Trường đua ngựa của thành phố Đôi trông giống như trạm xe buýt Greyhound do một thợ làm bánh thiết kế. Gã cảnh sát béo ú, một người không quan tâm đến nghệ thuật, lại thích thế. Anh ta ngồi dưới ánh nắng, một tay cầm miếng pizza pepperoni và lon Pepsi ăn kiêng, tay kia cầm bộ đàm. Anh ta có một cuộc gọi bộ đàm ngay trước khi vòng hai bắt đầu.
“Ngay bây giờ á?”
“Ngay lập tức.” Ngay cả với tạp âm xung quanh cái giọng vang ra từ bộ đàm cũng không lẫn đi đâu được và rít lên như tiếng vải xé bởi một con dao cắt bánh sắc lẹm.
Tên béo nhìn tên gầy.
“Chúa ơi! Lão sếp trưởng khốn khiếp. Lão sếp trưởng khốn kiếp vừa gọi xong”.
“Lão làm ăn chán chết,” gã gầy ngoạm nốt miếng xúc xích còn lại trên tay làm nước sốt gia vị chảy xuống cái áo khoác thể thao của anh ta. Anh ta lấy mẩu giấy ăn lau vội đi.
“Lão muốn Davenport,” gã béo nói.
“Chắc có chuyện rồi,” gã gầy thêm vào. Họ đang ở ngoài trời, khu tầng trên của khán đài, còn Lucas đang đứng ở khu hiên có mái che, cách họ hai khu. Anh nằm dài thượt trên chiếc ghế gỗ dài ngay phía trước bảng điện tử của trường đua và cách đường chạy của ngựa đua khoảng chín mét. Một cô em xinh xắn đi đôi ủng cao bồi ngồi ở đầu kia chiếc ghế, đang nốc bia từ chiếc cốc nhựa. Hai viên cảnh sát đi ngược lối lên phía trên khán đài, vòng qua dải phân cách rồi lại theo lối đi xuống, len lỏi qua một đám đông xuống tận hàng ghế đầu gần với đường chạy.
“Anh Davenport? Lucas?”
Lucas quay lại, thấy họ và mỉm cười. “A, xin chào! Hai anh khỏe không? Hôm nay lại đi xem ngựa đua đấy nhỉ?”
“Cảnh sát trưởng muốn nói chuyện với anh. Có vẻ như ngay bây giờ.” Gã béo chợt nhận ra mình không suy nghĩ cân nhắc gì trước khi nói, nhưng cũng khó để giải thích được.
“Họ ngừng theo dõi rồi hả?” Lucas hỏi, nhe răng cười. “Anh biết chuyện đó à?” Gã béo nhướn mày.
“Biết lâu rồi. Nhưng tôi không biết tại sao.” Anh nhìn họ, chờ đợi.
Tên cảnh sát gầy nhún vai “Chúng tôi cũng chịu thôi.” “Này, đồ chó, Dick...” Lucas đứng phắt dậy, nắm tay siết lại như quả đấm, anh béo liền bước lùi lại.
“Thề có Chúa. Chúng tôi không biết thật mà,” gã béo trả lời, “Chuyện đó là bí mật mà.”
Lucas quay lại hỏi. “Ông ấy nói ngay bây giờ hả?”
“Sếp nói luôn bây giờ. Và ông ta có vẻ nghiêm túc đấy.”
Lucas đưa mắt đi chỗ khác, quay ra nhìn đường đua, đăm chiêu nhìn qua sân cỏ hình bầu dục về phía cánh cổng có sáu lối cho ngựa đua xuất phát. Những tay nài ngựa đang kéo ngựa về phía cánh cổng và đám đông đã bắt đầu tràn xuống khoảnh sân gần vạch đích.
“Chó điên lại giết người rồi.” Lucas nói sau một thoáng suy nghĩ.
“Đúng,” gã béo phụ họa. “Có thể lắm.”
“Chắc là vậy rồi! Thằng chó chết! Tôi không mong chuyện đó tí nào.” Anh suy tư một lát rồi bỗng nhiên mỉm cười. “Các anh chọn ngựa đặt cược rồi chứ?”
Gã béo trông có vẻ không thoải mái lắm. “À, tôi cược hai đô cho con Skybright Avenger.”
“Chúa ơi! Bucky!” Lucas thốt lên sửng sốt. “Anh cược hai đô để ăn được hai đô và bốn mươi xen nếu nó về nhất. Và chắc chắn nó sẽ không thắng rồi.”
“À, tôi không...”
“Nếu anh không biết chơi như thế nào...” Lucas lắc đầu. “Nghe này, hãy cược mười đô cho con Pembroke Dancer. Đặt vào cửa thắng cho nó ý.”
Hai tên cảnh sát quay sang nhìn nhau.
“Thật á?” Gã gầy hỏi. “Con này mới đua lần đầu. Anh không thể biết...”
“Này, tùy các anh thôi, nếu các anh muốn thắng cược. Và tôi sẽ ở lại xem nốt kèo này.”
Hai tên cảnh sát phòng nội vụ nhìn nhau, rồi lại nhìn Lucas, rồi quay đi, vội vã chạy vào quầy đặt cược gần nhất. Tên gầy đặt cược mười đô. Tên béo chần chừ, nhìn ví, liếm lưỡi, lấy ra ba tờ mười đô, lại liếm lưỡi, đảy mấy tờ tiền qua quầy. “Ba mươi đô cho con Pembroke Dancer,” anh ta nói. “Cửa thắng.”
Lucas lại nằm ườn ra ghế và bắt đầu buôn dưa lê với cô em đi ủng cao bồi. Khi hai tên cảnh sát theo dõi quay lại, anh đã ngồi xích lại gần phía cô gái nhưng lại quay mặt sang phía hai viên cảnh sát.
“Cược chưa?” Anh hỏi. “Rồi.”
“Đừng lo lắng thế Bucky. Hoàn toàn hợp pháp mà.” “Vâng, vâng, không phải chuyện đó.”
“Các anh chọn ngựa rồi chứ?” Cô gái đi ủng cao bồi rướn người về phía trước rồi nhìn Lucas và hỏi. Cô ta có đôi mắt màu tím.
“Chỉ là đoán bừa thôi,” Lucas trả lời lơ đễnh.
“Đó là, kiểu như, suy đoán của riêng anh ấy hả?”
“Anh em tôi có ném vài đồng cho con Pembroke Dancer,” Lucas nói.
Cô gái có cặp mắt tím cầm lên tờ Racing Form ở trên ghế ngay cạnh cô, nhưng thay vì nhìn xem nó có gì thì mắt cô ngước nhìn lên trời và đôi môi cô mấp máy nhẹ nhàng và rồi cô quay đầu lại, và nói. “Con đó xuất phát ở cửa số sáu, có vẻ ngon! Đường đua ưu tiên xếp theo thứ tự tốc độ, nhưng chuyện đó chắc gì đã ăn thua anh nhỉ.”
“Hừm!” Lucas lầm bầm.
