Khi Lucas tấp xe vào, Carla đang ngồi ngoài sân, cuộn tròn trong chiếc áo ca-di-gan và tập vẽ trên đùi. Anh xuống xe, chân bước qua những chiếc lá khô, hít một hơi thật sâu bầu không khí trong lành của vùng North Woods.
“Một ngày tuyệt đẹp,” anh nói. Anh ngồi xuống bên cạnh cô và nhìn vào tập vẽ. Cô đang phác họa hình ảnh của những chiếc lá đang rơi bằng phấn màu nâu đen trên nền giấy màu xanh dương nhạt. “Em vẽ đẹp thật.”
“Em nghĩ là em không chắc lắm nhưng em nghĩ em sẽ có được những bức vẽ tốt nhất mà em từng vẽ,” Carla nói. Cô cau mày. “Một trong những vấn đề của hình thức là hình thức đẹp nhất mang tính biểu tượng, nhưng nghệ thuật đỉnh cao lại là nghệ thuật phi hình tượng.”
“Em nói đúng,” Lucas nói. Anh ngồi phịch xuống và ngước mặt lên nhìn bầu trời màu xanh đẹp không một tì vết. Một cơn gió nam nhẹ làm mặt hồ gợn sóng.
“Nghe như chuyện vớ vẩn anh nhỉ?” Cô hỏi và mỉm cười, khóe mắt cô nhăn lại.
“Nghe có vẻ quan trọng,” anh nói. Anh quay đầu lại và thấy một đám cỏ nhỏ xanh mướt đang mọc chen chúc giữa những chiếc lá khô héo kia. Anh với tay nhặt vài chiếc lá màu xanh bóng bẩy.
“Nhắm mắt lại,” anh nói, anh đưa tay mình về hướng cô và bóp vụn những chiếc lá bằng những đầu ngón tay. Cô nhắm mắt lại và anh đưa những vụn lá đó dưới mũi cô. “Bây giờ thì em hãy ngửi xem.”
Cô hít hít và mỉm cười, sau đó cô mở mắt ra. “Đó là kẹo,” cô nói trong tiếng hò reo. “Lá cây lộc đề xanh phải không?” “Đúng vậy. Chúng mọc quanh nơi này.” Cô lấy những mảnh lá bị bóp vụn trên tay anh và tiếp tục hít hà. “Chúa ơi, là mùi của thiên nhiên.”
“Em vẫn muốn quay trở về chứ?”
“Vâng,” giọng cô có vẻ luyến tiếc. “Em phải làm việc. Em có một trăm bản vẽ và em phải xử lý chúng. Và em cũng đã gọi đến phòng trưng bày ở Minneapolis và em đã bán được một vài bức tranh đẹp. Tiền đang đợi em.”
“Em có thể sống được nhờ công việc này,” Lucas nói gượng gạo.
“Hầu như là vậy. Họ nói với em rằng có một người đàn ông ở Chicago, là chủ của một phòng trưng bày, thấy một vài tác phẩm của em. Ông ta muốn nói chuyện với em về một thỏa thuận công việc. Vì vậy em phải về thôi.”
“Em có thể quay trở lại. Bất cứ khi nào.”
Carla dừng bút chừng một phút, vỗ nhẹ vào chân anh.
“Cảm ơn anh. Em muốn quay lại đây vào mùa xuân, có lẽ vậy. Anh không thể biết được tháng này em đã như thế nào đâu. Chúa ơi, công việc của em chồng chất và em thậm chí không thể hiểu được nó. Đúng là em cần có quãng thời gian ở đây.”
“Em có muốn quay về vào tối thứ Ba không?” “Cũng được ạ.”
