thoại đã đưa vào tâm lí học một cái cớ để con người chối đẩy trách nhiệm của mình, một dạng “chứng cứ ngoại phạm” mà chính Oedipus đã thấu tỏ trong lời mình nói: “Hẳn là trong những giấc mơ, nhiều người đàn ông đã thấy mình kết nối với mẹ mình.”
Tựu chung, việc cấm đoán, ngăn trở ý chí cá nhân, thực chất không giúp ích gì cho một con người. Việc rao giảng đạo đức phẩm hạnh thông qua câu chuyện thần thoại cũng chẳng giúp ích hơn, vì nó đồng nghĩa với việc củng cố và tăng cường sự cấm đoán đối với ý chí, kiểu như “Đấy, anh thấy chưa, nếu anh không cố chấp làm theo cái ý chí mù quáng của anh, thì anh đã không phải trả cái giá đắt đến vậy” (ám chỉ kết cục của thần thoại Oedipus). Bài học đạo đức phẩm hạnh này không thể áp dụng cho tất cả mọi người, ít nhất là không dành cho những người có ý chí cường hoành mạnh mẽ, những người rối loạn thần kinh, cũng như nhà trị liệu. Nó chỉ có hiệu lực đối với những người vốn có chuẩn đạo đức phẩm hạnh rồi, những người chưa thực sự phát điên.
Nếu bạn định tìm một quan điểm cố định, theo nghĩa đen, về đời sống tinh thần thì hẳn là không có đâu. Cũng không thể có quan điểm nào giúp bạn giải thích mọi hiện tượng của đời sống tinh thần trên một nền tảng duy nhất, hay giúp bạn hiểu và điều chỉnh tất cả các phản ứng theo một trật tự phổ quát. Liệu pháp hay lí thuyết nào cũng thế thôi, bất kể nó dựa trên những trải nghiệm và kinh nghiệm tuyệt vời đến đâu trước đó. Bản thân mỗi cá nhân cũng vậy, không có gì gọi là quan điểm nhất thành bất biến nơi một con người cả. Vì bất cứ điều gì biểu lộ ra ở tầng ý thức không bao giờ là đúng thật và là sự thực (của nội tâm). Đấy cũng không phải là những gì mà lí thuyết phân tâm học đã nêu ra và ứng dụng trong trị liệu. Điều mà cá nhân luôn phủ nhận trong hiện tại không phải là cái quá khứ lẩn sâu trong vô thức, mà chính là cái thực tại bị dồn nén tức thời, bị phủ nhận ngay tại đây ngay lúc này.
Dù là dùng quá khứ để che giấu hiện tại, hay là mượn những lí thuyết và thuật ngữ để biện hộ trong cuộc trị liệu phân tâm, thì cũng đều giống nhau. Khi bệnh nhân bằng thuyết phân tâm tự giải thích cho phản ứng của chính mình, thì nhà trị liệu phải biết chắc rằng anh ta đồng thời cũng đang giấu giếm, che đậy một điều gì đó quan trọng hơn trong mối quan hệ cảm xúc thực sự của mình. Trong đời sống thực tại, các hiện tượng tinh thần luôn biểu hiện ra ngược với những gì chúng thực-là. Phân tâm học, do đó, chỉ có thể đưa ra một cách giải thích chung chung, nó tìm kiếm một sự thật nào đó trong quá khứ, trong cái vô thức được diễn giải, nó lấy cái đúng một lần làm cái đúng cho tất cả, nó đã bỏ qua trải nghiệm tinh thần ở hiện tại, ngay tại đây và ngay lúc này. Và chúng ta đều biết, trong cái quá khứ được nhắc lại đấy, không có tiêu chuẩn nhất định nào để biết một điều là thật hay không thật, là đúng hay là sai. Bởi trong và với trải nghiệm ở hiện tại: Cả nội dung lẫn hình hài của quá khứ đấy đã bị khuynh hướng nhất thời của ý chí cho làm méo mó và được tô vẽ thêm bằng màu sắc của những cảm xúc tức thời.
Cái-thật tâm lí, do vậy, không thể trùng khớp với sự thật quá khứ – nghĩa là với cái đã đích thực diễn ra. Cũng thế, sự việc thực tế trong quá khứ là cái đã qua, dù người ta nói gì về nó thì nó cũng không bao giờ có thể là sự thật tâm lí ở hiện tại, bởi thật ra cái hiện tại thì không bao giờ được nhận thức về mặt tâm lí học. Điều duy nhất thật đấy là: Cách người ta nói về nó, cách người ta dùng đến quá khứ để diễn giải cho cái hiện tại tức thời đang bị phủ nhận. Bởi vậy, truy lần theo các sự kiện và trải nghiệm trong quá khứ hòng hiểu về hiện tại không có ích gì về mặt trị liệu cả. Thay vào đó, từ hiện tại, chúng ta có thể thấu hiểu quá khứ. Dẫu rằng điều đấy không có giá trị lắm về mặt trị liệu, song về lí thuyết thì không cần bàn cãi: Hãy cố gắng thấu hiểu hiện tại trước và hiểu về bản thân hiện tại, chứ không phải làm theo chiều ngược lại là dùng quá khứ để hiểu hiện tại như Freud đã làm.