Cô gái ngước nhìn bảng điện tử một thoáng rồi hóm hỉnh, “Xin lỗi các anh, em phải ‘đi giải sầu’ cái,” Cô quay đi, vội vàng. Tên cảnh sát béo vẫn không ngừng liếm môi và dõi theo bảng điện tử. Tỉ lệ cược cho con Pembroke Dancer là hai mươi ăn một. Ba con ngựa khác là Stripper’s Colors, Skybright Avenger, and Tonite Delite đã có những vòng đua tốt trong suốt ba tuần qua. Cách đây hai tuần, người ta mới chuyển con Pembroke Dancer từ Arkansas tới. Trong vòng đua đầu tiên, nó về thứ sáu.
“Con ngựa đó là thế nào hả Lucas?” Anh béo hỏi.
“Ông bạn tôi mách nước.” Lucas vòng tay qua vai, ngón cái chỉ về phía khu báo chí. “Một gã soi kèo nhận được cuộc gọi từ Vegas. Gã đó đi vào khu ngựa chờ cách đây nửa giờ, rồi quay ra cược mười ngàn cho con Pembroke Dancer, cửa về nhất. Chắc hẳn ai đó có tin mật.”
“Chúa ơi! Thế sao vòng vừa rồi con đực đó thua thảm thế?” “Nó là con cái.”
“Hả?”
“Con cái. Dancer là một con cái non. Và tôi cũng không biết sao nó lại thua. Có lý do gì đó. Có lẽ tay nài ngựa kéo nó chạy chậm lại.”
Bảng điện tử nhấp nháy và tỉ lệ thua của con Pembroke Dancer nhảy lên hai mươi hai ăn một.
“Anh cược bao nhiêu, Lucas?” Tên béo hỏi.
“Tôi đặt một hai1. Tôi xếp Dancer trên chín con khác. Cứ trên một con, ăn một trăm, vậy là có chín cửa ăn.”
1 Một cách đặt cược đua ngựa: người cược chọn con ngựa về nhất và con về sau theo thứ tự chọn trước để cược.
“Chúa ơi!” Gã béo lại liếm mép. Trong ví, anh ta còn hai mươi đô nữa và đắn đo. Phía bên kia đường đua, con ngựa đầu tiên đã được đưa vào ô xuất phát, anh béo lùi lại ngồi xuống ghế. Ba mươi đô là nhiều rồi. Nếu thua, anh ta sẽ phải ăn món Cheetos cả tuần.
“Gần đây anh có vụ nào ngon không?” Lucas hỏi. “Vụ Billy Case và lính mới thế nào?”
Tên béo cười. “Thằng Case chết dẫm ấy?”
“Có một mụ luật sư,” tên gầy chêm vào. “Vào một ngày nọ, mụ nhìn ra cửa sổ phòng làm việc ở phía sau tòa nhà cũ đã được sửa lại thành văn phòng. Mặt sau của toà nhà đó nhìn ra mặt sau của các tòa nhà thương mại bên kia đường. Thực chất, từ văn phòng bà ta có thể nhìn xuống con đường qua lại giữa những toà nhà đó. Ở một đầu của con đường có một hàng rào và cổng ra vào để ngăn cách chính nó với đường chính. Vì thế mà không ai có thể nhìn vào lối đi từ ngoài đường được. Nhưng anh biết đấy, ta có thể nhìn thấy rõ phía trong lối đi đó từ văn phòng của mụ luật sư. Và rồi mụ nhìn xuống lối đi, thấy một cô ẻm gà nâu đang xoa cái của quý của anh chàng cảnh sát còn đang mặc nguyên bộ đồng phục trên người.
Thế là mụ xem tiếp, rồi anh chàng cúi xuống, kéo khóa quần lên, anh ta và cô nàng đi qua cái cổng hàng rào, trở lại con phố. Mụ luật sư này, rất hay ho, mụ nghĩ họ đang yêu nhau. Nhưng hôm sau, có tới hai anh cảnh sát lận, em gà nâu kia chăm sóc cho cả hai lão. Thế là bà chị luật sư thấy phát điên lên, vác ngay cái máy quay phim to đùng của ông chồng tới và ngày hôm sau nữa, y như rằng họ quay lại, với một cô nàng khác, lần này là một em gà trắng. Thế là bà chị luật sư chụp lấy vài phô ảnh, rồi mang cuộn phim Kodakchrom tới cho ông cảnh sát trưởng.”
Con ngựa đầu tiên đã được đưa vào ô và khóa lại. Cô em mắt tím cũng vừa quay lại và ngồi xuống đầu ghế kia.
Anh chàng gầy gò tiếp tục thao thao. “Thế là cảnh sát trưởng đưa cuốn phim xuống phòng thí nghiệm,” anh ta nói, “mấy tấm hình đó, thực sự là những tấm hình chân thực nhất mà chưa từng có tay phó nháy nào chụp được. Nếu tôi mà đem bán, chắc phải được chục đô mỗi tấm. Cảnh sát trưởng và các công tố cho rằng vẫn còn vấn đề với chuỗi bằng chứng, thế là chúng tôi phải phục kích trong phòng của mụ luật sư đó, với một đội ghi hình. Chắc chắn rồi, họ lại tới. Nhưng lần này, họ mang theo cả gà nâu và gà trắng. Cảnh tượng cứ như là xem màn hình phóng đại từ chiếc cinemascope ấy, hay đại loại vậy. Panavision thì đúng hơn.”
“Thế rồi sao nữa?” Lucas hỏi.
Anh béo nhún vai. “Họ phải biến thôi.” “Họ phải thụ án bao lâu?”
“Case dính sáu năm, nhưng tôi đếch quan tâm. Anh ta có nhiều vấn đề. Chúng tôi nghĩ anh ta và một tay bảo vệ đã độ rồi tuồn mấy chiếc máy nghe đĩa nhạc từ nhà kho của trung tâm thương mại SEARS ra ngoài được vài tháng nay rồi. Nhưng tôi thấy thương anh chàng lính mới. Case nói với anh ta rằng, đó là cách làm việc trên phố. Chơi trò xóc lọ trong những lối đi dưới các tòa nhà.”
Lucas lắc đầu ngán ngẩm.
“Ngay trên phố giữa thanh thiên bạch nhật luôn,” anh cảnh sát béo thêm vào.
Con ngựa đua cuối cùng đã được đưa vào ô sau cánh cổng, chốt khóa, một khoảng lặng kéo dài vài giây trước khi cánh cổng mở ầm một cái cùng với tiếng loa phóng thanh bình luận. “Ngựa đã xuất phát,... Chúng phi như bay, Pembroke Dancer bứt lên từ làn ngoài, bám theo sau là...”
Dancer bứt khỏi nhóm bám sau, đến đoạn cua khoảng cách đã là hai thân ngựa và là bốn thân ngựa ở cuối đoạn chạy chính, rồi tám thân ngựa khi cán đích.
“Ôi! Ơn Chúa,” tên béo thốt lên một cách cung kính. “Đút túi sáu trăm đô rồi!”
Lucas đứng dậy và nói. “Tôi té đây.” Anh đang nhìn chăm chú vào bảng điện tử, nhẩm tính. Khi đã hài lòng, anh quay sang hai viên cảnh sát. “Hai anh đi theo tôi chứ? Tôi sẽ lái chậm hôi.”
“Không, không, chúng ta xong chuyện rồi,” tên béo nói, “Cảm ơn anh Lucas.”
