Tối đó tôi ngủ chập chờn. Một giờ trước khi bình minh tôi rón rén chui khỏi giường, nhẹ nhàng mặc quần áo để không đánh thức Jenny. Ở trong bếp, tôi uống một cốc nước - cà phê sẽ phải đợi lâu - và bước ra ngoài. Ngoài trời đang mưa lâm thâm. Tôi lấy một cái xẻng và một cái cuốc chim rồi đi ra khoảng vườn trồng đậu Hà Lan. Ở đó có những cây thông trắng, nơi Marley tìm chỗ đi vệ sinh mùa đông trước. Đây là nơi tôi quyết định đặt làm nơi an nghỉ cho nó.
Nhiệt độ tầm giữa ba mươi độ F, nền đất thoáng mát không bị đóng băng. Tờ mờ sáng, tôi bắt đầu đào. Đào xuyên qua một lớp mỏng của tầng đất mặt, tôi đào tới lớp đất sét cứng, dày đặc lẫn với những viên đá - lớp đất chúng tôi dùng để san lấp sau khi đào móng ngày xưa - khiến cho tiến độ công việc chậm chạp và khó khăn. Được mười lăm phút, tôi cởi áo khoác ngoài ra, dừng lại để thở. Sau ba mươi phút, tôi toát hết mồ hôi mà vẫn chưa đào được đến nửa mét. Ở phút thứ bốn mươi lăm, tôi đào trúng mạch nước. Cái hố bắt đầu ngập. Và ngập. Chẳng mấy chốc đáy hố đã ngập bởi nước bùn lạnh. Tôi lấy một cái xô, cố gắng tát nước ra, nhưng càng ngày càng nhiều nước thấm vào. Không đời nào tôi để Marley nằm xuống cái hố nước giá lạnh đó. Không đời nào.
Bất chấp bao công sức dồn vào việc này, trái tim tôi đang đập thình thịch như vừa mới chạy ma-ra-tông. Tôi bỏ địa điểm đó và tìm kiếm khắp sân, dừng lại chỗ bãi cỏ tiếp giáp với rừng cây ở chân đồi. Ở giữa hai cây anh đào to lớn tự nhiên, những tán cây của chúng uốn cong trên đầu tôi, trong ánh bình minh xám nhạt như một thánh đường ngoài trời. Tôi hạ xẻng xuống. Những cây này cùng loại với cái cây Marley và tôi suýt đâm phải trong chuyến trượt tuyết điên rồ trước đây. Tôi nói to:
- Chính là chỗ này đây.
Chỗ này cách xa chỗ xe ủi rải đá phiến sét. Đất tự nhiên tơi xốp, một giấc mơ của người làm vườn. Việc đào bới trở nên dễ dàng hơn. Tôi sớm có được một cái hố hình ô-van cỡ khoảng 60cm x 90cm và sâu chừng 1m2. Tôi vào trong nhà, thấy cả ba đứa trẻ đều đã dậy, đang khóc thút thít. Jenny vừa thông báo với chúng.
Đứng nhìn chúng đau đớn - lần đầu tiên chúng biết tới cái chết - làm tôi quá đỗi xúc động. Vâng, đó chỉ là một con chó. Và những con chó đến rồi đi trong đời mỗi con người, đôi khi chỉ đơn giản vì chúng đem lại phiền phức. Nó chỉ là một con chó, tuy nhiên mỗi khi tôi cố gắng nói với bọn trẻ về Marley, mắt tôi lại ngấn lệ. Tôi nói với chúng là cứ khóc cũng được, và sở hữu một con chó luôn kết thúc với nỗi buồn như thế này, bởi vì loài chó không sống lâu bằng con người. Tôi nói với chúng Marley ngủ như thế nào lúc họ tiêm cho nó một mũi và nó không hề cảm thấy gì. Nó chỉ nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ rồi ra đi. Colleen rất đau khổ vì con bé không có cơ hội để nói lời tạm biệt với nó. Con bé nghĩ là nó sẽ về nhà. Tôi nói với Colleen rằng tôi đã nói lời tạm biệt thay cả nhà. Conor, tài năng chớm nở của chúng tôi, cho tôi xem một thứ nó đã làm cho Marley để đặt vào trong mộ. Đó là tranh vẽ một trái tim màu đỏ to bự, ở dưới ghi: "Gửi Marley, em hy vọng anh hiểu em yêu anh nhiều đến thế nào trong cả đời mình. Anh đã luôn ở bên mỗi khi em cần anh. Dù sống hay chết, em vẫn luôn yêu anh. Em trai của anh, Conor Richard Grogan." Sau đó Colleen vẽ tranh một cô bé đứng cạnh một con chó to màu vàng, ở bên dưới, nhờ sự giúp đỡ đánh vần của anh trai, con bé viết, "Tái bút - Em sẽ không bao giờ quên anh."
