Người đàn ông trực quầy đứng sau một bức tường dán đầy mấy tờ bìa tạp chí. Thuốc lá, kẹo, những viên phô mai trong túi giấy bóng kính, khoai tây chiên vị taco, bì lợn chiên giòn và nhiều thứ gây ung thư khác xếp thành một lớp che phía bên hông ông ta. Bên cạnh quầy tính tiền có một cái giá xoay treo các huy hiệu tròn màu trắng, mỗi chiếc mang một thông điệp phản ánh cái tôi của từng người mua hàng. Save the Whales – Harpoon a fat chick (Tạm dịch: Để bảo vệ cá voi, hãy “chịch” một con phò to béo1) là một cái bán chạy. Tương tự, No more Mr. Nice Guy – Down on your knee, Bitch (Tạm dịch: Không tử tế gì nữa, anh sẽ quỳ dưới chân em, gái à) cũng vậy.
1 Câu nói có ý đả kích phong trào Bảo vệ Cá voi (Save the Whales) vào những năm 70-80 của thế kỷ XX tại Mỹ.
Người đàn ông chẳng buồn nhìn vào cái giá xoay đó. Ông ta phát mệt với việc trông nó mỗi ngày. Ông ta đang nhìn chăm chú vào cái cửa sổ đầy phân ruồi phía trước, lắc đầu ngán ngẩm.
Lucas Davenport lững thững bước ra từ bên trong cửa hàng, tay cầm tờ tạp chí Daily Racing Form và đặt tờ hai đô la và mười lăm xen trên quầy.
“Mấy thằng ranh con!” Người bán hàng lẩm bẩm một mình, trong lúc rướn cái cổ dài nhìn ra đường. Ông nghe thấy tiếng Lucas ném mấy đồng xu xuống mặt bàn liền quay lại. Khuôn mặt trông như một chú chó săn dòng ba-xet cố nặn một nụ cười làm những nếp nhăn xù xì hiện ra. “Mọi việc ổn chứ?” Ông ta khò khè mấy tiếng.
“Chuyện gì ngoài đó thế?” Lucas đánh mắt nhìn ra ngoài. “Mấy thằng nhóc chơi trò ván trượt đó!” Ông ta bị bệnh tràn dịch màng phổi, cái phổi như có vẻ bị tắc khiến ông ta chỉ rặn ra được những câu ngắn ngủi. “Rượt theo cái xe buýt.” Ông ta hít một hơi. “Nếu chúng va phải nắp cống...” Rồi lại thở ra. “Thì toi đời.”
Lucas nhìn ra đường lần nữa. Chẳng thấy bóng dáng tụi nhóc nào cả.
“Chúng đi mất tiêu rồi,” người bán hàng rầu rĩ. Anh cầm tờ Racing Form lên và đọc dòng đầu tiên của bài tâm điểm trên trang nhất. “Cậu đã xem qua quầy sách giảm giá chưa?” Ông ta khò khè. “Có người mang bán hạ giá mấy cuốn thơ đấy.” Ông ta phát âm thành “thơn.”
“Vậy à?” Lucas bước vòng qua quầy và xem đống sách xếp ngả nghiêng trên bàn. Nằm giữa hai cuốn tiểu thuyết đóng bìa cứng đặc trưng của sách văn học thế kỷ hai mươi, Lucas thích thú nhận ra một tập thơ có bìa bọc vải mỏng của Emily Dickinson. Cả đời anh chưa bao giờ tìm đọc thơ văn và cũng chẳng mua một quyển sách nào gọi là mới. Anh thường mua một cách ngẫu hững và cũng khá ngạc nhiên là anh hay gặp được những quyển mình muốn, có khi là một tập đồng dao nằm lộn xộn trong đống sách chuyên ngành sinh, hóa.
Cuốn tuyển tập thơ Emily Dickinson có giá một đô la khi nó được in lần đầu năm 1958 bởi một nhà xuất bản vô danh trên Đại lộ Số Sáu, thành phố New York. Ba mươi năm sau, nó có giá tám mươi xen tại tiệm sách University Avenue ở trên phố St. Paul.