“Các anh phải ngừng cược ngay đi,” Lucas nói. “Mấy vòng đua còn lại chỉ toàn vớ vẩn thôi. Không kiếm chác được gì đâu. Và, Bucky này.”
“Vâng?” Tên béo nhìn lên sau khi dán mắt vào tấm ghi cược đã thắng.
“Anh sẽ không báo cho IRS về sáu trăm đô vừa thắng cược đó chứ?”
“Ồ, tất nhiên là không rồi,” anh ta vội vàng trả lời. Lucas cười toe toét rồi quay đi, trong khi anh béo vẫn đang lầm bầm, “làm gì có chuyện.” Anh ta lại nhìn tấm vé thắng cuộc, ngước lên phát hiện thấy cô nàng mắt tím đang vội vã đi theo Lucas. Cô bắt kịp Lucas ngay trước khi anh bước vào trong và tên béo nhìn thấy Lucas cười nhăn nhở ngay khi họ cùng rảo bước vào phía trong tòa nhà.
“Nhìn này,” anh nói với tên gầy. Nhưng anh chàng gầy còn đang mải nhìn bảng điện tử, cái miệng hấp háy không nói nên lời. “Gì thế?” Tên béo hỉ, đồng thời nhìn về phía Lucas. Anh và cô nàng mắt tím đã biến mất.
“Tao không hiểu rõ lắm về cái trò đua ngựa củ chuối này,” tên gầy nói, “nhưng nếu theo bảng điện tử kia và nếu tao tính đúng, chiến quả cho vụ cược một hai này, Lucas ẵm gọn hai mươi hai ngàn hai trăm năm mươi đô.”
***
Phòng làm việc của cảnh sát trưởng chiếm một góc ở tầng một của Tòa thị chính Thành Phố. Cửa sổ choán phần lớn hai bức tường quay ra phố, hai bức tường còn lại treo đầy các tấm ảnh được đóng khung, cái có màu, cái đen trắng, xếp theo thứ tự thời gian từ những năm bốn mươi. Những bức ảnh của Daniel và gia đình chụp cùng với sáu vị Thống đốc Minnesota trong sáu nhiệm kỳ gần đây nhất và năm trong sáu Thượng nghị sĩ của nhiệm kỳ gần đây nhất cùng một dãy dài các khuôn mặt vô danh trông hao hao giống nhau – những khuôn mặt chiếm chỗ ngồi trong các bữa tối trọng đại của những nhân vật chóp bu trong giới chính trị. Ngay phía sau chỗ ngồi của cảnh sát trưởng là huy hiệu hình khiên của Sở Cảnh sát Minneapolis và một bảng vinh danh những cảnh sát đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.
Lucas ngồi ườn người trên chiếc ghế bọc da ngay phía trước bàn của cảnh sát trưởng. Anh rất ngạc nhiên, mặc dù anh đã cố không thể hiện nó. Đã khá lâu rồi chẳng có gì có thể khiến anh ngạc nhiên, ngoại trừ đàn bà.
“Cay không?” Quentin Daniel đang tì lên tấm kính chắn, quan sát Lucas. Daniel có cái dáng mặt trông giống một cớm sếp đến nỗi mà nhiều đối thủ chính trị trước đây của ông ta, gời đều đang làm những công việc khác, đã lầm tưởng rằng ông ta bám trụ được vào cái ghế đó là nhờ khuôn mặt. Nhưng họ đã lầm.
“Có. Cay chứ. Nhưng ngạc nhiên nhiều hơn.” Lucas không thực sự thích Daniel nhưng lại nghĩ rằng ông ta có lẽ là người thông minh nhất trong lực lượng cảnh sát ở đây. Anh hẳn sẽ rất ngạc nhiên, một lần nữa, nếu biết rằng ông ta cũng nghĩ về anh hệt như thế.
Daniel hơi quay ra phía cửa sổ, đầu nhô lên, vẫn đang quan sát.
“Anh có thể hiểu vì sao mà,” ông ta nói. “Ông nghĩ chính tôi làm hả?”
“Một vài người ở tổ điều tra giết người nghĩ rằng đó cũng là một giả thiết đáng để cân nhắc,” Daniel nói.
“Tốt nhất ông nên kể lại từ đầu đi,” Lucas nói.
Daniel gật đầu, đẩy cái ghế ra xa khỏi bàn, đứng dậy và tản bước đến phía bức tường treo đầy ảnh. Ông ta xăm soi tấm hình Hubert Humphrey như thể ông ta đang tìm kiếm một nhược điểm nào đó.
“Hai tuần trước, anh chàng của chúng ta đã tấn công một phụ nữ ở St. Paul, một nghệ sĩ có tên là Carla Ruiz,” ông ta nói, mắt vẫn không ngừng soi xét tấm hình Humphrey. “Cô ta đã cố gắng chống trả hắn. Khi cảnh sát tới đó, viên trung sĩ thấy cô ta đang đọc một mẩu tin nhắn. Đó là một trong những quy tắc mà hắn để lại sau khi hành sự.”
“Tôi chưa từng nghe tí gì về cô Ruiz này cả,” Lucas nói. Ông sếp quay lại rồi thong thả ngồi lại vào ghế, hai tay đút túi quần. “Phải rồi. Mà viên trung sĩ này rất thông minh, anh ta biết vụ những mẩu tin nhắn trong hai vụ trước. Anh ta gọi cho sĩ quan phụ trách điều tra hình sự ở St. Paul và họ đã tiến hành bảo vệ vật chứng. Những người biết được chuyện này gồm có cảnh sát trưởng St. Paul, trưởng phòng điều tra hình sự St. Paul, hai sĩ quan nghe cuộc gọi, một vài người thuộc phòng điều tra hình sự ở đây, tôi, cô họa sĩ đó. Và bây giờ là anh. Và tất cả những người đó đều được cảnh báo rằng, nếu thông tin này bị rò rỉ, thì chắc chắn sẽ có kẻ phải đi nhặt rác kiếm sống đấy.”
“Thế quái nào mà chuyện đó lại liên quan đến tôi?” Lucas bực dọc hỏi.
“Nó không liên quan. Bây giờ thì chưa. Nhưng anh chàng của chúng ta đã làm rớt khẩu súng của hắn khi vật lộn với cô họa sĩ kia. Việc đầu tiên chúng tôi là làm xét dấu vân tay và truy nguồn gốc. Kiểm tra tất cả và không có dấu tay nào, kể cả trên vỏ đạn. May mắn là chúng tôi tìm ra chủ nhân của nó, trong mười phút. Nó xuất phát từ nhà máy, tới một cửa hàng trên đại lộ Hennepin và từ đó, tới một gã có tên là David L. Losse...”
“David L. Losse mà ta biết phải không?” “Anh nhớ vụ đó chứ?”
“Bắn con trai hắn, rồi nói đó là vụ tai nạn phải không? Vì hắn nghĩ có kẻ đột nhập vào nhà hắn?”
“Chính hắn. Hắn bị kết tội ngộ sát, mặc dù có lẽ đó là một vụ giết người có chủ đích. Hắn bị kết án sáu năm và chỉ phải chịu án có bốn năm. Nhưng hắn vẫn kháng cáo. Và có kháng cáo, bằng chứng đáng ra phải được lưu kho. Chúng tôi lên đó để xem. Khẩu súng đã biến mất. Hay nói cách khác là nó đã mất dạng cho tới tận khi tên sát nhân kia làm rơi.”