Tôi đi ra ngoài một mình và đẩy xe chở thi thể Marley từ trên đồi xuống. Tôi chặt một đống những cành thông mềm, trải trên nền cái hố. Tôi nâng cái túi đựng thi thể nặng trịch ra khỏi xe, hết sức nhẹ nhàng đặt xuống hố, cho dù đó không phải là một cách thanh nhã để làm chuyện đó. Tôi nhảy xuống hố, mở cái túi ra nhìn nó lần cuối, rồi đặt nó trong một tư tế thoải mái, tự nhiên nhất - như nó đang nằm ở trước lò sưởi, cuộn tròn lại, đầu nó rúc vào cạnh sườn.
- Được rồi, anh chàng to xác, được rồi đấy. - Tôi nói, đóng cái túi lại và quay vào nhà với Jenny và bọn trẻ.
Như một gia đình, chúng tôi tới chỗ cái mộ. Conor và Colleen đã bọc kín những bức thư của chúng bên cạnh nhau trong một cái túi ni lông. Tôi đặt nó ngay bên cạnh đầu Marley. Patrick dùng cái dao xếp của nó cắt lấy năm cành thông, chúng tôi mỗi người một cành. Từng người một, chúng tôi thả cành thông xuống hố. Mùi nhựa thông thơm thoang thoảng bốc lên xung quanh chúng tôi. Chúng tôi dừng lại im lặng một phút, sau đó tất cả đồng thanh, như thể đã diễn tập từ trước:
- Marley, chúng tao yêu mày.
Tôi nhấc xẻng lên và hất xúc đất đầu tiên xuống. Đất rơi lộp độp vào cái túi ni lông, một âm thanh khó chịu, và Jenny bật khóc. Tôi vẫn tiếp tục xúc đất. Bọn trẻ đứng đó nhìn, không nói một lời.
Khi cái hố đã lấp đầy một nửa, tôi nghỉ tay. Tất cả chúng tôi vào nhà. Chúng tôi ngồi quanh bàn bếp, kể những chuyện hài hước về Marley. Có lúc nước mắt ứa lên trong mắt chúng tôi, nhưng sau đó chúng tôi lại cùng bật cười. Jenny kể về chuyện Marley nổi điên trong lúc quay phim Cú Home-run Cuối Cùng, khi một người lạ bế bé Conor lên. Tôi nói về tất cả những cái dây đeo cổ mà nó đã làm đứt, rồi có lần nó tè bậy lên mắt cá chân một người hàng xóm. Chúng tôi nói về tất cả những thứ mà nó phá hoại và về hàng nghìn đô-la chúng tôi phải chi cho nó. Bây giờ chúng tôi có thể cười về chuyện đó. Để giúp bọn trẻ thấy tốt hơn, tôi nói với chúng những chuyện tôi cũng không tin lắm.
- Linh hồn Marley giờ đang ở trên thiên đường của loài chó đấy. Nó đang ở trên một đồng cỏ vàng rộng mêng mông, tự do chạy nhảy. Và hông nó đã khỏe lại. Nó lại nghe được, mắt nó tinh tường, và nó có cả hàm răng nguyên vẹn. Nó quay lại thời kì sung sức nhất của mình - cả ngày dài đuổi theo bầy thỏ.
- Và có tầng tầng lớp lớp cửa chắn bất tận để đâm xuyên qua. - Jenny thêm vào.
Hình ảnh nó lóng ngóng xô qua các tầng cửa chắn để tới thiên đàng làm mọi người bật cười.
Buổi sáng đang trôi qua, và tôi vẫn cần phải đi làm. Tôi quay lại mộ của nó một mình, lấp đầy cái hố, nhẹ nhàng, kính cẩn, lấy bốt nện xuống đất xốp. Khi cái hố hoàn toàn bằng phẳng so với mặt đất, tôi đặt hai phiến đá lớn lấy từ trong rừng lên trên, sau đó đi vào trong, tắm nước nóng, và lái xe đến tòa soạn.