“Thế con ngựa cái non này thì thế nào nhỉ?” Ông ta hỏi líu ríu. “Con Chiến mã Wabasha này này?” Người đứng quầy gõ tay lên tờ tạp chí Racing Form. “Nó được nhân giống ở Minnesota đây.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” Lucas nói. “Gì cơ?”
“Con ngựa được nhân giống ở Minnesota ý. Lẽ ra họ nên đưa nó về lại trang trại nhân giống Alpo. Tất nhiên, vẫn có một vầng hào quang toả ra”
Người đàn ông chờ đợi. Ông ta chẳng còn chút hơi nào để mà có thể đáp lời.
“Nếu con Chiến mã ấy mà có được bất kỳ sự ưu ái nào,” Lucas nói, “may ra nó có thể lật ngược kèo để thắng.”
“Thế có nghĩa là...”
“Hãy thử con Sun và Halfpence ấy. Không có gì là bảo đảm cả, nhưng những con số thì ổn đấy.” Lucas ném cuốn tuyển tập thơ Emily Dickinson với tờ ghi giá tám mươi xen và năm xen thuế lên trên mặt quầy. “Thôi, để em biến khỏi cửa hàng của bác trước khi bác đặt cược nhé. Em không muốn người ta tưởng em là nhân viên mới của bác đâu.”
“Chú nói gì chả được.” Ông ta hít một hơi thật sâu.
“Trung úy,” ông vừa gọi vừa lấy tay giật giật chỏm tóc nhô ra trên cái trán hói.
Lucas cầm theo cuốn Emily Dickinson về Minneapolis và đậu xe trong bãi đỗ công cộng đối diện Tòa thị chính. Anh đi vòng qua khu cao ốc ốp tường bằng loại đá hoa cương cũ kỹ, xù xì băng qua một con phố khác, qua một hồ phản chiếu1 rồi vào khu Trung tâm Hành chính Hạt Hennepin. Anh đi thang cuốn xuống nhà ăn tự phục vụ, mua một quả táo đỏ tại máy bán hàng tự động, rồi trở lên, ra khỏi tòa nhà đến bãi cỏ rộng. Anh ngồi trên cỏ giữa những cây bạch dương dưới ánh nắng ấm áp của tiết trời mùa thu tháng Tám, nhấm nháp quả táo và đọc cuốn tuyển tập thơ:
1 Reflecting pool: Hồ phản chiếu hay ao phản chiếu là một bộ phận trong kiến trúc các công trình tưởng niệm. Hồ phản chiếu thông thường là một hồ nước nông, và có mặt hồ khá tĩnh lặng.
... nhưng không ai lay động trái tim em
Trừ những con sóng vừa tới
Khẽ lướt trên đôi chân em tĩnh lặng
Len qua chiếc tạp dề và ve vuốt bờ eo thon
Ôm trọn thân thể
Tưởng như sẽ xâm chiếm hết
Trọn vẹn như giọt sương
Bao bọc từng cánh bồ công anh
Và rồi em cũng hoà cùng cơn sóng
Lucas cười thầm, và ngoạm thêm miếng táo. Khi anh nhìn lên, thấy một cô gái trẻ với mái tóc đen đang đẩy một chiếc xe đẩy đôi băng qua khu nhà. Hai nhóc song sinh mặc cùng một bộ màu hồng giống hệt nhau nằm ngọ nguậy trên xe. Người mẹ trẻ có bộ ngực đồ sộ nhưng vòng eo nhỏ, mái tóc đung đưa trên khuôn mặt sáng sủa như những dải lụa. Cô diện chiếc chân váy màu mận với áo cánh lụa màu be. Vẻ đẹp nơi cô khiến Lucas mỉm cười, một cơn sóng vui tươi, dịu dàng nhẹ lướt qua tâm trí anh.
Rồi bỗng một cô gái khác bước qua từ hướng ngược lại, tóc pixie vàng hoe ngắn cũn, bộ đầm bó phô trương, rẻ tiền nhưng rất khêu gợi. Lucas nhìn theo, và thở dài theo nhịp tản bộ của cô gái.
