Sau khi Cornor chào đời, tất cả những ai chúng tôi quen - ngoại trừ cha mẹ, những nguời rất sùng Công Giáo và luôn cầu nguyện cho nhà Grogan nhỏ bé - đều cho rằng chúng tôi đã sinh đủ con rồi. Đối với gia đình có nghề nghiệp, hai nguồn thu nhập như chúng tôi, một con là bình thường, hai con đã là hơi quá mức, còn tới ba đứa thì đơn giản là chưa từng có. Đặc biệt là sau những khó khăn chúng tôi phải trải qua khi mang thai Cornor, không ai hình dung được tại sao chúng tôi có thể muốn ép mình quay lại thời kỳ lộn xộn ấy một lần nữa. Nhưng chúng tôi đã vượt qua một chặng đường dài, mới ngày nào còn giết cây cảnh trong nhà, giờ đã làm cha làm mẹ. Hai cậu nhóc nhà chúng tôi đã đem đến nhiều niềm vui hơn bất kỳ ai hay việc gì có thể đem lại. Lúc này chúng định hình cuộc sống của chúng tôi. Khi mất đi những kỳ nghỉ nhàn nhã, những ngày thứ Bảy lười biếng nằm đọc tiểu thuyết và những bữa tối lãng mạn kéo dài đến đêm, chúng tôi đã tìm ra những niềm vui theo cách mới - trong những đĩa bột táo đầy ắp, những cái mũi nhỏ in trên ô cửa sổ và thanh âm nhè nhẹ của những bước chân chập chững vang lên trong hành lang lúc bình minh. Ngay cả trong những ngày tồi tệ nhất, chúng tôi vẫn tìm thấy một điều gì đó để mỉm cười, và giờ đã hiểu điều mà mọi ông bố bà mẹ sớm muộn cũng nhận ra, rằng chuỗi ngày kỳ lạ của thời kỳ đầu làm cha mẹ - của những cái mông quấn tã, những chiếc răng đầu tiên mới mọc hay tiếng bập bẹ khó hiểu - chỉ là khoảnh khắc rực rỡ ngắn ngủi trong vô vàn những khoảnh khắc khác của đời người.
Chúng tôi ngạc nhiên khi bà mẹ già truyền thống của chúng tôi căn dặn: "Hãy vui vẻ tận hưởng với chúng chừng nào có thể vì chúng sẽ lớn rất nhanh trước khi các con nhận ra". Lúc này, mới chỉ sau vài năm, chúng tôi hiểu ra rằng bà đã đúng. Đó chỉ là câu nói cũ rích nhưng điều chúng tôi nhận ra thấm đẫm chân lý. Bọn trẻ đang lớn như thổi, và mỗi tuần lại kết thúc một chương nhỏ mà ta không thể nào quay lại được nữa. Mới tuần nào Patrick còn mút ngón tay, tuần sau đó nó đã tự bỏ thói quen đó mãi mãi. Mới tuần nào Conor còn là đứa bé trong cũi; tuần tiếp theo nó đã dùng một cái giường cho trẻ tập đi. Patrick không đánh vần được âm L, và khi các bà các mẹ nựng cu cậu, như họ vẫn thường làm. Cu cậu có thể chống nạnh, bĩu môi, ngọng ngịu: "Mọi ngừi đang cừi con."(25) Tôi luôn muốn ghi lại hình cảnh đó, nhưng một ngày đẹp trời, âm L lại được bật ra hoàn hảo, thế đấy. Suốt nhiều tháng trời chúng tôi không thể nào lôi Conor ra khỏi bộ đồ pijama siêu nhân. Cu cậu chạy khắp nhà, áo choàng phần phật đằng sau, hét inh ỏi "Ta là Siêu Khờ đây!"(26). Rồi việc đó cũng chấm dứt, lại thêm một khoảnh khắc có thể ghi hình bị bỏ lỡ.