Những ngày sau khi chôn cất Marley, cả gia đình trở nên im lặng. Con vật đã trở thành tiêu điểm gây cười cho mọi cuộc nói chuyện và những câu chuyện hàng giờ đồng hồ trong ngần ấy năm giờ trở thành chủ đề cấm kị. Chúng tôi đều cố gắng quay trở lại cuộc sống bình thường. Nhắc đến nó chỉ làm cuộc sống khó khăn hơn. Colleen đặc biệt không chịu được khi nghe tên hay nhìn thấy ảnh nó. Những giọt nước mắt ứ lên trong mắt Colleen rồi con bé nắm chặt tay lại, giận dữ nói:
- Con không muốn nói về nó!
Tôi tiếp tục lịch làm việc, lái xe đi làm, chăm lo chuyên mục, và rồi lại trở về nhà. Trong mười ba năm, tối nào nó cũng chờ tôi ở cửa. Bây giờ bước vào nhà là lúc đau đớn hơn cả. Ngôi nhà dường như im ắng, trống rỗng, không còn giống một gia đình. Jenny suốt ngày hút bụi như bị nghiện, quyết tâm dọn sạch đống lông của Marley đã rơi ra từng cục lớn trong những năm qua, chui vào mọi kẽ hở, ngóc ngách. Dần dần, mọi vết tích của con chó già cũng được xóa hết. Một buổi sáng tôi đi giày vào, và bên trong chúng, bao phủ lên đế trong, là một lớp thảm lông của Marley, dính từ tất của tôi khi đi lại trên sàn và dần dần tích tụ bên trong giày. Tôi chỉ ngồi nhìn nó - thực tế là tôi đã vuốt ve nó bằng hai ngón tay - và mỉm cười. Tôi cầm nó lên để khoe Jenny:
- Chúng ta đâu có dễ dàng từ bỏ nó.
Cô ấy bật cười, nhưng tối hôm đó trong phòng ngủ, Jenny - người rất kiệm lời cả tuần qua - bỗng thốt lên:
- Em nhớ nó. Ý em là em rất, rất nhớ nó. Em nhớ nó lắm.
- Anh biết mà. Anh cũng nhớ nó.
Tôi muốn viết một bài tạm biệt Marley, nhưng tôi sợ tất cả những cảm xúc của mình sẽ dâng trào thành một thứ tình cảm ủy mị, vồn vã, chỉ làm bẽ mặt tôi. Vì vậy tôi dừng lại ở những chủ đề khác không có mấy cảm xúc. Tuy vậy, tôi vẫn mang theo một băng ghi âm bên mình. Khi một ý tưởng đến, tôi sẽ viết nó ra. Tôi biết tôi muốn miêu tả nó sinh động như nó vốn thế chứ không phải như những hiện thân hoàn hảo không có thật của Old Yeller(37), như thể có điều gì nguy hiểm khi làm thế. Rất nhiều người làm những con vật của họ khác đi khi chúng chết, biến chúng thành những con thú xuất sắc, siêu nhân, cả cuộc đời làm mọi điều vì chủ nhân ngoại trừ rán trứng cho bữa sáng. Tôi muốn thành thật. Marley là kẻ phiền nhiễu quá đỗi thú vị và hài hước, một gã đần độn không tài nào hiểu được cái dây chuyền mệnh lệnh-thực thi. Nói thật, nó có lẽ là con chó có hành vi tồi tệ nhất thế giới. Tuy nhiên ngay từ ban đầu, trực giác đã cho nó biết việc trở thành bạn tốt của con người có ý nghĩa như thế nào.
Một tuần sau khi nó ra đi, tôi lên đồi vài lần, đứng bên mộ nó. Một phần, tôi muốn chắc chắn không có con dã thú nào bén mảng đến quanh đó vào đêm. Ngôi mộ vẫn không bị xáo trộn, nhưng tôi hoàn toàn có thể thấy khi xuân sang, tôi sẽ cần thêm một đôi xe cút kít chở đất để lấp đầy chỗ đất lún đang trũng xuống. Hầu như tôi chỉ muốn gần gũi nó. Đứng đó, tôi tự thấy mình đang nhớ lại những trích đoạn ngẫu nhiên của cuộc đời nó. Tôi thấy lúng túng bởi nỗi tiếc thương sâu sắc đến nhường nào dành cho con chó này, sâu sắc hơn đối với vài người mà tôi từng biết. Không phải tôi coi cuộc đời của một con chó ngang với cuộc đời của một con người, nhưng ngoài gia đình tôi ra, có rất ít người xả thân quên mình vì tôi như vậy. Tôi lặng lẽ mang cái vòng xích của Marley từ trong xe vào. Nó vẫn ở đó từ chuyến đi cuối cùng của Marley đến bệnh viện. Tôi cất nó dưới đồng đồ lót trong bàn gương, để mỗi sáng tôi có thể thò tay chạm vào nó được.