***
Lucas mặc chiếc áo phông thể thao màu trắng, quần ka ki dài, tất thể thao dài màu xanh da trời và đôi giày lười có dây da buộc sẵn. Anh mặc áo phông để trùm xuống che khẩu súng đeo bên hông. Người anh mảnh khảnh, nước da tối, tóc đen thẳng và hơi xám ở hai bên thái dương, mũi dài và khoé môi cong lên khi cười. Một chiếc răng cửa hàm trên bị sứt, nhưng anh không vá lại. Nếu không phải nhờ đôi mắt xanh thì chắc người ta đã nhầm anh là người da đỏ rồi.
Ánh mắt của anh ấm áp và bao dung. Sự ấm áp đó được tôn lên nhờ vết sẹo trắng chạy dọc từ chân tóc xuống hốc mắt bên phải, xuống gò má tới tận khóe miệng. Vết sẹo mang lại cho anh cái vẻ phóng đãng bất cần, nhưng lại ẩn giấu một nét ngây ngô giống như Errol Flynn trong bộ phim Captain Blood. Lucas luôn ước gì anh có thể nói với những cô gái trẻ rằng vết sẹo đó là chiến tích từ những mảnh chai vỡ trong cuộc ẩu đả tại quán bar ở vịnh Subic, nơi anh chưa từng đặt chân tới, hay Băng Cốc, nơi anh cũng chẳng biết mặt mũi nó như thế nào. Vết sẹo là do một chiếc cần câu bị gãy từ cú giật mắc phải đám vải mục trên sông St. Croix gây ra và đó cũng là những gì anh vẫn nói. Một vài người tin điều đó. Đa phần thì nghĩ rằng anh đang giấu giếm nguồn cơn thực sự của vết sẹo, kiểu như một cuộc hỗn chiến trong quán bar nào đó ở bờ Đông kênh đào Suez.
Mặc dù đôi mắt anh luôn ánh lên vẻ ấm áp, nhưng nụ cười thì nói điều ngược lại.
Đã có lần, Lucas cùng với một cô nàng – tình cờ lại là nhân viên sở thú, – tới một hộp đêm trên phố St. Paul, nơi mà lũ nhóc vùng ngoại ô có thể dễ dàng mua được ma túy tại các nhà tắm ở tầng trệt. Lúc ở bãi đậu xe của hộp đêm, Lucas đã bắt gặp Kenny McGuinnes, một gã mà anh nghĩ rằng lẽ ra đang ở trong tù.
“Biến mẹ mày đi, Davenport,” McGuinnes vừa nói vừa lùi lại. Bãi đậu xe bỗng trở nên nhộn nhạo. Mọi thứ từ miếng gói bã kẹo cao su đến các tép co-ca-in đang dùng dở, bắt đầu hướng sử chú ý đến họ.
“Tao không biết là mày đã ra rồi đấy, thằng đầu đất,” Lucas trả lời bằng một nụ cười mỉa mai. Cô nhân viên sở thú trợn tròn mắt ra nhìn. Lucas đổ người về phía gã kia, móc hai ngón tay vào túi áo của hắn rồi giật nhẹ như thể họ là những người bạn cũ lâu năm, đang cùng ôn lại kỷ niệm xưa. Lucas thì thầm, giọng khàn khàn, “Biến khỏi thành phố này ngay! Tới Los Angeles! Hoặc là New York ấy. Không thì anh sẽ cho chú biết tay”.
“Tao đang hưởng án thả có điều kiện, không thể rời khỏi bang được,” McGuinnes lắp bắp.
“Thế thì tới Duluth, hoặc Rochester ấy! Mày có một tuần,” Lucas thì thầm. “Nói chuyện với ông già mày! Nói chuyện với bà cụ cố hoặc mấy bà chị ấy! Rồi biến.”
Lucas quay lại với cô nàng sở thú, miệng vẫn cười và như đã quên béng McGuinnes.
“Anh làm em sợ vãi linh hồn,” cô gái nhấm nhẳng khi họ đi vào hộp đêm. “Vừa nãy có chuyện gì vậy?”
“Gã Kenny đó thích tụi nhóc. Hắn bán ma túy cho mấy thằng nhóc mười tuổi.”
“Ồ.” Cô đã từng nghe những chuyện như vậy, nhưng cô tin chuyện đó cũng giống như cô tin cái chết của mình: rất xa vời và cũng chẳng cần phải xác minh.