Với nội tâm mà nói, cái-thật không phải là cái đã diễn ra trong quá khứ, mà là cái thật của tâm lí. Vậy thì trị liệu có thể làm gì để thúc đẩy và hoàn thành sứ mệnh của nó? Hẳn là trị liệu có thể giúp cho một người thấy rằng: Cái ý chí đối nghịch phản kháng trong chính họ đang có nhu cầu cấp thiết hòng tìm cách chuyển vị và hợp lí hóa cho việc phủ nhận những trải nghiệm cảm xúc tức thời ngay lúc này ở hiện tại. Hiệu quả này chỉ có thể đạt được khi nhà trị liệu để bệnh nhân sống-hết-mình với trải nghiệm hiện tại. Thế nên, quá trình trị liệu đối với tôi mà nói chính là một lần để người ta trải nghiệm và nhờ đó, sự thấu hiểu tâm lí thuần túy đồng thời diễn ra, ngay tại đây và ngay lúc này.
Chìa khóa của những hiện tượng này nằm ở Tâm lí học Ý chí. Rốt cùng thì cái chúng ta phải đối mặt đấy là: Sự phủ nhận, sự hợp lí hóa hay sự biện minh cho cái ý chí rõ ràng đã không được thừa nhận, cùng với quá nhiều cảm giác tội lỗi đi kèm. Hơn nữa, bạn phải hiểu rằng: Bản thân ý chí ban đầu đã có mặt tính cách tiêu cực, nó vốn xuất sinh từ sự phản kháng “tôi-không-muốn” của phần ý chí đối nghịch, vì vậy tự nó đã chứa đựng sự phủ nhận.
Sự phủ nhận ban đầu này chính là căn nguyên cho tất cả những lời phủ nhận thứ cấp về sau, chẳng hạn như phủ nhận với những suy nghĩ nói chung, đặc biệt là, với những nỗ lực diễn giải lẫn thấu hiểu. Chúng ta có thể thấy rõ tính chất tiêu cực khởi nguyên này của ý chí ở chỗ, hầu hết mọi người đều cảm thấy thất vọng ngay cả khi họ đã hoàn thành mong ước thiết tha nhất của mình. Để thấy rằng, ý chí của một người chỉ trở nên mạnh mẽ hoặc đúng nghĩa là ý chí, khi nó được dùng để chống lại sự phản kháng bên trong lẫn bên ngoài. Hãy quay trở lại với ví dụ về phức cảm Oedipus để thấy rõ hơn. Với phức cảm này, chúng ta mặc nhiên thừa nhận cấm kị loạn luân, bởi thế chúng ta sẽ không còn kinh ngạc khi phát hiện ra mong muốn lấy mẹ giết cha trong con người. Với ước nguyện chết thì có phần khác. Ước nguyện chết, bản thân nó đã chứa đựng trong nó một điều gì đó tiêu cực, hủy hoại và vì vậy, bao hàm hành động của ý chí đối nghịch. Chúng ta có thể thấy ở đây những hiện tượng ý chí đúng như chúng ta vừa mô tả, chúng rất khớp với những hiện tượng của ý thức: Đằng sau những gì xuất hiện trong ý thức của chúng ta luôn có một cái gì đó khác. Ý chí cũng vậy: Đằng sau những gì nó có hoặc có thể có, nó luôn mong mỏi một cái gì đó khác, bởi nó vốn khởi nguyên có tính cách tiêu cực. Thế nghĩa là sao? Điều bạn tưởng-mình-là, chưa chắc đã là thế. Điều bạn tưởng-mình-muốn, chưa chắc đã là thực sự muốn.
Nhưng, khổ sở ở chỗ: Chúng ta không thể thừa nhận điều đó với chính mình. Chúng ta luôn phải cố nhận thức và diễn giải ý chí như một cái gì đó tích cực, như một trạng thái hoặc một sự thực, và rốt cuộc luôn đi tìm lí do để biện hộ hoặc hợp lí hóa nó. Thế nên điểm cốt lõi chúng ta cần thấy đấy là, và hãy luôn ghi nhớ:
(i) Thứ nhất, ý chí về cơ bản có nguồn gốc tiêu cực, nó vốn là ý chí đối nghịch, ban đầu để phản kháng lại ý chí của người khác hoặc chống lại thực tại nói chung;
(ii) Thứ hai, con người có nhu cầu cấp thiết muốn phủ nhận bản chất tiêu cực này của ý chí, để bản thân có thể nhận thức nó một cách tích cực hơn, thấy mình tốt đẹp hơn và do đó, đảo chiều nó thành hành động hiệu quả.