“Khỉ thật.” Đã từng có nhiều thứ biến mất khỏi phòng lưu trữ vật chứng. Năm gam cô-ca-in chỉ còn có bốn. Hai mươi tờ tạp chí khiêu dâm chỉ còn mười lăm. Nhưng cho đến nay, thì đây là lần đầu tiên một khẩu súng bị biến mất.
“Anh đã vào phòng tang chứng đôi lần – trong vụ Ryerson và vụ ồn ào về nhóm cướp ở Chicago. Chúng tôi đã kiểm tra chéo mọi thứ từ mấy vụ giết người và các nhân chứng. Thời gian, địa điểm, mô tả của cô họa sĩ. Chúng tôi loại bỏ những nghi phạm là các phụ nữ đã tiếp cận với phòng lưu trữ đó. Chúng tôi có thể loại bỏ nghi phạm là những sĩ quan có xác nhận rằng đang thực hiện nhiệm vụ khi mấy vụ đó xảy ra. Đã có người đã bị giết hoặc tấn công trong cả ba vụ đó... Tóm lại, cơ bản là chúng tôi lại lần ra manh mối dẫn đến tên anh. Anh là khớp nhất. Không ai biết anh đã ở đâu. Anh là người nghiện trò chơi và rõ ràng tên nghi phạm này cũng đang chơi một trò nào đó. Và khẩu súng thì biến mất khỏi phòng tang chứng. Tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ rằng hung thủ có thể là anh, nhưng... Anh thấy đấy, mọi thứ dẫn đến anh.”
“Vâng, tôi hiểu,” Lucas chua chát. “Cảm ơn nhiều.” “Này! Phải là anh thì anh sẽ làm thế nào chứ?” Daniel gặng hỏi phản kháng.
“Được rồi.”
“Giờ thì, chúng tôi biết anh trong sạch rồi,” cảnh sát trưởng nói. Ông ta dựa vào ghế, duỗi người, bắt chéo hai chân. “Vì anh chàng của chúng ta đã làm một vụ khác. Mới khoảng bốn đến sáu tiếng trước thôi. Chúng tôi tính ra đó là lúc anh ngồi trên bãi cỏ và đang xơi táo.”
Lucas gật đầu, “Vụ này ở đâu?”
“Phía Tây hồ Nokomus, trên khu đồi.” “Ông ém vụ này lại được không?”
“Không được đâu.” Daniel lắc đầu. “Đây là vụ thứ ba rồi. Nếu chúng ta cố giấu, cái vòi thông tin gỉ sét sẽ nhỏ từng giọt và chúng ta chỉ cầm cự được đến chiều mai thôi. Như thế sẽ còn rắc rối hơn là công khai luôn. Tôi đã triệu tập một cuộc họp báo vào lúc chín giờ tối nay. Như thế sẽ đủ thời gian cho các nhà đài phát sóng vào bản tin mười giờ đêm. Tôi muốn anh tham gia. Tôi sẽ cung cấp thông tin chính về vụ án, kêu gọi sự hỗ trợ, đại loại thế. Và tôi sẽ chỉ định anh phụ trách vụ án, toàn thời gian.”
“Tôi không muốn vụ này,” Lucas nói. “Tôi phát ngấy mấy vụ điều tra giết người. Các anh đi loanh quanh cả ngày, xét hỏi mấy người dân chẳng biết cái đếch gì. Có vài tay có thể làm chuyện đó tốt hơn. Và tôi có hàng tá việc phải làm trong vụ điều tra ma túy. Tôi tóm được gần chục nghi phạm...”
“Rồi, rồi, rồi, những cái đó thì tốt lắm rồi, nhưng truyền thông sẽ làm um lên nếu không tóm được tên khốn này,” Daniel nói, cắt ngang câu của Lucas. “Thế anh không nhớ vụ hai người phụ nữ bị giết ở bãi đỗ xe cao tầng vài năm trước à? Hình như cách nhau có hai ba tuần gì đó, thủ phạm khác nhau? Chỉ là trùng hợp phải không? Anh không nhớ cái bọn truyền thông khốn kiếp đã mất trí thế nào sao? Anh quên họ đã tổ chức mấy cái hội thảo hướng dẫn tự vệ trên truyền hình ra sao à? Rồi liên tiếp các bản tin mỗi tối? Anh quên hết rồi à?”
“Có nhớ rồi.” Đó thực sự là một cơn ác mộng.
“Chuyện này sẽ còn tồi tệ hơn. Vụ mấy gã ở bãi đỗ xe, chúng ta tóm được một tên ngay hôm đó. Tên còn lại bị tóm ngay sau đó mấy ngày sau đó. Thế mà ta vẫn loạn hết cả lên. Tên khốn này đã làm ba vụ, tấn công thêm một nạn nhân khác, hiếp họ rồi kết liễu họ bằng mấy nhát dao và hắn vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”
Lucas gật đầu, đưa tay xao cằm. “Anh nói đúng. Họ sẽ làm toáng lên,” anh thừa nhận.
“Hãy bảo đảm. Chuyện này không được phép xảy ra ở thành phố Đôi. Nên bỏ mẹ cái vụ ma túy đi. Tôi muốn anh lo vụ này. Anh sẽ độc lập tác chiến và bên điều tra giết người sẽ tiến hành song song. Truyền thông sẽ thích thế. Họ cho rằng anh là thể loại thiên tài số dách gì đó.”
“Bên điều tra giết người nghĩ sao về chuyện tôi lo vụ này?” Lucas hỏi.
“Sẽ có người than thở, họ lúc nào chả thế, nhưng họ sẽ hợp tác. Ngoài ra, tôi cóc quan tâm họ nghĩ gì. Mông họ có ở trên đống lửa đéo đâu. Mông tôi chứ. Tôi chuẩn bị cho nhiệm kỳ mới của năm tới rồi và tôi không muốn vụ này đè tôi tới tận lúc đó,” Daniel nói.
“Tôi có toàn quyền chứ?”
“Tôi đã nói chuyện với Lester. Anh ta sẽ hợp tác. Chắc chắn vậy.” Lucas gật đầu. Frank Lester là phó phụ trách điều tra và nguyên trưởng phòng phụ trách cướp của - giết người.
“Tôi muốn nói chuyện với cô họa sĩ này,” Lucas nói. Daniel gật đầu. “Cô gái này nghèo xơ xác. Chúng tôi đã phải mua cho cô ta một cái điện thoại sau vụ tấn công hai ngày.
Phòng khi tên sát nhân kia quay lại. Đây là số điện thoại và địa chỉ của cô ta.” Ông ta đưa cho Lucas một mẩu giấy.
Lucas nhét mẩu giấy vào túi quần. “Bây giờ họ đang xử lý vụ hồ Nokomis à?”
“Đúng vậy.”
“Tốt hơn tôi nên xuống đó.” Anh đứng dậy và đi ra cửa, bỗng nhiên dừng lại, quay người rồi hỏi, “Ông thực sự không nghĩ là tôi làm thật chứ?”
Daniel lắc đầu. “Tôi đã thấy anh líu ríu với cánh đàn bà.