Lucas rảo chân và bước xuống bến tàu, nhìn thuyền của mình. Chiếc thuyền có thân làm bằng chất liệu sợi thủy tinh dài hơn bốn mét cùng với động cơ Johnson hai mươi lăm mã lực gắn ở phần đuôi thuyền. Một chiếc thuyền nhỏ, có chiều ngang rộng, vừa đủ để câu cá xạ hương. Hàng rêu bám quanh thân tàu. Chiếc thuyền đã không được sử dụng nhiều trong suốt mùa thu.
Anh quay trở lại rìa hồ. “Anh sẽ phải đi thuyền một vòng trước khi mình về,” anh nói. “Nó chưa được sử dụng nhiều. Chó điên đã giết chết mùa thu của anh.”
“Và em cũng chỉ thích đi bộ trong rừng, nên đã không đi thuyền nhiều lắm,” Carla nói một cách đơn giản.
“Em có muốn đi câu cá không? Ngay bây giờ?”
“Được ạ. Cho em mười phút để hoàn thành bức vẽ.” Cô nhìn qua phía bên kia hồ. “Chúa ơi, hôm nay thật tuyệt vời.”
***
Vào buổi chiều, sau giờ ăn trưa, họ trở ra khu rừng. Carla đeo khẩu súng ngắn trên thắt lưng. Ở chân đồi, cô nổ súng vào vách đất cách đó khoảng hai mươi mét, cố bắn mười tám phát súng liên tiếp vào một vùng rộng chỉ bằng bàn tay của một người đàn ông. Những viên đạn bay trúng điểm chết trên những hình ảnh mà cô phác họa trên cát. Sau khi cô bắn viên đạn cuối cùng, cô để miệng súng lên môi và lãnh đạm thổi tan làn khói.
“Em bắn ổn đấy,” Lucas nói.
“Ổn thôi ư? Em nghĩ là em bắn khá tốt đấy.”
“Không. Chỉ mới ổn thôi,” Lucas nhắc lại. “Trong trường hợp buộc phải sử dụng súng, em sẽ phải ra đưa ra quyết định chỉ trong một giây, có thể là trong bóng tối, có thể là với gã đàn ông đuổi theo em. Lúc đó mọi thứ sẽ khác.”
“Xì. Để làm gì chứ?”
“Đợi chút,” Lucas vội vàng nói. “Anh không có ý muốn làm em nản chí. Em bắn khá tốt. Nhưng đừng chủ quan.”
“Như em nói, khá tốt.” Cô cười toe toét với anh. “Anh nghĩ sao về chiếc túi da đựng súng của em? Đẹp đấy chứ?” Cô đã xâu một bông hồng vào vạt ny-lon màu đen.
***
Đêm khuya hôm đó cô thổi nhẹ vào rốn của anh rồi nhìn lên và nói, “Đây có thể là kỳ nghỉ tuyệt vời nhất em từng có. Kể cả vài ngày sắp tới. Em muốn hỏi anh một câu hỏi, nhưng em không muốn làm hỏng kỳ nghỉ này.”
“Không đâu. Anh không thể nghĩ ra câu hỏi gì có thể phá hủy kỳ nghỉ này được.”
“Thực ra chúng ta có lời nói đầu.”
“Anh thích lời nói đầu, anh hi vọng em sẽ kết thúc bằng tái bút. Thậm chí là có phần phụ lục thì vẫn ổn, hoặc có thể...”
“Anh yên lặng nào. Nghe này. Bên cạnh việc đây là một kỳ nghỉ, em đã hoàn thành một khối lượng lớn công việc trên này. Em nghĩ em có sự đột phá. Em nghĩ em sẽ trở thành một họa sĩ mà trước đây em chưa từng. Nhưng em đã gặp nhiều người đàn ông như anh... Có một họa sĩ ở St. Paul, nhiều nét ở anh ta giống anh một cách kỳ lạ, và anh sẽ lại có những người phụ nữ khác. Em biết chuyện đó, không sao cả. Vấn đề ở đây là, khi anh có người khác đó, chúng ta vẫn còn là bạn chứ? Em vẫn có thể lên đây chứ?”