Con cái là cái đồng hồ thời gian chính-xác-nhất, không-thể-làm-ngơ, đánh dấu sự trôi đi không ngừng của đời người. Nếu không có con cái, quãng thời gian đó có lẽ sẽ là một đại dương mênh mông những khoảnh khắc đo bằng phút, giờ, ngày, tháng, năm đằng đẵng không dứt. Bọn trẻ nhà tôi lớn nhanh hơn chúng tôi muốn. Điều đó phần nào giải thích vì sao, một năm sau khi chúng tôi chuyển đến ngôi nhà mới ở Boca, chúng tôi bắt đầu cố gắng có đứa thứ ba. Như tôi đã nói với Jenny "Này, giờ chúng ta đã có bốn phòng ngủ; tại sao không nhỉ?" Hai lần thử là được toại nguyện. Chẳng ai trong hai chúng tôi thừa nhận muốn có con gái. Nhưng thực sự chúng tôi muốn điều đó, vô cùng mong muốn, bất chấp những tuyên bố của chúng tôi trong suốt thời Jenny mang bầu rằng việc có ba cậu con trai sẽ rất tuyệt vời. Cuối cùng kết quả siêu âm cũng xác nhận niềm hy vọng thầm kín của chúng tôi. Jenny vòng tay qua vai tôi thì thầm:
- Em thật hạnh phúc vì em có thể cho anh một cô con gái nhỏ.
Tôi cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Không phải tất cả bạn bè đều cảm thông với sự hăng hái của chúng tôi. Hầu hết phản ứng nhận được được trong thời kỳ Jenny mang thai đều có cùng một câu hỏi lỗ mãng: "Hai người có định như vậy không đấy?" Họ đơn giản không thể tin việc có thai lần thứ ba không phải do tai nạn. Nếu không phải như thế, như chúng tôi vẫn khăng khăng, thì họ lại nghi ngờ quyết định của chúng tôi. Một người quen đã đi quá xa khi trách Jenny đồng ý để tôi làm cho cô ấy dính bầu lần nữa. Cô ta hỏi, bằng một điệu bộ như thể ái ngại cho một người trót dâng trọn tài sản trần tục của cô ấy cho một nghi lễ ở Guyana: "Cậu đã nghĩ cái quái gì vậy?"
Chúng tôi không bận tâm. Ngày 9 tháng Một năm 1997, Jenny tặng tôi một món quà Giáng Sinh muộn: một bé gái má hồng, nặng ba cân hai. Chúng tôi đặt tên con là Colleen. Gia đình của chúng tôi chỉ đến lúc này mới cảm thấy hoàn chỉnh. Nếu như mang thai Conor là một cuốn kinh cầu nguyện căng thẳng và lo lắng, lần mang thai này lại hoàn hảo như một cuốn sách giáo khoa. Lần sinh nở ở Bệnh viện Cộng Đồng Boca Raton mở mang cho chúng tôi thấy một cấp độ mới trong việc thỏa mãn khách hàng. Ngay phía dưới sảnh từ phòng chúng tôi là một phòng đợi có máy pha cà phê capuchino đủ loại và hoàn toàn miễn phí - rất Boca. Khi con ra đời, tôi bồn chồn lo lắng với cốc café sủi bọt, chỉ vừa đủ giữ hai tay khỏi run trong lúc bác sĩ cắt rốn cho nó.
Colleen đầy tuần tuổi, lần đầu tiên Jenny đưa con bé ra ngoài. Đó là một ngày đẹp trời và khô ráo, hai đứa lớn cùng với tôi ở sân trước trồng hoa. Marley bị cột vào một cái cây cách đó không xa, hạnh phúc nằm trong bóng râm, ngắm nhìn thế giới trôi qua. Jenny ngồi xuống bãi cỏ cạnh nó, đặt Colleen đang ngủ trong chiếc xe đẩy di động có mui bằng mây ở giữa. Được vài phút, đám con trai vẫy mẹ lại xem công trình tự tạo của chúng. Hai đứa kéo Jenny cùng tôi đi tham quan quanh những luống hoa trong khi Colleen lim dim ngủ trong bóng râm, bên cạnh Marley. Chúng tôi tha thẩn đằng sau bụi cây lớn. Từ đó chúng tôi vẫn có thể quan sát con bé nhưng khách qua đường thì không thể nhìn thấy chúng tôi. Ngay khi tôi quay về, tôi ngừng lại, ra hiệu cho Jenny nhìn qua đám cây bụi. Ngoài đường, một đôi vợ chồng già đang đi bộ qua bỗng dừng chân và trố mắt nhìn cái quang cảnh trong sân trước nhà tôi, vẻ mặt bối rối. Lúc đầu, tôi không dám chắc cái gì khiến họ đứng nhìn chằm chằm như vậy. Sau đó thì cũng hiểu ra: từ chỗ họ, tất cả những gì họ có thể thấy là một đứa bé sơ sinh yếu ớt đơn độc với một con chó vàng khổng lồ, giống như đang trông trẻ một mình.