Tôi không nghĩ rằng anh có thể làm điều đó với họ. Nhưng tôi cần biết một cách chắc chắn.”
Lucas đã quay người đi, nhưng Daniel ngăn anh lại. “Và này, Davenport.”
“Vâng?”
“Nhớ quay về tham gia họp báo, được chứ? Mặc như vậy đi, áo phông thể thao với quần ka ki ấy. Mà anh có quần bò không? Quần bò chắc sẽ hay hơn. Cái giống mà người ta gọi là gì nhỉ? Quần bò loang?”
“Tôi có thể thay đồ trên đường trở về đây. Tôi có vài chiếc bò thô.”
“Gì cũng được. Anh biết lũ truyền hình hay thích các sĩ quan hoạt động ngầm trên phố mà. Gọi là gì ấy nhỉ?”
“Văn phòng thông tin đặc biệt.”
Cảnh sát trưởng búng tay, gật đầu, viết nguệch ngoạc mấy chữ “VPTTĐB” lên cuốn sổ bàn. “Gặp lại anh lúc chín giờ nhé,” ông ta nói.
***
Jeanie Lewis nằm trên cái giường nhỏ, hai tay bị trói ngược trên đầu, bị băng dính dán vào đầu giường. Vẻ đau đớn quằn quại khó tả bao trùm khuôn mặt cô. Cái miệng há cứng vì bị miếng Kotex nhét trong miệng, đôi mắt trợn ngược lên chỉ còn màu trắng dã bên dưới đôi mi hé mở. Lưng cô bị cong lên vì những sợi dây buộc, hai núm ti của bộ ngực có phần nhỏ trễ sang hai bên, trắng bệch như xác chết. Cổ chân cô bị trói vào hai góc ở cuối giường, nhưng cô đã cố khép hai chân lại, một trong những nỗ lực tự bảo vệ mình cuối cùng.
Con dao nhô ra chỗ bụng trên, ngay dưới xương ức, ngập sâu đến gần hết cán. Con dao cắm vào theo một góc không thể chính xác hơn, xiên thẳng vào tim mà không làm tổn thương tới xương hay các cơ khác.
“Cắm con dao vào rồi từ từ đẩy xuống,” trợ lý khám nghiệm tử thi nói. “Chúng tôi có thể mô tả rõ hơn sau khi giải phẫu, nhưng sơ bộ có thể nói như vậy. Chỉ là vết cắm nhỏ nhưng lại gây tổn thương ghê gớm quanh vùng tim.”
“Chuyên nghiệp?” Lucas hỏi, “Là bác sĩ chăng?”
“Tôi chưa dám khẳng định. Tôi không muốn làm anh lệch hướng. Nhưng đó phải là kẻ biết rõ mình đang làm gì. Hắn biết chính xác vị trí quả tim. Chúng tôi muốn để nguyên con dao đó cho đến khi về phòng khám nghiệm rồi chụp ảnh, chụp X-quang, nhưng nhìn cán con dao, tôi dám nói nó là con dao tốt nhất cho việc hạ sát kiểu như thế này. Mũi nhọn, sắc bén, lưỡi cứng, mỏng. Cắm ngọt lịm.”
Lucas bước tới cạnh giường, soi kỹ cán dao. Nó là gỗ thô và nhẵn mịn. Trên đó khắc nhãn hiệu “County Cork Cutlery”.
“County Cork Cutlery?”
“Quên nó đi. Có cả một ngăn kéo đầy những con dao như thế ở trong bếp.”
“Vậy là hắn lấy ở đây.”
“Tôi nghĩ vậy. Tôi làm vụ cô gái đầu tiên bị hắn giết chết. Lucy, tên cô đó thì phải. Hắn đã dùng một con dao cán nhựa, khác hẳn con dao này.”
“Mẩu tin nhắn đâu rồi?”
“Trong túi nilon1, ngay phía trên tủ ngăn kéo. Chúng tôi sẽ gửi ngay cho phòng thí nghiệm để xem có tìm được dấu vân tay không.”
1 Nguyên văn “baggie”: loại túi nilon chuyên dùng để lưu trữ thực phẩm.
Lucas bước đến chỗ chiếc tủ và xem mẩu giấy. Giấy số bình thường. Cho dù tìm được sáu cuốn sổ như vậy trong nhà một kẻ tình nghi thì cũng chẳng nói được gì cả. Những chữ được cắt ra từ một trang báo và dán cẩn thận vào mẩu giấy bằng băng dính hiệu Scotch: Không bao giờ mang theo vũ khí sau khi xong việc.
“Hắn sống theo những quy tắc này.” Người khám nghiệm nói. “Hắn thậm chí không rút con dao ra, chứ đừng nói là mang đi đâu cả.”
“Mẩu ghi chú trông sạch sẽ.”
“Ồ! Không hẳn. Chờ chút đã.” Người khám nghiệm nói. Anh ta lột găng tay đang đeo ra, thay bằng một chiếc găng phẫu thuật khác mỏng hơn, mở chiếc túi, rồi kéo một nửa mẩu giấy tin nhắn ra.
“Anh có nhìn thấy cái vết hằn có hình bán nguyệt dưới cái băng dính không?”
“Có. Dấu tay phải không?”
“Tôi nghĩ vậy. Nếu anh nhìn, anh sẽ chẳng thấy dấu tay nào cả. Nhưng nó in khá rõ nét ở đây. Vì vây, tôi nghĩ...” anh ta ngoe nguẩy mấy ngón tay về phía Lucas, “rằng hắn đeo găng tay phẫu thuật.”
“Điều đó cho thấy hắn là bác sĩ.”
“Có thể. Cũng có thể là y tá, hoặc nhân viên bệnh viện, hoặc nhân viên xét nghiệm. Và vì anh có thể mua thứ này ở cửa hàng thiết bị y tế, nên cũng có thể là người bán hàng. Dù hắn là ai, thì tôi chắc rằng khi hắn ngồi ở nhà soạn mẩu tin nhắn này, hắn cũng đeo găng tay. Vậy nên, bây giờ chúng ta biết thêm một điều là: hắn là một thằng biến thái tâm thần và rất thông minh.”
“Rồi. Tốt lắm. Cảm ơn anh, Bill.”
Người khám nghiệm khẽ đẩy lại mẩu giấy vào trong túi. “Chúng tôi mang cô ấy đi được chưa?” Anh ta hỏi, hất đầu về phía Lewis.
“Tôi xong rồi, nếu bên điều tra giết người cũng xong thì anh cứ mang đi.” Một sĩ quan điều tra có tên là Swanson đang ngồi trong bếp, gặm suất hăm-bơ-gơ BigMac kèm với khoai tây chiên và sữa mạch nha2. Lucas bước tới cửa phòng ngủ, đứng đó rồi gọi với sang anh ta. “Tôi xong rồi. Liệu họ mang cô ấy đi được chưa?”
2 Nguyên văn “a malt”.
“Mang đi,” Swanson trả lời với cái miệng nhồm nhoàm đầy khoai tây.
Người khám nghiệm giám sát việc chuyển xác nạn nhân đi, còn Swanson thủng thỉnh đứng nhìn. Họ chùm túi qua đầu nạn nhân, cẩn thận tránh con dao và nâng cô gái lên đặt vào chiếc xe cáng.