Lucas cười lớn. “Không gì tấn công một người cứng rắn tốt hơn là một lời nói thật ngọt ngào.”
“Em có thể rút lại những lời vừa nói,” cô nói. “Nhưng em cũng muốn biết...”
“Nghe này. Anh không biết chuyện của chúng ta sẽ đi tới đâu. Anh đã từng... có rất nhiều mối quan hệ trong vòng một năm qua và rất nhiều phụ nữ đó bây giờ vẫn là bạn của anh. Vài người trong số họ đã đến đây, nói thực là như vậy. Không phải giống như chúng ta, lên cả tháng thế này mà là vào dịp cuối tuần. Thỉnh thoảng tụi anh ngủ với nhau. Thỉnh thoảng lại không, nếu mối quan hệ đó bị thay đổi. Tụi anh chỉ lên đây, và tán gẫu. Vậy nên...”
“Tốt rồi,” cô nói. “Em sẽ không thân tàn ma dại khi chúng ta dừng lại đâu. Thật ra thì em sẽ rất bận và em còn không biết em có thể giữ được mối quan hệ này hay không. Nhưng em sẽ quay lại đây.”
“Đương nhiên là em sẽ quay lại. Đó là lý do tại sao bạn bè của anh gọi nơi đây là một cái bẫy gái - oái, đau, buông tay ra, chết tiệt...”
***
“Anh có rảnh không? Sloan tựa người vào cánh cửa. Anh đang ngậm điếu thuốc lá giả trên miệng.
“Đương nhiên là có.”
Lucas đã quay trở lại thành phố Minneapolis thoải mái đến nỗi anh cảm thấy như xương sống của mình đã bị cắt bỏ vậy. Cảm giác đó kéo dài được mười lăm phút tại trụ sở cảnh sát chính, trong khi nói chuyện với Anderson, cập nhật thông tin trong cuốn sổ tay. Lững thững về đến văn phòng, tâm trạng tốt lành từ North Woods về đã tan biến. Khi anh đặt chìa khóa vào cửa, Sloan xuất hiện trên hành lang, nhìn thấy anh và đi đến.
“Anh còn nhớ tôi đã từng nói về cái gã sưu tập nghệ thuật phương Đông không?” Sloan vừa hỏi vừa ngồi xuống ghế trống trong phòng Lucas.
“Tôi nhớ rồi. Có chuyện gì à?”
“Có chuyện. Tôi không biết là chuyện gì. Tôi chỉ tự hỏi liệu anh có muốn hỏi ông ta vài câu không.”
“Nếu việc đó có ích.”
“Tôi nghĩ nó sẽ có ích đấy,” Sloan nói. “Tôi khá là tốt trong khoản nói ngọt. Nhưng đối với người đàn ông này chúng ta cần ai đó cứng rắn hơn.”
Lucas nhìn đồng hồ của mình. “Bây giờ sao?” “Tại sao không. Nếu anh có thời gian.”
***
Alan Nester đang cúi người nhìn một chiếc đĩa sứ nhỏ, lưng của ông hướng về phía cánh cửa khi họ bước vào. Lucas liếc nhìn xung quanh. Một chiếc thảm phương Đông bao phủ sàn gỗ. Có vài đồ vật bằng sứ, gốm và ngọc được trưng bày trong tủ gỗ sồi vàng. Rất thưa thớt một vài vật phẩm được tặng có dấu tích tại một kho tàng nghệ thuật nào đó ở nơi khác đến. Nester xoay người lại khi nghe tiếng chuông cửa và một cái nhíu mày khó chịu xuất hiện trên khuôn mặt nhợt nhạt. “Trung sĩ Sloan,” giọng ông gắt gỏng. “Tôi đã nói rõ với anh là tôi không không còn gì để khai báo.”