Chúng tôi giữ im lặng, cố nín cười khúc khích. Marley ở đằng đó, như một pho tượng nhân sư Ai Cập, nằm dài với hai chân trước bắt chéo, đầu ngẩng cao, thở mãn nguyện, cứ giây lát lại đưa mũi qua ngửi đầu đứa trẻ. Cặp đôi tội nghiệp chắc hẳn đang nghĩ mình tình cờ bắt gặp một vụ bỏ bê con cái nghiêm trọng. Không nghi ngờ gì nữa cha mẹ đứa nhỏ chắc phải đang nhậu nhẹt ở một quán bar nào đó, để lại con bé một mình cho một con chó tha mồi Labrador hàng xóm, cố gắng chăm sóc đứa bé bất cứ lúc nào. Không cần nhắc nhở, Marley tự chuyển tư thế, kê cằm ngang qua bụng đứa bé, đầu nó còn lớn hơn cả thân hình con bé. Nó thở dài thườn thượt như thể đang nói, Khi nào thì hai người họ mới về nhỉ? Nó có vẻ như đang chăm sóc con bé, có thể như vậy, dù trong bụng tôi chắc nó chỉ đang nhấm nháp hít hà hương vị của cái tã mà thôi.
Jenny và tôi đứng đó, trong bụi cây, toét miệng cười với nhau. Cái ý nghĩ rằng Marley giống như một bảo mẫu - Chó trông trẻ ban ngày - quả thật quá tuyệt. Tôi muốn đợi ở đó và xem xem cảnh tượng tiếp theo thế nào, nhưng chợt lóe lên ý nghĩ rằng viễn cảnh có thể kéo theo một cuộc gọi 911 cho cảnh sát. Chúng tôi đã thoát được tội để Conor ở hành lang, nhưng làm sao chúng tôi có thể giải thích được trong trường hợp này đây? ("Ồ vâng, tôi biết sự việc nhìn bề ngoài thế nào, thưa sĩ quan, nhưng thật ra con chó của chúng tôi rất có trách nhiệm...") Tôi rảo bước ra khỏi bụi cây, vẫy tay chào cặp đôi kia - thấy được sự nhẹ nhõm hiện lên trên mặt họ. Ơn Chúa, cuối cùng đứa bé đó đã không bị bỏ lại cho chó.
- Anh chị hẳn là rất tin tưởng chó nhà mình. - Bà già nói có phần cẩn trọng, bộc lộ niềm tin rằng những con chó rất hung dữ, khó lường và không đời nào được để nó gần một đứa bé sơ sinh không có khả năng tự vệ.
- Nó chưa ăn thịt ai cả. - Tôi nói.