Tôi quanh quẩn cả tuần với một nỗi nhức nhối sâu thẳm trong lòng. Hoàn toàn là vấn đề tâm lý, không như bị cúm dạ dày. Tôi thờ ơ, không có động lực. Thậm chí tôi không thể tập trung năng lượng để làm những sở thích riêng của mình - chơi đàn guitar, làm mộc, đọc sách. Tôi cảm thấy khó chịu bứt rứt, chẳng biết nên làm gì. Tối nào tôi cũng lên giường đi ngủ sớm, khoảng lúc chín rưỡi hay mười giờ.
Trong đêm Giao Thừa, chúng tôi được mời đến nhà hàng xóm dự tiệc. Những người bạn lặng lẽ bày tỏ lời chia buồn, nhưng tất cả chúng tôi đều cố gắng giữ cho cuộc nói chuyện nhẹ nhàng. Xét cho cùng, đây cũng là đêm Giao Thừa. Trong bữa tối, Sara và Dave Pandl, một đôi vợ chồng kiến trúc sư vừa từ California quay về Pennsylnavia để biến một ngôi nhà đá cũ thô sơ thành nhà của họ, những người đã trở thành bạn thân thiết của chúng tôi, ngồi ở một góc bàn với với tôi. Chúng tôi nói rất lâu về những con chó, về tình yêu và sự mất mát. Dave và Sara đã quyết định cho con Nelly yêu dấu của họ ra đi năm năm trước, một con chó chăn cừu Úc, và đã chôn nó trên đồi bên cạnh trang trại của họ. Dave là một trong những người cứng rắn nhất tôi từng gặp, một người khắc kỉ trầm lặng, một người Pennsylvania gốc Hà Lan ít nói, lầm lỳ. Nhưng khi điều đó xảy đến với Nelly, anh ấy, cũng như tôi, đã đấu tranh vật lộn với nỗi đau tinh thần sâu sắc. Anh ấy kể rằng anh ấy đã mất bao nhiêu ngày lùng sục phiến đá trong rừng, ở đằng sau ngôi nhà của anh ấy như thế nào, cho đến khi tìm ra được một phiến đá hoàn hảo dành cho mộ của nó. Nó được đẽo gọt một cách tự nhiên giống hình một trái tim. Anh ấy mang nó đến chỗ một thợ chạm khắc để khắc chữ "Nelly" lên bề mặt phiến đá. Trong ngần ấy năm sau, cái chết của con chó đó vẫn làm họ vô cùng xúc động. Khi họ kể với tôi về Nelly, mắt họ ngấn lệ. Như Sara nói, cô ấy chớp chớp mắt cố nén khóc, đôi khi một con chó xuất hiện và thật sự gắn bó với cuộc đời bạn, bạn sẽ ko bao giờ quên được nó.
Cuối tuần, tôi đi dạo trong rừng. Khi đi làm về vào thứ Hai, tôi đã biết mình muốn nói điều gì về con chó đã gắn bó với cuộc đời tôi, con chó mà tôi sẽ không bao giờ quên được.
Tôi bắt đầu bài báo bằng cách miêu tả cuộc đi bộ từ trên đồi xuống của mình với một cái xẻng lúc bình minh và thật lạ lẫm làm sao khi ra ngoài mà không có Marley, con chó mười ba năm qua đã làm nhiệm vụ của nó là ở bên tôi trong bất cứ chuyến du ngoạn nào.
- Và bây giờ thì tôi chỉ có một mình ở đây. - Tôi viết - Đào cho nó cái hố này.
Tôi trích lời bố tôi, người đã nói ra một câu giống lời khen ngợi nhất mà con chó của tôi từng nhận được, khi tôi nói với ông rằng tôi phải đặt con chó già nằm xuống: "Sẽ không có một con chó nào giống Marley nữa."