“Tôi nghĩ ông nên nói chuyện với Trung úy Davenport đây,” Sloan nói. “Tôi nghĩ có thể anh ấy sẽ giải thích cho ông mọi thứ rõ ràng hơn.”
“Ông biết chúng tôi đang điều tra chuyện gì và Trung sĩ Sloan có cảm giác rằng ông vẫn còn che giấu điều gì đó,” Lucas nói. Anh nhặt một bình hoa sứ hoạ tiết tinh tế lên và nheo mắt nhìn nó. “Chúng tôi thực sự không thể cho phép điều này... À, tôi xin lỗi, tôi không có ý định làm mọi chuyện trở nên nghiêm trọng. Nhưng vấn đề ở đây là, chúng tôi cần tất cả thông tin mà chúng tôi có thể nhận được. Tất cả. Nếu ông đang che giấu điều gì đó, chắc chắn nó rất quan trọng, nếu không thì anh đã không che giấu. Ông hiểu ý chúng tôi chứ?”
“Nhưng tôi không che giấu điều gì cả,” Nester bực dọc nói. Ông đứng dậy, một người đàn ông cao lớn, nhưng gầy gò như một con cò xanh, bước qua tấm thảm, lấy bình hoa từ tay Lucas. “Xin đừng chạm vào bất cứ thứ gì. Đây đều là những món đồ quý hiếm.”
“Thế sao?” Lucas nói. Khi Nester đặt chiếc lọ đi chỗ khác, anh lại nhặt một cái bát gốm nhỏ lên.
“Tất cả những gì chúng tôi cần,” anh nói, “là những điều đã xảy ra tại nhà của Rice. Và sau đó chúng tôi sẽ biến mất khỏi tầm mắt của ông. Nhẹ nhàng.”
Đôi mắt của Nester nheo lại khi ông nhìn Lucas đang cầm lên vành của cái bát nhỏ.
“Thứ lỗi cho tôi một chút.” Ông bước tới chỗ một cái lọ thủy tinh ở cuối căn phòng, nhấc điện thoại lên và nhấn số. “Vâng, tôi là Alan Nester. Tôi cần nói chuyện với Paul.
Làm ơn nhanh một chút.” Ông nhìn về hướng Lucas lúc đang đợi máy. “Paul? Alan đây. Đám cảnh sát lại quay lại và một trong số họ đang cầm trên tay cái bát từ triều đại nhà Tống đáng giá mười bảy ngàn đô la bằng cái vành của nó, rõ ràng đang muốn đe dọa tôi là sẽ làm rơi nó. Tôi không có gì để khai báo, nhưng họ không tin tôi. Anh có thể xuống đây?... Ồ? Như thế cũng được. Anh có số rồi đấy.”
Nester đặt ống nghe xuống. “Đó là luật sư của tôi,” ông nói. “Nếu các anh đợi ở đây một lát, các anh có thể sẽ nhận được điện thoại từ sếp các anh hoặc từ ngài phó thị trưởng.”
“Hừm,” Lucas nói. Anh mỉm cười, hở cả răng. “Tôi đoán là chúng ta không được chào đón ở đây rồi, đúng không?” Anh cẩn thận đặt cái bát về kệ của nó và quay lại nhìn Sloan. “Về thôi,” anh nói.
Ra khỏi căn nhà, Sloan liếc nhìn anh từ bên cạnh. “Không dữ dằn là mấy.”
“Chúng ta sẽ còn quay lại,” Lucas nói với vẻ thỏa mãn. “Anh hoàn toàn đúng. Gã khốn nạn này đang che giấu điều gì đó. Đây là tin tốt. Có người đang che giấu điều gì đó về vụ án của Chó điên và chúng ta đã biết được điều này.”
***
Họ gọi cho Mary Rice từ một bốt điện thoại công cộng. Chị đồng ý nói chuyện với họ. Sloan dẫn đường đến nhà chị ấy và gõ cửa.
“Chị Rice đúng không?”