Hai tháng sau khi Colleen về đến nhà, tôi chúc mừng sinh nhật thứ 40 của mình theo một cách bất hạnh nhất, tôi nghĩ thế. Tròn tứ tuần chắc chắn là một bước ngoặt trọng đại, cột mốc của cuộc đời. Ở đó bạn nói lời vĩnh biệt với tuổi trẻ không biết mệt mỏi và tận hưởng sự an nhàn của tuổi trung niên. Nếu như một sinh nhật xứng đáng với việc tiệc tùng kỷ niệm thả phanh thì đó phải là lần thứ bốn mươi, nhưng điều đó đâu có dành cho tôi. Chúng tôi bây giờ đã là những ông bố bà mẹ có trách nhiệm cùng với ba đứa con; Jenny có một đứa con mới sinh còn ẵm trước ngực. Có quá nhiều điều quan trọng hơn cần phải lo lắng. Tôi trở về từ chỗ làm, còn Jenny đã mệt mỏi và kiệt sức. Sau khi ăn qua loa thức ăn để phần, tôi tắm cho mấy cậu nhóc và đưa chúng đi ngủ trong khi Jenny chăm sóc Colleen. Trước 8 giờ 30, tất cả lũ trẻ đã ngủ ngon lành và vợ tôi cũng vậy. Tôi bật một chai bia, ngồi ở sân trong, nhìn chăm chú vào làn nước xanh lấp lánh của bể bơi được chiếu sáng. Như thường lệ, Marley vẫn trung thành đến bên tôi. Tôi gãi tai nó, chợt nghĩ nó cũng đang ở vào bước ngoặt cuộc đời. Chúng tôi đã mang nó về sáu năm trước. Theo tuổi đời của chó, lúc này rất có thể đặt nó vào đâu đó ở độ tuổi đầu tứ tuần. Nó đã âm thầm bước vào tuổi trung niên nhưng vẫn hành động như một chú chó con. Ngoại trừ hàng loạt các căn bệnh dai dẳng về tai cần tới sự can thiệp của bác sĩ Jay, nó hoàn toàn khỏe mạnh. Nó chẳng có dấu hiệu gì là lớn lên hay già đi. Tôi không bao giờ nghĩ về Marley giống như một hình mẫu. Nhưng khi ngồi đó nhấm nháp bia, tôi nhận ra rằng có thể nó đã nắm giữ bí mật của một cuộc sống tốt đẹp. Không bao giờ do dự, không bao giờ nhìn lại, sống mỗi ngày với sức sống trẻ trung, gan dạ, hiếu kỳ và ham vui đùa. Nếu bạn nghĩ rằng bạn vẫn là một gã choai, thì có thể đúng là bạn như vậy, chẳng cần quan tâm đến tờ lịch nói gì. Một triết lý không tồi cho cuộc sống.
- Nào! Anh bạn to xác. - Tôi nói, tay áp chai bia lên má nó theo kiểu chạm cốc chúc mừng giữa những cá thể khác loài. - Có mỗi tao và mày đêm nay thôi. Vì tuổi bốn mươi. Vì tuổi trung niên. Vì sự đồng hành với những con chó lớn cho tới cuối đời.
Và rồi nó cuộn tròn lại ngủ.
Mấy hôm sau, tôi vẫn chán nản với sinh nhật cô đơn một mình thì Jim Tolpin, bạn đồng nghiệp cũ, người đã sửa thói nhảy chồm lên người khác của Marley, bất chợt gọi điện mời tôi đi uống bia vào tối hôm sau, một ngày thứ Bảy. Jim đã bỏ làm báo để theo đuổi một chứng chỉ luật vào khoảng thời gian chúng tôi chuyển đến Boca Raton. Chúng tôi đã không nói chuyện với nhau suốt nhiều tháng trời.
- Chắc chắn rồi. - Tôi trả lời, không ngừng thắc mắc vì sao.
Jim đón tôi lúc sáu giờ, kéo tôi đến một quán rượu kiểu Anh. Ở đó chúng tôi nốc cạn một vại bia Bass rồi hỏi thăm về cuộc sống của nhau. Chúng tôi đã hàn huyên cho đến khi người phục vụ gọi to:
- Có ngài John Grogan ở đây không? Có điện cho ngài.
Đó là Jenny, giọng có vẻ lo lắng và căng thẳng.
- Con đang khóc, hai đứa kia không thể nào quản được. Còn em vừa bị rơi kính áp tròng! - Cô ấy gào lên trong điện thoại - Anh có thể về nhà ngay không?
- Bình tĩnh nào. - Tôi trấn an - Ngồi yên đấy, anh về nhà ngay đây.
Tôi gác máy, người bồi bàn gật đầu với tôi theo kiểu thông-cảm-với- tay-sợ-vợ-đáng-thương và nói:
- Tôi hiểu, anh bạn.
- Đi thôi. - Jim giục - Tôi sẽ chở anh về.
Khi chúng tôi rẽ vào khu nhà của tôi, cả hai bên đường đầy xe.
- Ai đó đang mở tiệc. - Tôi nói.
- Có vẻ như vậy. - Jim đáp.
- Vì Chúa. - Tôi la lên khi gần về đến nhà. - Nhìn kìa! Thằng cha nào còn đậu xe ngay lối vào nhà tôi. Xem có trơ tráo không kìa.
