Sáng hôm sau tôi đến tòa soạn, ánh đèn màu đỏ báo tin nhắn trên máy điện thoại tôi nhấp nháy. Tôi nhập mã truy cập và nhận được đoạn ghi âm cảnh báo tôi chưa từng nghe thấy trước đây. "Hộp thư của bạn đã đầy. Hãy xóa tất cả các tin nhắn không cần thiết."
Tôi bật máy tính của tôi và mở hộp thư điện tử. Cũng như vậy. Trang đầu đầy ắp những tin nhắn mới, cả trang tiếp theo, tiếp theo và tiếp theo nữa cũng vậy. Email buổi sáng là một nghi thức đối với tôi, một phong vũ biểu mang tính bản năng, tuy không chính xác cho lắm, của những ảnh hưởng bài báo ngày hôm đó tạo ra. Một số bài chỉ có tầm năm hoặc mười phản hồi, và trong những ngày đó tôi hiểu mình đã không tới gần được với độc giả. Một số bài có vài chục phản hồi, một ngày tốt. Thậm chí có một vài hôm nhận được nhiều hơn. Nhưng sáng nay thì là hàng trăm, nhiều hơn bất cứ lần nào tôi từng nhận trước đây. Tiêu đề các email viết những điều đại loại như "Những lời chia buồn sâu sắc nhất", "Về sự mất mát của bạn" hoặc đơn giản chỉ là "Marley."
Những người yêu động vật là một "nòi" đặc biệt của loài người, tâm hồn rộng lượng, đầy thấu cảm, có thể hơi thiên một chút về đa cảm, và sở hữu những trái tim bao la như bầu trời quang đãng. Hầu hết những người viết và gọi điện đơn giản chỉ muốn bày tỏ sự đồng cảm, để nói với tôi là họ cũng vậy, đã từng gặp cảnh này và hiểu những gì mà gia đình tôi đang phải trải qua. Những người khác thì có những con chó đang dần tiến tới một điểm kết không thể tránh khỏi. Họ sợ điều họ biết đang đến, cũng giống như chúng tôi đã lo sợ.
Một đôi vợ chồng viết: "Chúng tôi hoàn toàn hiểu và thương tiếc cho sự mất mất của các bạn về Marley, và cho mất mát của chúng tôi về Rusty. Chúng sẽ luôn được nhớ đến, thực sự không bao giờ thay thế được." Một độc giả tên Joyce viết: "Cảm ơn vì đã gợi lại cho chúng tôi nhớ đến Duncan, con chó được chôn cất ở sân sau nhà chúng tôi." Một người dân ngoại thành tên Debi thêm vào: "Gia đình chúng tôi hiểu cảm giác của các bạn như thế nào. Ngày Lễ Lao Động năm trước chúng tôi đã phải để con chó tha mồi vàng tên Chewy của tôi ra đi. Nó mười ba tuổi và phải chịu nhiều nỗi đau đớn giống như bạn kể về con chó của các bạn. Thậm chí khi nó không thể dậy, tự đi ra ngoài để đi tiểu vào cái ngày cuối cùng đó. Chúng tôi biết mình không thể để nó đau đớn mãi. Chúng tôi, cũng vậy, đã tổ chức mai táng ở sân sau nhà, dưới một cây thích màu đỏ, nơi sẽ luôn là đài kỷ niệm của nó."
Một nhà tuyển dụng tên Monica, chủ một con Lab tên Katie, đã viết: "Xin gửi những lời chia buồn chân thành và những giọt nước mắt tiếc thương của tôi tới các bạn. Katie của tôi mới có hai tuổi và tôi luôn nghĩ, ‘Monica, tại sao mày lại ra đi, để sinh linh tuyệt vời này đánh cắp trái tim mày như thế?’" Từ Carmela: "Marley chắc phải là một con chó tuyệt vời lắm mới khiến một gia đình yêu nó nhiều đến vậy. Chỉ có những người chủ của con chó mới có thể hiểu được tình yêu vô điều kiện mà chúng trao cho chúng ta cũng như nỗi buồn đau ghê gớm khi chúng ra đi." Từ Elaine: "Những vật nuôi sống cùng chúng ta một quãng đời quả là ngắn ngủi, và chúng dành phần lớn thời gian để chờ chúng ta về nhà mỗi ngày. Thật kinh ngạc biết bao tình yêu và tiếng cười chúng đem lại cho cuộc sống của chúng ta, và thậm chí chúng ta trở nên gần gũi nhau hơn vì chúng." Từ Nancy: "Những con chó là một trong những điều kì diệu của cuộc sống và thêm vào cuốc sống của chúng ta rất nhiều điều ý nghĩa." Từ MaryPat: "Đến hôm nay tôi lại nhớ âm thanh leng keng từ cái chuông ở dây đeo cổ của Max khi nó đi lanh quanh nhà để kiểm tra mọi thứ. Sự im lặng đó sẽ làm bạn phát điên lên trong một thời gian, đặc biệt là về đêm." Từ Connie: "Điều đáng kinh ngạc nhất là dành tình yêu cho một con chó, phải không? Nó làm cho ta thấy những mối quan hệ giữ con nguời với con người dường như thật nhạt nhẽo, như một bát cháo yến mạch."