Một lát sau, cô nàng khẽ khàng, “Em không thích nụ cười đó. Nụ cười của anh ấy. Trông anh giống hệt mấy con thú trong khu em trông coi.”
Lucas nhăn nhở, “Ồ! Vậy à? Con nào? Con vượn cáo á?” Cô nàng cắn nhẹ vào môi dưới của mình. “Em đang nghĩ đến một con sói hoang cơ.”
Dù nụ cười lạnh lùng ấy có đôi lúc lấn át anh mắt ấm áp của anh, thì điều đó cũng không thường xuyên xảy ra đến mức trở thành một cái tật khó bỏ. Ngay lúc Lucas nhìn thấy cô gái lòe loẹt kia bước gần tới góc tòa nhà Trung tâm Hành chính và cô nàng, và cô nàng còn kịp quay lại nhìn Lucas với nụ cười toe toét ngay trước khi biến mất khỏi tầm mắt.
Đậu xanh! Cô biết rõ anh nhìn theo nàng rồi. Phụ nữ luôn luôn biết chuyện đó. Đứng dậy, anh tự nhủ, đi theo nàng. Nhưng anh đã không làm vậy. Còn rất nhiều phụ nữ khác, họ rất được. Anh thở dài, ngả lưng xuống cỏ và lại cầm tập thơ Emily Dickinson lên.
Lucas giống như bức họa phản chiếu sự thỏa nguyện. Còn hơn cả một bức họa.
Một bức hình.
***
Hình được chụp từ khoang sau chiếc xe tải nhỏ màu xanh ô liu đậu ở bên kia đường Số 7 Nam. Người chụp hình là hai sĩ quan từ phòng Nội vụ, người đầm đìa mồ hôi, sử dụng chiếc máy ghi hình đặt trên giá ba chân trong khoang xe có các ô kính một chiều.
Anh chàng cấp trên trông to béo. Thuộc cấp của anh ta lại gầy còm. Nhưng điều kỳ lạ là cả hai đều có nét hao hao giống nhau, tóc thẳng cắt ngắn, mặt hồng hào, mặc áo phông cộc tay màu vàng, quần tây hai lớp mua ở J. C. Penney. Cứ vài phút, một người lại ngắm qua ống kính 300 mm của chiếc camera Nikkon F3, được trang bị bộ dữ liệu Data Back với chiếc đồng hồ chạy pin thiết kế để hoạt động tới tận năm 2100. Khi người chụp hình bấm máy, thời gian và ngày giờ thực tế sẽ được in lên khung hình. Nếu cần thiết, bức ảnh sẽ trở thành một bản ghi có giá trị pháp lý để giám sát các hoạt động của người trong hình.
Lucas đã phát hiện ra cặp đôi này chỉ một giờ sau khi sự theo dõi này bắt đầu từ hai tuần trước. Anh không biết tại sao họ theo dõi, nhưng ngay khi nhìn thấy họ, anh ngừng nói chuyện với người cung cấp thông tin, với bạn bè và các cảnh sát khác. Anh đang ở trong trạng thái bị cô lập, và không biết tại sao. Anh sẽ tìm ra thôi. Không thể khác được.
Trong thời gian đó, anh cố gắng dành nhiều thời gian ở bên ngoài nhất có thể, buộc những kẻ giám sát kia phải ẩn mình trong chiếc xe nóng bức, chật chội, không thể ăn uống, hay đái ỉa gì. Lucas cười thầm, một điệu cười khó chịu như một con sói hoang, anh đặt cuốn Dickinson xuống và cầm tờ Racing Form lên.
“Mày có nghĩ là thằng khốn đó cứ ngồi thế mãi không?” Anh chàng to béo hỏi khi đang khó nhọc xoay người.
“Có vẻ như hắn sẽ ngồi lâu đấy.”
“Tao mắc tè lắm rồi,” gã béo phàn nàn.
“Lẽ ra mày không nên tợp chai cô-ca đó. Cafein làm mày mắc tè đấy.”
“Chắc tao trượt lẹ ra ngoài rồi xả một cái...”