Như một bao tải cát, Lucas nghĩ.
“Phía dưới nạn nhân có gì không?” Swanson hỏi.
“Chẳng có gì cả,” người khám nghiệm nói. Họ cùng nhìn xuống tấm ga trải giường một thoáng, rồi người khám nghiệm gật đầu ra hiệu cho nhân viên, đẩy xe cáng ra khỏi phòng.
“Phòng thí nghiệm sẽ mang thiết bị tới. Họ vẫn chưa tìm dấu vân tay trên đồ đạc,” Swanson nói. Ý anh ta là: Đừng đụng vào gì cả. Lucas mỉm cười. “Họ sẽ mang cái ga giường này đi phân tích.”
“Tôi còn chẳng thấy vết gì cả.”
“Không. Chúng rất sạch sẽ. Tôi cũng không nghĩ là có sợi tóc nào rớt lại. Tôi đã xem rất kỹ, nhưng chẳng có lấy một mẩu móng tay gãy, chẳng có thứ gì sót lại phía dưới chỗ nằm, kể cả là một mẩu gàu hay một vết máu.”
“Chết tiệt.” “Vậy đấy.”
“Tôi muốn xem xét quanh đây một chút. Anh có thấy gì đáng chú ý không?”
“Có khoai tây...” “Khoai tây á?”
“Khoai tây trong một cái tất. Ở ngoài phòng khách.” Lucas theo anh ta xuống phòng khách và Swanson lấy chân chỉ vào gầm chiếc ghế đàn piano. Có một cái tất bình thường và một cục lổn nhổn bên trong.
“Tôi nghĩ rằng hắn đã dùng nó để đánh vào đầu cô gái,” Swanson nói. “Viên sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường đã ngó vào nó một chút khi nhìn thấy nó, rồi để nguyên đó cho đội điều tra hiện trường xử lý.
“Sao anh lại nghĩ hắn ta đập cô gái bằng cái đó?” Lucas thắc mắc.
“Vì khoai tây nhồi vào trong tất là để làm vậy mà,” Swanson nói, “Hoặc, ít nhất là trước kia người ta từng làm như vậy.”
“Gì cơ?” Lucas băn khoăn.
“Chuyện đó có lẽ là từ hồi anh chưa sinh ra cơ,” Swanson nói. “Trước đây là vậy, lâu lắm rồi, người ta lên khu công viên Loring để lùa mấy tên đồng tính, hoặc xuống khu đại lộ Washington để tóm mấy gã bợm rượu. Họ sẽ mang theo khoai tây. Như thế không có gì phạm pháp cả. Nhưng nếu anh nhét chúng vào một cái tất, anh sẽ có một cái dùi cui xịn sò. Và nó mềm nên nếu anh cẩn thận, anh sẽ không đập vỡ sọ ai cả. Anh sẽ không làm ai phải chết cả, và như thế sẽ chẳng ai thèm tin anh đâu.”
“Thế, làm sao mà Chó điên biết chuyện đó, chẳng lẽ hắn đồng tính.”
Swanson nhún vai. “Có thể hoặc cũng có thể hắn là cớm. Rất nhiều cự cảnh sát tuần tra biết rõ việc này.”
“Nghe có vẻ sai sai,” Lucas nói. “Tôi chưa bao giờ nghe chuyện một tên sát nhân hàng loạt là cao niên cả. Nếu hắn định trở thành sát nhân, hắn phải bắt đầu lúc trẻ chứ. Mười mấy, hai mấy, hoặc ba mấy chứ.”
Swanson chăm chăm nhìn Lucas. “Anh sẽ tham gia điều tra vụ này chứ?” Anh ta hỏi.
“Chắc thế rôi,” Lucas nói. “Anh có vấn đề gì à?”
“Không phải tôi. Anh là người duy nhất tôi gặp mà phá được án. Tôi có cảm giác lần này chúng ta sẽ cần điều đó.”
“Vậy, mấy ông cảnh sát khác trong phòng điều tra giết người nghĩ sao?”
“Một vài tên lính mới nghĩ rằng anh đang phá rối. Hầu hết những người cũ, họ biết rằng một trận cuồng phong sắp ập tới. Họ chỉ cần giải quyết cho xong vụ này. Anh sẽ không gặp vấn đề gì đâu.”
“Tôi đánh giá cao chuyện đó.” Lucas nói. Swanson gật đầu rồi lảng ra chỗ khác.
***
Người phát hiện ra Lewis là một cò nhà đất khác. Lewis có một cuộc hẹn tầm giữa chiều và khi cô ấy không tới, nhân viên kia thấy lo lắng nên đã đi tìm. Khi Lucas tới, chen chân qua vòng tròn những người hàng xóm đang rầu rĩ đứng đợi bên ngoài ngôi nhà và trên bãi cỏ phía bên kia đường, Swanson đã nói sơ qua cho anh biết về lý lịch của Lewis.
“Đang cố môi giới bán căn nhà.” Anh ta kết luận. “Những người chủ nhà đâu?”
“Là một cặp vợ chồng già. Hàng xóm nói họ tít dưới Phoenix, họ mua một căn ở đó và đang cố bán căn này đi.” “Đã có ai tới xem xét nhà của Lewis chưa?”
“À, có rồi, Nance và Shaw. Chẳng có gì cả. Hàng xóm nói cô ấy là người tốt. Thích vườn tược, có một khu vườn rộng sau nhà. Bố cô ấy làm cho công ty 3M, chết vì đột quỵ cách đây năm, sáu năm. Cô ấy tự lo mọi việc, cuộc sống đang khá dần lên. Đó là những gì hàng xóm nói.”
“Có bồ chưa?”
“Hình như có. Một bà cô hàng xóm có vẻ như biết anh ta, nhưng bà ấy đã không có ở nhà mấy ngày rồi và chúng tôi hiện giờ không biết bà ta ở đâu. Một người hàng xóm khác nói anh chàng đó kiểu như giảng viên hay làm gì đó ở trường đại học. Chúng tôi đang kiểm tra và làm tất cả các thủ tục, tìm hiểu qua tất cả những người hàng xóm xem họ có nhìn thấy ai ra vào căn nhà hay không.”
“Kiểm tra gara chưa?”
“Rồi. Không có xe nào.” “Vậy anh nghĩ sao?”
Swanson nhún vai. “Tôi nghĩ là hắn ta gọi cho cô gái, nói rằng muốn xem căn nhà, hắn sẽ gặp cô gái ở đâu đó. Hắn ta sẽ nói gì đó khiến cô gái nghĩ rằng vị khách này chắc ổn nên họ cùng lái xe đến đây, và đi vào bên trong. Hắn thịt cô gái, lái xe của cô ấy đi rồi quẳng nó ở một xó và đi bộ về. Chúng tôi đang tìm chiếc xe.”
“Thế đã có ai kiểm tra lịch làm việc ở văn phòng của cô ấy chưa?”
“Rồi, chúng tôi đã gọi điện. Sếp cô ta nói chẳng có gì trên bàn cả. Ông ta nói cô gái mang theo cuốn sổ tay ghi lịch hẹn. Chúng tôi đã tìm thấy cuốn sổ, nó chỉ ghi là ‘mười hai giờ bốn mươi lăm’. Chắc đó là thời gian hẹn gặp hắn.”