Tôi có rất nhiều ý tưởng để mô tả nó như thế nào, và đây là điều mà tôi quyết định: "Chưa có ai từng gọi nó là một con chó tuyệt vời - hay thậm chí là một con chó ngoan. Nó hoang dã như nữ thần báo tử, khỏe như một con bò mộng. Nó gây đổ vỡ trong suốt cuộc đời với một sự thích thú thường liên quan tới thảm họa tự nhiên. Nó là con chó duy nhất tôi từng biết bị đuổi ra khỏi trường huấn luyện." Tôi tiếp tục: "Marley là một kẻ chuyên nhai đi văng, húc thủng cửa chắn, kẻ hay văng nước miếng bừa bãi, kẻ hay lục thùng rác. Về phần trí tuệ, tôi có thể nói nó cứ cắm đầu đuổi theo cái đuôi của nó đến tận lúc chết, cứ tưởng mình sắp sửa đạt được bước đột phá của loài chó." Còn nhiều điều về nó hơn thế. Tôi đã mô tả trực giác, sự đồng cảm, tính hiền lành với bọn trẻ, và trái tim thuần khiết của nó.
Điều tôi thật sự muốn nói đến là làm thế nào mà con vật này có thể làm mủi lòng chúng tôi và dạy cho chúng tôi một vài trong số những bài học quan trọng nhất về cuộc sống. "Một người có thể học được rất nhiều điều từ một con chó, thậm chí một con chó điên rồ như của chúng tôi" Tôi viết. "Marley đã dạy tôi về việc sống mỗi ngày với tình cảm chứa chan và niềm vui thỏa thích, về việc nắm lấy những khoảnh khắc và nghe theo lời trái tim. Nó dạy cho tôi hiểu rõ những điều thật đơn giản - một chuyến đi dạo trong rừng, một cơn mưa tuyết, một giấc chợp mắt dưới ánh nắng mùa đông. Khi nó già và đau nhức, nó dạy tôi về sự lạc quan khi đối mặt với nghịch cảnh. Hầu hết, nó dạy cho tôi về tình bạn, lòng vị tha, hơn tất cả, là tính kiên định và lòng trung thành."
Thật đáng ngạc nhiên là đến tận bây giờ, sau cái chết của nó, tôi mới hoàn toàn thấm thía: Marley như một người thầy thông thái. Như một giáo viên và một vai diễn kiểu mẫu. Có thể nào một con chó - bất kỳ con chó nào, nhưng đặc biệt là một con hoang dã, mất trí, không thể kiếm soát giống như con chó của chúng tôi - lại dạy cho con người những điều thật sự có ý nghĩa trong cuộc sống không? Tôi tin là có. Lòng trung thành. Lòng can đảm. Sự tận tụy. Sự hồn nhiên. Sự vui vẻ. Và cả những điều không quan trọng nữa. Một con chó không ưa những cái xe đẹp, những ngôi nhà lớn hay những bộ quần áo thời trang. Những biểu tượng của địa vị xã hội chẳng có nghĩa lý gì đối với nó. Một que củi đẫm nước là đủ. Một con chó đánh giá những con chó khác không qua màu lông, tín ngưỡng hay giai cấp, mà thông qua tâm hồn bên trong chúng như thế nào. Một con chó không quan tâm đến chuyện bạn giàu hay nghèo, bạn được học hành hay thất học, bạn thông minh hay ngu ngốc. Hãy trao trái tim bạn cho nó và nó sẽ trao lại trái tim nó cho bạn. Điều đó thực sự khá giản đơn, nhưng còn loài người chúng ta, khôn ngoan và phức tạp hơn nhiều, cho nên luôn luôn gặp phải những vấn đề tính toán xem cái gì thực sự có giá trị và cái gì không. Khi tôi viết bài báo tạm biệt Marley, tôi nhận ra rằng nó ở ngay đó, trước mặt chúng tôi, chỉ cần chúng tôi mở mắt ra. Đôi khi lại cần một con chó có hơi thở hôi hám, những cách xử sự tồi tệ, nhưng với mục đích trong sáng để giúp chúng ta hiểu ra.
Tôi hoàn thiện bài báo, chuyển cho biên tập viên của tôi, và lái xe về nhà vào buổi tối. Tôi thấy phần nào nhẹ nhõm, gần như là vui vẻ, như thể một gánh nặng, bản thân tôi thậm chí không biết mình vẫn mang theo, vừa được gỡ xuống.