“Các anh là cảnh sát à?”
“Đúng vậy. Sức khỏe chị thế nào rồi?” Khuôn mặt của Mary Rice trông già hẳn đi, làn da chuyển sang màu vàng và nâu, căng và cứng, giống như một trái cam để lâu ngày trong tủ lạnh vậy.
“Vào đi, đừng để cái lạnh vào theo,” chị nói. Đó không hẳn là một tiếng rên rỉ. Ngôi nhà rất nóng, nhưng Mary Rice choàng một chiếc áo len Orlon to xụ và mặc quần len. Mũi chị đỏ và sưng lên.
“Chúng tôi đã nói chuyện với người đàn ông đã mua ngà voi chạm khắc từ chồng của chị,” Sloan nói khi họ ngồi xuống xung quanh bàn ăn. “Và chúng tôi đang có một vài thắc mắc về ông ta. Chồng của chị đã...”
“Các anh nghĩ ông ta là kẻ giết người?” Chị tròn mắt hỏi. “Không, không, chúng tôi chỉ đang cố hiểu hơn về ông ta thôi,” Sloan nói. “Chồng của chị có kể điều gì về ông ta mà chị nghĩ là bất thường hay thú vị không?
Trán của chị nhăn lại. “Không... không, ông ta chỉ mua vài món đồ chạm khắc và hỏi liệu Larry có thêm bất kỳ thứ gì khác không. Các anh biết đấy, những thanh kiếm cổ và vài thứ đồ cũ kỹ. Larry đã không còn thêm thứ gì cho ông ta.”
“Họ có nói gì khác không?”
“Không, tôi không biết... Larry nói người đàn ông này khá vội vàng và không muốn uống cà phê hay gì cả. Chỉ đưa tiền và đi ngay.”
Sloan nhìn Lucas. Lucas nghĩ một phút và hỏi, “Những thứ đồ chạm khắc ấy trông như thế nào?”
“Tôi vẫn còn một cái,” chị nói. “Nó là mẫu cuối cùng.
Larry trao nó cho tôi như một món quà lưu niệm khi chúng tôi kết hôn. Các anh có thể xem nó.”
“Nếu chị sẵn lòng.”
Chị Rice đi ra phía sau nhà. Chị quay lại sau một vài phút và đưa tay về phía Lucas. Lọt thỏm trong lòng bàn tay là một con chuột làm bằng ngà voi bé xíu. Lucas cầm nó lên, nhìn vào nó và giữ nhịp thở của mình.
“Được rồi,” anh nói sau một phút. “Chúng tôi có thể mượn cái này được không, chị Rice? Chúng tôi có thể đưa cho chị một tờ giấy biên nhận.”
“Chắc chắn rồi. Nhưng tôi không cần giấy biên nhận. Các anh là cảnh sát mà.”
“Được. Chúng tôi sẽ trả nó lại cho chị.” Bên ngoài, Sloan nói, “Cái quái gì vậy?”
“Tôi nghĩ chúng ta tóm gáy được anh bạn Alan Nester của chúng ta rồi, tôi cũng biết ông ta đang nói dối điều gì. Và nó không phải là về Chó điên,” Lucas nói một cách u ám. Anh ta đã mở bàn tay của mình để nhìn vào con chuột. “Mọi thứ tôi biết về nghệ thuật chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng hãy nhìn vào thứ này đi. Nester đã mua mười lăm con chuột này với giá năm trăm đô. Tôi cá là một con chuột trên tay tôi đã đáng giá năm trăm đô rồi. Tôi chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy. Nhìn xem, hãy nhìn biểu cảm trên gương mặt của con chuột. Nếu nó không đáng giá năm trăm đô, tôi sẽ hôn mông của anh ngay tại tòa án.”