“Túi xách của cô ấy đâu?” “Ở chỗ cửa trước.”
Lúc này, Lucas đi một vòng quanh nhà và nhìn thấy cái túi xách và dừng lại ngay đó. Một góc chiếc ví nhô ra khỏi túi xách, anh nhẹ nhàng lấy ra và mở khóa. Tiền. Bốn mươi đô và một ít tiền lẻ. Thẻ tín dụng. Danh thiếp. Lucas lấy ra một thếp phong bì nhựa đựng ảnh rồi lật xem một lượt. Không có tấm ảnh nào trông mới cả. Anh nhìn quanh, thấy Swanson đang đứng ở cửa phòng ngủ nói chuyện với ai đó khuất tầm nhìn. Anh rút một tấm ảnh ra khỏi phong bì. Trong bức ảnh, Lewis đứng trên thảm cỏ cùng một cô gái khác, cả hai trông như đang cầm một loại bảng gì đó. Lucas kéo khóa ví lại, nhét trả vào túi xách và cất tấm hình vào túi.
***
Trời đổ lạnh khi Lucas rời hiện trường. Anh lấy chiếc áo gió từ trong xe, mặc vào rồi ngồi lên ghế lái trong chốc lát, quan sát những người đang đứng xem. Không ai có vẻ khác thường. Anh thực sự không tin rằng thủ phạm vẫn còn đang cố nán lại hiện trường.
Trên đường trở về trụ sở, anh đi lối cắt qua sông St. Paul, tạt về nhà, thay quần bò và đổi chiếc áo gió bằng một chiếc áo khoác thể thao vải lanh màu xanh. Anh suy tính một lát, rồi lấy khẩu súng lục tự động cỡ nòng hai mươi lăm ly nhét vào chiếc bao da mắt cá chân giấu trong ngăn bàn, thắt chiếc bao vào cổ chân phải rồi kéo ống quần bò xuống che đi.
***
Chiếc xe tải thu phát sóng từ xa bên đài truyền hình đã đậu sẵn ngoài Tòa thị chính khi Lucas tới Sở Cảnh sát. Anh đậu xe trong nhà xe đối diện bên đường, lại thấy cảm giác ngạc nhiên vì sự xấu xí không giấu đi đâu được của tòa nhà. Anh vào bằng cửa sau và đi thẳng xuống phòng làm việc của mình.
Sau khi anh bị điều chuyển khỏi phòng điều tra trộm cướp, bên hành chính phải tìm một văn phòng khác cho anh. Cấp hàm của anh đòi hỏi phòng ốc hẳn hoi. Nhưng Lucas tự tìm cho mình một phòng lưu trữ có cửa thép ở tầng hầm. Nhân viên vệ sinh dọn dẹp căn phòng đó và đánh số lên cánh cửa bằng sơn. Không có dấu hiệu nào cho biết ai đang sở hữu căn phòng. Và Lucas thích như thế. Anh mở cửa, đi vào và bấm số của Carla Ruiz.
“Carla nghe đây,” giọng cô khàn nhưng dễ nghe.
“Tôi là Lucas Davenport, Trung úy Sở Cảnh sát Minneapolis,” anh nói. “Tôi cần nói chuyện với cô. Càng sớm càng tốt.”
“Chúa ơi, tối nay không được...”
“Chúng tôi vừa có một vụ giết người nữa.” “Ôi, không. Ai thế?”
“Một cô nhân viên môi giới nhà đất ngay ở Minneapolis này. Thông tin đó sẽ xuất hiện trên bản tin lúc mười giờ tối nay.”
“Tôi không có ti vi.”
“Ừm... Nghe này, ngày mai thì sao? Tôi tạt qua chỗ cô lúc một giờ có được không?”
“Vậy cũng được. Lạy chúa! Thật tội nghiệp cho cô gái.” “Rồi. Hẹn gặp cô ngày mai nhé.”
“Làm sao tôi nhận ra anh?”
“Cô thấy ai ngậm bông hoa hồng trên miệng nhé,” anh nói. “Và cái huy hiệu màu vàng nữa.”
***
Phòng họp báo chật ních các thiết bị, dây cáp, mấy anh kỹ thuật chửi thề không ngớt và các viên cảnh sát lãnh đạm. Nhân viên quay phim thì thào qua lại để phối hợp ánh sáng, phóng viên báo viết nhấp nhổm trên các ghế gấp, tán gẫu hoặc ghi chú nguệch ngoạc trên giấy, phóng viên truyền hình đôn đáo khắp nơi cố kiếm vài mẩu tin tức hoặc tin đồn để thêm mắm thêm muối vào bản tin của mình cho hay hơn đài bạn. Một tá mi-cờ-rô được gắn sẵn trên bục phát biểu trước phòng trong khi các máy quay phim được gắn trên chân giá xếp thành hình bán nguyệt xung quanh. Một nhân viên hậu cần đang loay hoay gắn lại cán cờ bị gãy để treo chiếc quốc kỳ. Một nhân viên khác đang cố nhét thêm vài chiếc ghế gấp vào giữa bục phát biểu là hàng máy ghi hình. Lucas đứng ở cửa phòng, chần chừ một lát, tia thấy hàng ghế trống phía cuối và vừa định bước tới đó thì một bàn tay bám vào ống tay áo anh từ phía sau.
Anh quay lại nhìn Annie McGowan. Đài Số Tám. Tóc đen, mắt đen, mũi thẳng. Cái miệng rộng và dẻo. Chân dài miên man như hoa hậu. Giọng phát thanh cực hay. Thông minh khó lường.
Lucas mỉm cười.
“Anh thế nào rồi, Lucas?” Cô thì thầm, đứng sát lại, ôm lấy tay anh.
“Cảnh sát trưởng sẽ tới trong năm phút.”
“Bên em sẽ có bản tin nhanh trong bốn phút nữa. Em sẽ vô cùng biết ơn nếu em biết chuyện gì đang diễn ra để có tiêu đề hay ho nhất,” cô nói. Cô cười một cách nài nỉ và gật đầu về phía đám dây cáp chạy ra ben ngoài căn phòng. Buổi họp báo đang được truyền trực tiếp về phòng phát thanh của cô.
Lucas liếc nhìn xung quanh. Không có ai để ý đến họ. Lucas hất nghiêng đầu về phía cửa và họ lẻn ra ngoài.
“Nếu em nói ra tên anh, anh sẽ gặp rắc rối to đấy,” Lucas thì thầm. “Đây là thỏa thuận chung giữa hai chúng ta nhé.”
Mặt cô ửng đỏ. “Nhất trí.”
“Bọn anh đang phải điều tra một vụ giết người hàng loạt. Hắn vừa hạ sát nạn nhân thứ ba hôm nay xong. Hắn hiếp họ và kết liễu họ bằng một nhát dao. Vụ đầu tiên cách đây sáu tuần, rồi đến vụ thứ hai là bốn tuần. Tất cả đều ở Minneapolis. Bên anh đã muốn lặng lẽ tóm cổ hắn, nhưng bây giờ quyết định sẽ công khai vụ này.”
“Ôi, Chúa ơi!” Cô thốt lên. Cô quay nửa người, bước đi vội vàng như chạy tới hành lang thoát hiểm theo hướng mấy sợi dây cáp.