Vài ngày sau đó những tin nhắn cuối cùng cũng ngừng đến, tôi cộng chúng lại. Gần tám trăm người, tất cả đều là những người yêu động vật, đã rất cảm động và liên lạc với tôi. Một sự thổ lộ tình cảm dạt dào không thể tin được, và mới gây phấn chấn với tôi làm sao. Lúc tôi đọc kĩ tất cả chúng - trả lời hết sức có thể - tôi cảm thấy khá hơn, như thể tôi là một phần của nhóm người ủng hộ khổng lồ. Bài thương khóc riêng tư của tôi đã trở thành một liệu pháp tâm lý cho cộng đồng. Trong đám đông này không còn sự xấu hổ vì phải thừa nhận một nỗi đau buồn thực sự, sâu sắc cho vài thứ dường như tầm thường như một con chó già hôi hám.
Những đối tác thư từ của tôi còn viết và gọi điện vì lý do khác. Họ muốn tranh luận về một ý chính trong bài báo của tôi, phần trong đấy tôi cứ khăng khăng Marley là con vật-có-hành-vi-tồi-tệ-nhất thế giới. Lời phản ứng điển hình là: "Xin lỗi, nhưng con chó của anh không thể là con chó tồi tệ nhất thế giới được - bởi vì con chó của tôi mới vậy." Để chứng minh cho điều đó, họ làm tôi thích thú với những bản kê khai chi tiết về những hành vi tồi tệ của con chó nhà họ. Tôi đã được nghe về những mảnh rèm cửa bị xé vụn, đồ lót bị ăn trộm, những cái bánh sinh nhật bị ăn ngấu nghiến, bên trong ô tô thì như cái thùng rác, những cuộc tẩu thoát tuyệt vời, thậm chí một cái nhẫn đính hôn kim cương bị nuốt, đem so sánh với sở thích dây vàng của Marley thì Marley hãy còn kém xa. Hòm thư của tôi giống với một chương trình giao lưu trò chuyện trên truyền hình: Những con chó hư và những người yêu chúng với những nạn nhân sẵn lòng xếp hàng để khoe khoang trong tự hào, không phải chuyện con chó của họ tuyệt vời như thế nào mà là chúng kinh khủng như thế nào. Thật kỳ cục, hầu hết những câu chuyện kinh dị liên quan đến những con chó tha mồi to lớn giống như con chó của tôi. Sau cùng thì tất cả chúng tôi đều không cô đơn.
Một phụ nữ có tên Elyssa mô tả con Lab Mo của cô ta luôn đào thoát khỏi nhà khi bị để lại một mình, bằng cách lao qua các ô cửa sổ kính. Elyssa và chồng cô ấy nghĩ họ đã dập tắt được thói quen đi lang thang của Mo bằng cách đóng và khóa tất cả cửa sổ ở tầng trệt. Nhưng họ lại không nghĩ đến việc khóa cả cửa tầng hai. "Một hôm chồng tôi về nhà, nhìn thấy tấm chắn cửa ở tầng hai đang treo lủng lẳng. Anh ấy sợ gần chết, vội vã đi tìm nó" cô ấy viết. Ngay khi chồng cô ấy bắt đầu thấy sợ điều tồi tệ nhất, "Mo thình lình xuất hiện ở góc nhà với cái đầu gục xuống. Nó biết mình đang gặp rắc rối, nhưng chúng tôi lấy làm ngạc nhiên là nó không hề bị thương. Nó đã lao ra ngoài cửa sổ và hạ cánh trên một bụi cây cứng cáp, đỡ cho cú ngã của nó."
Con Lab của Larry thì nuốt chửng cái áo lót của bà chủ, mười ngày sau đó nó nôn ra nguyên vẹn. Gypsy, một con Lab khác với sở thích phiêu lưu của nó, đã ăn ngấu nghiến một bức mành cửa sổ. Jason, một con chó tha mồi Ireland lai chó săn lông xù, nuốt một cái vòi máy hút bụi dài mét tám, "dây tăng cường bên trong và tất cả," ông chủ Mike của nó kể lại. "Jason cũng ăn một cái hốc cỡ 60cm x 90cm trên một bức tường thạch cao và xúc một rãnh dài gần một mét trên tấm thảm, ngay chỗ ưa thích của nó cạnh cửa sổ." Mike viết thêm "Nhưng tôi yêu con vật ấy".
Phoebe, một con Lab lai, đã bị đá ra khỏi hai trại chó khác nhau và bị cấm không được quay lại nữa. Cô chủ Aimee viết: "Dường như nó là thủ lĩnh của một băng nhóm không chỉ phá cũi của nó để ra ngoài mà còn giúp đỡ hai con chó khác nữa. Sau đó chúng tự thưởng đủ các loại bánh snack cả đêm hôm đó." Hayden, một con Lab nặng bốn mươi lăm cân, hầu như chén bất cứ thứ gì xung quanh nó, miễn là có thể cho được vào miệng. Cô chủ Carolyn kể lại: bao gồm nguyên một hộp đựng đồ ăn cho cá, một đôi giày Thụy Điển, và một ống keo siêu dính, "hết chỗ này đến chỗ khác," cô ấy nói thêm: "Khi nó ngoan nhất lại là khi nó giật bung cái khung cửa gara khỏi tường vì tôi đã dại dột buộc cái dây xích nó vào đó để nó nằm tắm nắng."