Chúng tôi chặn luôn lối ra của xe đó, mời Jim vào trong. Tôi vẫn còn đang bận tâm về kẻ ngớ ngẩn đã đậu xe ngay trước lối vào thì cửa trước mở ra. Đó là Jenny cùng Colleen trong tay. Cô ấy chẳng có vẻ gì là lo lắng. Thực tế, cô ấy còn nở một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Đằng sau chỗ cô ấy đứng là một đội kèn túi mặc váy. Chúa ơi! Tôi lạc vào đâu thế này. Tiếp đến, tôi nhìn ra đằng sau đội kèn và nhận thấy có ai đó đã dỡ hàng rào ngăn trẻ xung quanh bể bơi và thả những ngọn nến nổi trên mặt nước. Ở đây đầy ắp bạn bè của tôi, những người hàng xóm và đồng nghiệp. Vừa lúc tôi luận ra rằng tất cả ô tô trên đường thuộc về mọi người trong nhà tôi, tất cả đồng thanh, "CHÚC MỪNG SINH NHẬT ANH BẠN GIÀ!"
Cuối cùng vợ tôi cũng đâu có quên.
Mãi tôi mới ngậm được miệng lại. Tôi kéo Jenny vào lòng, thơm lên má, rồi thì thầm vào tai cô ấy:
- Anh sẽ thanh toán em sau.
Có người mở cửa phòng giặt để tìm thùng rác, Marley nhảy cẫng ra ngoài trong không khí tiệc tùng trọng đại. Nó lướt qua đám đông, cướp lấy món khai vị làm từ phomát và quế khỏi mâm thức ăn, tốc váy ngắn của hai phụ nữ bằng mũi, rồi phi đến bể bơi không còn hàng rào. Tôi giữ lại ngay khi nó có ý định phóng xuống nước, kéo nó trở về phòng biệt giam.
- Đừng lo. - Tôi an ủi - Tao sẽ giữ cho mày phần thức ăn thừa.
Không lâu sau bữa tiệc bất ngờ - một bữa tiệc thành công được đánh dấu bằng việc cảnh sát ghé thăm yêu cầu giải tán vào lúc nửa đêm - Marley cuối cùng cũng đã có khả năng tìm ra cách hợp lý hóa chứng sợ cực kỳ sấm sét của mình. Một chiều Chủ nhật, bầu trời u ám, tôi ở sân sau đào một khoảnh cỏ hình chữ nhật để trồng một vườn rau khác. Làm vườn đã trở thành thú vui nghiêm túc của tôi. Càng thu được kết quả tốt từ nó, tôi càng muốn trồng thêm. Dần dần tôi tiếp tục trồng khắp cả sân sau. Trong khi tôi làm việc, Marley cứ quanh quẩn ở bên, phong vũ biểu bên trong nó cảm thấy sắp xảy ra một trận bão. Tôi cũng cảm thấy thế, nhưng muốn hoàn thành nốt kế hoạch và định làm việc cho đến khi thấy những hạt mưa đầu tiên. Trong khi đào xới, tôi liếc nhìn trời, thấy một đám mây đen đáng lo ngại đang hình thành cách vài dặm ở đằng đông, phía ngoài biển. Marley khẽ rên rỉ, ra hiệu cho tôi đặt cái xẻng xuống và tránh vào trong.
- Thư giãn đi nào. - Tôi nói với nó. - Nó vẫn còn cách hàng dặm cơ mà.