“Anh đã nói gì với ả đó thế?” Jennifer Carey vụt hiện ra từ trong đám đông. Cô đã dõi theo hai người từ nãy. Một cô gái tóc vàng cao ráo với môi dưới dày và đôi mắt xanh, cô có bằng cử nhân kinh tế trường Standford và bằng thạc sĩ ngành báo chí trường Columbia. Cô làm việc cho Đài TV3.
“Chẳng gì cả.” Lucas nói. Tốt nhất là nên làm cứng như vậy. “Xì, lại nói dối. Em phải lên sóng ngay trong vòng...” Cô nhìn đồng hồ. “Hai phút rưỡi nữa. Nếu ả đó mà thắng vụ này, em không biết em sẽ làm gì đâu nhé, nhưng em rất tỉnh và sếp sẽ rất, rất hối tiếc đấy.”
Lucas liếc nhìn xung quanh. “Được rồi.” Anh nói, chỉ một ngón tay về phía cô, “nhưng anh nợ cô ấy một vụ. Nếu em mà nói với cô ấy rằng anh cũng tiết lộ tin này cho em thì đừng hòng moi thêm được một chữ nào từ anh nữa.”
“Chốt luôn,” cô nói. “Vụ đó là gì thế ạ?”
***
Khuya hôm đó, Jennifer Carey nằm sấp trên giường Lucas, xem anh cởi đồ, nhìn anh cởi cái bao súng giấu dưới chân ra.
“Anh đã bao giờ phải dùng đến nó chưa? Hay chỉ đeo nó đó để hấp dẫn phụ nữ thôi?” Cô hỏi.
“Chuyện đó nói ra ngại quá,” Lucas nói dối. Jennifer đôi khi làm anh hồi hộp. Anh có cảm giác như cô đang nhìn thấu suy nghĩ của anh. “Sẽ có lúc phải dùng đến mà. Ý anh là, giả sử em muốn mua một ít chất cấm của một gã nào đó, em không thể cầm theo súng được. Hắn sẽ biết ngay em là cớm hoặc không thì cũng quy em vào loại tâm thần và hắn sẽ không tiếp, không bán cho đâu. Nhưng nếu em đang ẩn nấp để theo dõi ở một chỗ quái quỷ nào đó và em cần đến súng, em sẽ có súng ngay trước mặt chúng mà chúng không có cách nào để biết trước được.”
“Nghe chẳng giống như ở Minneapolis tí nào.”
“Em không nghe mấy tin đồn thất thiệt à. Nếu em cứ đi loanh quanh với một mớ tiền trong tay mà xem ...” Anh cởi tất ra và đứng dậy, kéo quần đùi lên. “Tắm nhé!”
“Vâng, vậy cũng được.” Cô lăn người qua một cách nhẹ nhàng, bước ra khỏi giường và đi theo anh vào phòng tắm. Hoa văn trên tấm ga trải giường in hằn lên bụng và đùi cô.
“Anh có thể đưa McGowan về nhà mà,” cô nói trong khi anh vặn nước và điều chỉnh nóng lạnh.
“À thì cô ấy cũng có chút tình ý với anh,” Lucas thừa nhận. “Vậy sao không phải đêm nay? Anh có bao giờ là chê hàng mới đâu.”
“Cô ấy ngốc xít lắm.” Lucas xả nước ấm vào lưng cô và thoa lên đó sữa tắm từ một lọ nhựa. Anh xoa khắp lưng cô rồi xuống mông.
“Chuyện đó đã làm anh chùn bước bao giờ đâu,” cô nói. Lucas tiếp tục xoa. “Em biết một vài cô mà anh rủ đi chơi rồi đó. Nói anh nghe xem có ai ngờ nghệch không?”
Jennifer nghĩ một lát. “Em có biết hết bọn họ đâu,” cuối cùng cô cũng nói.
“Nhưng những người em biết đủ để cho em thấy style của anh là như thế nào mà,” anh nói. “Anh không hẹn hò với mấy cô nàng ngốc ngếch.”
“Thế thì nói chuyện với em như một anh chàng thông minh xem nào, Lucas. Tên sát nhân đó có hành hạ các cô gái trước khi giết họ không? Daniel khá là lảng tránh. Anh có nghĩ là hắn biết họ không? Hắn chọn nạn nhân thế nào vậy?”
Lucas xoay người cô lại, đặt ngón tay trỏ lên miệng cô. “Jennifer, đừng moi tin từ anh, được chứ? Nếu em làm anh lơ đễnh, rồi anh phọt ra cái gì đó và em dùng thông tin đó, anh sẽ gặp rắc rối to.”
Cô nhìn anh với ánh mắt dò xét, nước rơi xuống, nhảy trên ngực anh, ánh mắt xanh nhạt của anh tối sầm lại với một thoáng lo lắng hiện ra.
“Em sẽ không dùng thông tin gì mà không báo trước với anh.” Cô nói. “Nhưng anh chẳng bao giờ lộ ra cái gì cả. Không phải là anh không tiết lộ cho em biết điều gì. Anh là tên khốn láu cá, Davenport ạ. Em đã quen anh ba năm trời mà chưa khi nào em biết anh đang nói thật hay nói dối. Em chưa từng gặp gã đàn ông nào diễn kịch khéo như anh. Thậm chí, em còn nghĩ là chính anh cũng không biết khi nào mình đang diễn kịch hay không nữa.”
“Lẽ ra em phải làm bác sĩ tâm lý mới đúng.” Anh nói, lắc đầu vẻ buồn rầu. Anh ngắt nước, rồi đẩy cánh cửa nhà tắm ra. “Đưa anh cái khăn to đó, anh sẽ lau chân cho em.”
***
Nửa giờ sau, Jennifer thì thào, “Đôi lúc em thấy anh còn một chút nữa thôi.”
“Đó là mánh,” Lucas nói, “không vượt quá giới hạn.”
“Anh tới rất gần rồi còn gì,” cô nói. “Anh hẳn đã nhiều lần vượt qua giới hạn đó rồi anh thì anh mới nhận ra khi nào thì nên dừng lại.”
***
Hai giờ sau, Lucas mở choàng mắt trong bóng tối. Ai đó đang quan sát anh. Anh nghĩ đến nó. Bao súng ở trong hộc bàn... Rồi, Jennifer đụng vào anh, anh chợt nhận ra nguồn gốc của cảm giác ấy.
“Sao vậy em?” Anh thì thầm. “Anh tỉnh chưa.”
“Bây giờ thì anh tỉnh rồi.”
“Em có một câu muốn hỏi,” cô ngập ngừng. “Anh có yêu em hơn những người khác không hay tất cả chúng em chỉ là món thịt với anh?”
“Ôi! Chúa ơi,” anh rền rĩ. “Anh nói đi.”
“Em biết anh thích em mà. Thích em hơn hết. Anh có thể chứng minh.”
“Như thế nào?”
“Cái bàn chải đánh răng của em ý? Ngoài bàn chải của anh ra thì chỉ có duy nhất thêm bàn chải của em thôi.”
Một thoáng yên lặng rồi cô rúc vào vòng tay anh. “Được rồi,” cô nói. “Ngủ tiếp nào.”