“Nếu hắn ta di chuyển, tao sẽ phải bám theo. Và nếu mày bị bỏ lại, Bendl sẽ phát rồ lên đấy!”
“Chỉ khi mày mách lẻo thôi, thằng chó ạ.”
“Tao không thể vừa lái xe, vừa chụp hình được.”
Anh chàng béo cựa quậy một cách khó chịu, cố cân nhắc các phương án. Lẽ ra, ngay khi Lucas vừa ngồi xuống, anh ta nên đi vệ sinh ngay, nhưng lúc đó anh ta lại không mắc quá. Giờ thì Lucas có thể rời đi bất cứ lúc nào, còn cái bọng đái của anh phình ra chẳng khác gì một quả bóng rổ.
“Nhìn hắn kìa,” anh ta vừa nói vừa nhìn chằm chằm về phía Lucas qua chiếc ống nhòm. “Hắn ta đang ngắm mấy cô em đi ngang qua. Biết tại sao phải theo dõi hắn chưa? Thế nào cũng có chuyện xảy ra với cô ẻm.”
“Tao không biết. Mọi chuyện dị lắm và không ai chịu hé một lời nào cả.”
“Tao nghe nói hắn có gì đó với sếp lớn. Lucas ý.”
“Chắc là thế rồi. Hắn chẳng làm cái quái gì cả. Suốt ngày cưỡi con Porsche lượn lờ quanh phố rồi ra sân chạy thôi.”
“Áo khoác của hắn ngầu đấy chứ. Trên đó có đính nhiều huân chương và huy hiệu khen thưởng lắm đấy.”
“Hắn có mấy vụ bắt giữ xịn xò lắm,” gã gầy thừa nhận. “Cực nhiều luôn,” gã béo tiếp lời.
“Vầng.”
“Hắn cũng hạ được mấy tên khốn nữa.”
“Năm. Hắn là tay súng cự phách nhất trong lực lượng đấy. Chưa ai hạ được quá hai tên.”
“Đều bắn chuẩn luôn.”
“Bọn báo chí cũng thích hắn. Mẹ cái bọn Wyatt Earp.” “Vì hắn có tiền,” giọng gã béo đầy hống hách. “Lũ nhà báo thì thích người có tiền, nhà giàu. Đời tao chưa gặp thằng phóng viên nào mà không thích tiền cả.”
Trong thoáng chốc, câu chuyện giữa hai người đổi về giới báo chí. Những người đó cũng giống như cảnh sát, nhưng có cái mồm nhanh nhảu hơn.
“Mày nghĩ hắn kiếm được bao nhiêu? Davenport ý?” Gã béo hỏi.
Gã gầy mím môi suy nghĩ. Rõ ràng lương lậu là vấn đề quan trọng rồi. “Với cấp hàm và chức vị của hắn, có lẽ hắn được phía thành phố trả khoảng bốn mươi hai hay bốn mươi lăm ngàn đô gì đó,” anh ta phán. “Rồi còn mấy game hắn viết, tao nghe nói mỗi lần làm xong một trò, hắn bỏ túi hàng trăm ngàn đô tuỳ vào độ nổi của game đó.”
“Nhiều thế cơ à?” Gã béo trầm trồ. “Nếu tao kiếm được số đó, tao nghỉ mẹ nó việc rồi. Tao sẽ mua một cái nhà hàng. Hoặc một quán bar bên bờ hồ.”
“Thế thì nghỉ thôi,” gã gầy đồng tình. Họ thường buôn chuyện với nhau nên những câu trả lời cứ vậy mà thốt ra.
“Sao họ không giáng cấp hắn xuống trung sĩ nhỉ? Ý tao là khi họ phát hiện ra hắn có dính líu đến mấy vụ trộm ý?”
“Tao nghe nói khi đó hắn dọa bỏ việc. Hắn kêu không muốn bị thụt lùi. Họ quyết định rằng họ muốn giữ hắn – hắn có tay chân ở mọi quán bar hay tiệm hớt tóc trong thành phố này – nên họ đành phải giữ nguyên cấp hàm của hắn.”
“Nếu hắn mà làm thượng cấp của mình thì quả là đau đớn,” gã béo nói.