Cả hai đều nhìn vào tay Lucas. Con chuột được điêu khắc thật tinh tế, đôi chân trước và sau của nó siết chặt một cái ống, để lại một cái lỗ chạy giữa hai chân trước và hai chân sau. “Họ chắc chắn phải sử dụng nó cho một việc gì đó, một cái nút hoặc một cái gì đó,” Lucas nói.
Sloan ngẩng đầu lên và Lucas quay lại nhìn theo anh. Một chiếc xe tuần tra trên phố, gần như dừng lại, cả hai cảnh sát trong xe nhìn ra cửa sổ phía bên lái xe và nhìn họ.
“Chắc họ nghĩ chúng ta đang giao dịch ma túy với nhau,” Sloan cười. Anh lôi phù hiệu cảnh sát ra và bước về phía chiếc xe. Cảnh sát hạ cửa sổ xuống và Lucas gọi với, “Các anh có muốn xem một con chuột rất xinh đẹp không?”
***
Học viện nghệ thuật đã đóng cửa trước khi họ rời khỏi nhà của chị Rice và Lucas đã giữ con chuột đó suốt đêm. Nó ngồi trên chồng sách trong phòng làm việc của anh,ngắm nhìn anh trong khi anh đang kết thúc trận đánh cuối cùng của trò chơi Everwhen.
“Chết tiệt, ta cũng muốn có được chú mày đấy,” Lucas nói ngay trước khi đi ngủ. Sáng sớm hôm sau, anh thức dậy, anh nhìn nó đầu tiên. Anh có cảm giác hình như nó đã di chuyển sang chỗ khác.
Phải mất một chút thời gian để tìm hiểu rõ việc đó. Lucas đón Sloan tại nhà anh ta. Vợ của Sloan đi ra cửa cùng với anh và nói, “Tôi đã nghe khá nhiều về anh. Có cảm giác như tôi đã biết anh vậy.”
“Tôi mong rằng những điều cô nghe được đều là điều tốt.”
Cô ấy cười và Lucas thích cô ấy. Cô nói thêm, “Chú ý đến Sloan giúp tôi.” Và đi vào trong.
“Thậm chí đến vợ của tôi cũng gọi tôi là Sloan,” Sloan nói khi họ lái xe đi.
Người phụ trách học viện nghệ thuật quan sát con chuột, huýt sáo và nói, “Thứ này là đồ tốt. Để tôi lấy vài cuốn sách.”
“Làm sao anh biết được nó là đồ tốt?” Lucas hỏi khi anh lẽo đẽo phía sau.
“Bởi vì trông nó tinh xảo như con chuột thật vậy, tựa như nó có thể di chuyển trong đêm ý,” người phụ trách nói.
Quá trình nghiên cứu tốn nhiều thời gian. Lucas quay lại lúc Sloan đang đi loanh quanh khắp phòng trưng bày tranh.
“Sao rồi?” Anh nói và ngước nhìn. “Tám nghìn đô,” Lucas nói với anh.
“Cho cái gì? Cho một con chuột thôi hay là cho tất cả mười lăm con ở đây.”
“Chỉ cho một con chuột đó thôi. Đó là mức giá ước lượng thấp rồi. Người quản lý học viện nói giá con chuột này có thể tăng gấp đôi tại các phiên đấu giá. Vậy nếu tám nghìn đô cho một con và những con khác cũng tinh xảo như thế, thì Nester đã trả cho người đàn ông đang chết dần vì bệnh ung thư kia chỉ năm trăm đô la cho những món đồ điêu khắc đáng giá từ một trăm hai mươi ngàn cho đến hai trăm năm mươi ngàn đô la.” Anh nói, “đồ cổ.”
“Ồ.” Sloan bối rối. Số tiền đó quá lớn. “Chúng đáng giá vậy sao? Đồ cổ sao?”
“Tôi đoán thế. Đó là những gì người quản lý học viên nói.” “Tôi không biết thật.”
“Nhưng tôi cá là Alan Nester biết điều đó.”