Câu nói vừa dứt khỏi miệng, tôi thấy ngay một cảm giác chưa từng có trước đây, một thứ âm thanh ù ù run rẩy đằng sau gáy. Bầu trời tối sầm lại. Bầu không khí đột ngột chết lặng như thể một thế lực siêu nhiên chộp lấy những cơn gió và đóng băng chúng. Thật kỳ lạ, Tôi dừng tay nghĩ, tựa lên cán xẻng để khám phá bầu trời. Đó là khi tôi nghe thấy nó: một luồng năng lượng nổ lốp đốp, ù ù tương tự như thứ mà bạn có thể nghe thấy lúc đứng dưới đường dây điện cao thế. Tiếng phụtttttttt bao trùm quanh tôi, tiếp theo là một khoảnh khắc hoàn toàn im lặng. Trong tích tắc, tôi biết sắp có chuyện xảy ra, nhưng tôi không còn thời gian phản ứng. Trong khoảnh khắc tiếp theo, bầu trời trở nên trong trẻo, sáng rực và một tiếng nổ, âm thanh tôi chưa từng nghe thấy bao giờ, không có trong bất kỳ cơn bão, trong các buổi bắn pháo hoa hay vụ nổ nào, ầm ầm bên tai tôi. Một bức tường năng lượng giáng vào ngực tôi như một cú húc của một trung vệ vô hình. Không biết bao lâu sau tôi mở mắt ra, tôi đang nằm úp mặt xuống đất, miệng đầy cát, chiếc xẻng cách xa mấy mét, mưa trút xuống người tôi. Marley cũng ngã xuống trong tư thế nằm bẹp trên đất. Thấy tôi ngẩng đầu lên, nó tuyệt vọng trườn về phía tôi giống như một người lính trườn dưới hàng rào thép gai. Khi chạm được vào tôi, nó trèo lên lưng, sục mõm vào cổ tôi, liếm điên cuồng. Tôi nhìn quanh, cố gắng xác định vị trí. Tôi có thể thấy nơi sét đánh xuống cột điện ở góc vườn có dây dẫn xuống dưới nhà cách nơi tôi đứng khoảng sáu mét. Chiếc đồng hồ đo điện trên tường bị cháy rụi.
- Cố lên! - Tôi kêu lên, rồi sau đó Marley và tôi đã đứng dậy được, chạy xuyên qua màn mưa về phía cửa sau, trong khi những tia chớp chói lòa xung quanh chúng tôi.
Chúng tôi không dừng lại cho đến khi đã an toàn vào trong. Tôi quỳ xuống sàn, ướt nhẹp, cố lấy lại nhịp thở. Marley chồm lên tôi, liếm mặt, cắn nhẹ vào tai tôi, văng nước bọt và rũ lông lên mọi thứ. Nó không kiềm chế được nỗi sợ hãi, run lên bần bật, nước dãi đầm đìa trên cằm. Tôi ôm lấy nó, cố gắng trấn an.
- Lạy Chúa, mọi thứ đã qua rồi! - Tôi nói và thấy rõ rằng mình cũng đang run.
Nó ngước nhìn tôi, ánh mắt đồng cảm mà tôi thề là chúng biết nói. Chắc chắn tôi biết nó đang cố nói gì đó với tôi. Tôi đã cố cảnh báo ông nhiều năm rồi rằng thứ này có thể giết chết ông. Nhưng có ai nghe đâu? Bây giờ ông sẽ cho là tôi nghiêm túc chứ hả?
Con chó này có một phẩm chất đặc biệt. Có thể nỗi sợ sấm sét của nó chẳng có gì là vô lý cả. Có thể sự phá phách trong cơn hoảng loạn của nó khi mới nghe tiếng sấm đầu tiên chính là cách nó cảnh báo chúng tôi rằng những cơn bão sét dữ dội ở Florida, thứ chết chóc nhất đất nước, không thể xem thường. Có thể tất cả những bức tường bị phá hủy, những cánh cửa bị đục thủng và những miếng thảm bị xé vụn là cách để nó cố gắng xây dựng một phòng cách điện, nơi chúng tôi có thể thoải mái chui vào. Và chúng tôi đã đền ơn nó như thế nào? La mắng và những liều thuốc an thần.
Nhà tôi tối om, máy điều hòa, quạt trần, tivi, và một số dụng cụ khác tắt ngúm. Cầu dao tự động đã ngắt, biến thành một cục nóng chảy. Chúng tôi hẳn sẽ làm cho một người thợ điện cảm thấy hạnh phúc. Nhưng tôi vẫn còn sống và bạn tri kỉ của tôi cũng vậy. Jenny cùng bọn trẻ, trốn kín trong phòng gia đình, chẳng hay biết rằng ngôi nhà bị sét đánh. Chúng tôi có mặt và giải giải thích tất cả. Còn gì nữa nhỉ? Tôi kéo Marley vào lòng, cả thân hình nặng tới bốn mươi bốn cân của nó, và hứa từ nay về sau sẽ không bao giờ bỏ qua nỗi sợ hãi sức mạnh thiên nhiên chết chóc của nó một lần nữa.