Gã gầy gật đầu tán dương. “Ai cũng phải hoàn hảo cả. Nhưng có ai hoàn hảo đâu.” Rồi hắn lắc đầu. “Hắn từng nói với tao rằng đó là công việc tồi tệ nhất mà hắn từng làm. Hắn biết rằng hắn chỉ đang làm rối hết cả lên, nhưng hắn không thể dừng lại được. Một vài người có thể nhún nhường một chút để sống êm ả, nhưng Davenport sẽ sống hết mình với bản chất con người hắn.”
Hai người ngừng câu chuyện một lát, quan sát đối tượng qua lớp kính một chiều. “Nhưng hắn không phải một gã tồi - hắn có phải là sếp của mình đâu?” Gã béo nói, đột nhiên chuyển hướng. Cánh cảnh sát thường rất tài tình trong việc dẫn dắt câu chuyện. “Hắn từng có lần cho tao chơi một trò chơi của hắn. Với thằng nhóc nhà tao, cái trò đó quá đỉnh. Nó có những tấm hình người ngoài hành tinh, bọn gián khổng lồ đánh lộn bằng súng laze.”
“Thằng nhóc thích ấy hả?” Gã gầy có vẻ cũng không quan tâm lắm. Hắn nghĩ có lẽ thằng bé con ông béo kia được chăm chút quá mức, như là ông hoàng vậy, mặc dù hắn không bao giờ nói toẹt ra điều đó.
“Đúng vậy! Thậm chí nó còn chạy đến cửa hàng rồi xin hắn ký tên lên đó. Ngay trên vỏ hộp ý, Lucas Devenport.”
“Chà! Tên này cũng không phải chỉ biết ngồi ì ra đâu nhỉ!” Gã gầy nói, ngừng lại phút chốc đợi phản ứng của gã kia. Một giây sau, gã béo mới chợt hiểu ra rồi cả hai cùng cười phá lên. Nhưng cười cũng chẳng ích gì với cái bọng đái đầy nước. Gã béo lại cựa quậy đổi tư thế.
“Nghe này! Tao phải đi không thì tè ra quần mất,” cuối cùng hắn cũng phải thốt lên. “Nếu Davenport đi đâu ngoài chỗ mấy cửa hiệu này thì hắn sẽ phải lấy xe. Nếu tao quay lại mà mày không còn ở đây, thì tao sẽ đuổi theo và đợi mày ở gần chỗ đoạn dốc nhé.”
“Đấy là mày quyết nhé,” gã cộng sự trả lời, mắt nhòm qua ống ngắm. “Hắn vừa mới bắt đầu đọc tờ Racing Form thôi. Ông anh chắc có vài phút đó.”
Lucas phát hiện thấy gã béo trườn ra khỏi xe rồi cắm mặt chạy vào tòa nhà Pillsbury. Anh cười thầm. Anh rất muốn chuồn đi vì như vậy thì chú cớm trong xe sẽ phải bám theo anh, bỏ lại tên béo. Nhưng như vậy sẽ gây ra rắc rối. Anh thà cứ để hai tên cớm này ở tại chỗ mà anh biết chắc.
Mấy phút sau, gã béo quay trở lại, chiếc xe vẫn đậu ở đó. Gã cộng sự đánh mắt về phía anh và nói, “Không có gì cả.”
Vì Lucas vẫn chẳng có hành động gì, nên những bức ảnh họ chụp cũng không được in ra. Nếu in, có lẽ họ đã phát hiện ra rằng Lucas đã giơ ngón giữa rất rõ ràng và họ có thể biết rằng Lucas đã phát hiện ra họ. Nhưng cũng không quan trọng lắm vì những bức ảnh chụp sẽ không bao giờ được in.
Khi anh béo chui lại vào xe và Lucas đang nằm ườn trên bãi cỏ, tiếp tục đọc tập thơ thì buổi giám sát của họ cũng chuẩn bị kết thúc.
Khi Lucas đang đọc một bài thơ có tên là Con rắn, còn anh chàng cảnh sát béo đang theo dõi anh qua ống kính của chiếc máy ảnh hiệu Nikkon, thì Chó điên cũng vừa thực hiện một vụ giết người nữa.