***
Họ ghé qua nhà chị Rice.
“Tám nghìn đô la ư?” chị ngạc nhiên thốt lên. Một giọt nước mắt rơi xuống một bên má. “Nhưng ông ta đã mua mười lăm con...”
“Chị Rice này, theo như tôi biết thì khi chồng của chị yêu cầu ông Nester ghé nhà chị, tất cả những gì ông ta muốn là thẩm định giá để ông ta có thể bán chúng sau này, đây có phải những điều chị đã khai báo với chúng tôi không?” Lucas hỏi.
“Ừm, tôi thực sự không nhớ rõ lắm...”
“Tôi nhớ là chị đã nói như vậy trong buổi thẩm vấn đầu tiên,” Sloan khẳng định.
“Có thể tôi đã nói vậy,” chị nói không chắc chắn.
“Bởi vì nếu đúng ông ta nói thế, thì ông ta đã lừa hai vợ chồng chị,” Lucas nói giọng chắc chắn. “Đây là một vụ lừa đảo và chị có thể lấy lại được chúng.”
“Thật ra thì đúng là ông ta đã ghé nhà tôi để thẩm định giá trị của những món đồ đó,” Mary Rice nói, gật đầu vẻ kiên quyết. Đột nhiên trí nhớ của chị trở nên rõ ràng. Chị nhấc con chuột lên, nâng niu nó. “Tám nghìn đô.”
***
“Bây giờ chúng ta làm gì đây? Xin lệnh cấp trên?” Sloan hỏi. Họ lại đang đứng trên lối vào nhà chị Rice.
“Chưa phải lúc này,” Lucas nói. “Tôi không biết liệu chúng ta đã có đủ bằng chứng chưa. Hãy tấn công Nester trước. nói với ông ta những gì chúng ta đã biết, yêu cầu ông ta hợp tác trong vụ liên quan lên cây súng. Thương lượng với ông ta rằng nếu ông ta hợp tác thì chúng ta sẽ dàn xếp vấn đề giữa luật sư của ông ta và luật sư của chị Rice thành vấn đề dân sự. Nếu không có nhã ý hợp tác, chúng ta sẽ xin lệnh cấp trên, kết tội ông ta và đưa ông ta lên mặt báo. Kể về việc ông ta đã lừa gạt một người đàn ông đang cận kề cái chết bởi căn bệnh ung thư và chỉ đang cố gắng dành dụm để lại thứ gì đó cho người vợ của mình như thế nào.”
“Ôi..., thật xấu xa.” Sloan mỉm cười. “Tôi thích rồi đấy.”
***
“Nester đâu rồi?”
Người đàn ông đứng ở quầy thu tiền có vóc dáng nhỏ con, da sậm và trẻ hơn Nester rất nhiều.
“Ông ta không có ở đây,” ông ấy nói. Không khí có chút ớn lạnh, Lucas và Sloan nhìn không hề giống khách hàng. “Các anh có thể cho tôi biết các ai là ai không?”
“Chúng tôi là cảnh sát, và chúng tôi cần phải nói chuyện với ông ta.”
“Tôi e là các anh không thể,” chàng trai trẻ nhướn mày và nói. “Ông ta đã đi Chicago lúc trưa nay. Chắc chắn là giờ này ông ta đã đến đó rồi và tôi không biết ông ta sẽ ở lại nơi nào.”
“Chết tiệt,” Sloan nói.
“Khi nào ông ta sẽ quay về đây?” Lucas hỏi. “Sáng thứ ba. Khoảng tầm trưa là ông ấy về tới.”
“Anh có món đồ điêu khắc bằng ngà voi nào ở đây không?” Sloan hỏi.
Chàng trai trẻ lại nhướn mày lại một lần nữa. “Tôi nghĩ là có nhưng tôi phải hỏi Alan trước. Ông ta quản lý tất cả những món đồ đắt tiền.”