Tim kể rằng con Lab vàng tên Ralph của anh ấy cũng là một tên trộm đồ ăn giống y hệt Marley, nhưng thông minh hơn. Một ngày trước khi ra ngoài, Tim đặt một bánh sô cô la lớn trên nóc tủ lạnh, ở đó nó sẽ được an toàn nằm ngoài tầm với của Ralph. Con chó đã cậy mở cái ngăn kéo tủ ly ra, sau đó dùng chúng như những bậc thang để trèo lên trên quầy, nơi nó có thể đứng thăng bằng trên hai chân sau và với tới miếng sô cô la. Vậy là miếng sô cô la đã ra đi mà không để lại dấu vết gì khi ông chủ về nhà. Mặc dù chén sô cô la quá liều, Ralph vẫn tỏ ra không có phản ứng ốm đau gì. "Lần khác," Tim viết, "Ralph mở tủ lạnh và ăn hết mọi thứ trong đó, kể cả những thứ ở trong lọ."
Nancy đã cắt bài báo của tôi để lưu giữ vì Marley gợi cho cô ấy rất nhiều về con chó tha mồi Gracie của cô ấy. "Tôi để bài báo trên bàn ăn và quay ra để cất cái kéo," Nancy viết. "Khi tôi quay lại, không còn nghi ngờ gì nữa, Gracie đã ăn mẩu báo."
Chà, mỗi phút tôi lại cảm thấy khá hơn. Marley nghe không còn kinh khủng đến vậy. Nếu không có gì khác, chắc chắn nó sẽ có rất nhiều bạn bè trong hội Câu Lạc Bộ Chó Hư. Tôi mang một vài tin nhắn về nhà để cho Jenny xem. Lần đầu tiên cô ấy bật cười thích thú kể từ khi Marley chết. Những người bạn mới của tôi trong Hội Kín của Chủ Những Con Chó Dị Thường đã giúp đỡ chúng tôi nhiều hơn họ tưởng.
Ngày chuyển thành tuần rồi mùa đông chuyển thành mùa xuân. Cây thủy tiên trồi lên khỏi mặt đất, nở hoa xung quanh mộ Marley. Những cánh hoa anh đào trắng muốt mềm mại rụng xuống trên mộ nó. Dần dần, cuộc sống không có con chó của chúng tôi trở nên dễ chịu hơn. Ngày tháng trôi qua tôi không nghĩ về nó nữa, và sau đó có một vài tín hiệu nhỏ - một ít lông của nó vương trên áo len dài tay của tôi, cái lúc lắc trên vòng đeo cổ của nó khi tôi lục ngăn kéo để lấy tất - đã đột ngột mang nó trở lại. Thời gian trôi đi, những kí ức giờ đã dễ chịu hơn là đau đớn. Những khoảnh khắc đã lãng quên từ lâu hiện ra trong óc tôi đầy sinh động, giống như những thước phim đang được chiếu lại từ những cuốn video gia đình cũ: Cái cách cô bé Lisa bị đâm cúi người xuống, rồi hôn lên mũi Marley sau khi cô bé được ra viện. Cái cách đoàn làm phim nịnh nọt nó. Cái cách người phụ nữ đưa thư đãi nó một bữa vui vẻ mỗi ngày ở cửa trước. Cái cách nó giữ những quả xoài bằng hai chân trước khi nó gặm cùi. Cái cách nó cắn bỉm của bọn trẻ với vẻ đê mê sung sướng trên mặt nó, và cả cái cách nó đứng trên hai chân sau, hai chân trước giơ lên xin những viên thuốc an thần như những miếng thịt nướng. Những khoảnh khắc ngắn ngủi dường như không đáng để nhớ, vậy mà chúng lại đang hiện hữu, ngẫu nhiên diễn lại trong đầu tôi ở những thời gian và thời điểm không ngờ nhất. Hầu hết chúng làm cho tôi cười. Một vài chi tiết làm tôi mím môi và ngưng lại.
Tôi đang trong buổi họp nhân viên ở văn phòng thì ký ức lại ùa về: Đó là hồi ở West Palm Beach, Marley vẫn còn là một chú chó con. Jenny và tôi vẫn còn đang mơ mộng trong thời kỳ mới cưới. Chúng tôi đang nắm tay nhau đi dạo quanh Intracoastal Waterway trong một ngày đông khô lạnh. Marley đi đằng trước, kéo mạnh chúng tôi. Tôi để nó nhảy cẫng lên trên đê chắn sóng bằng bê tông rộng hơn nửa mét và cách mặt nước chừng một mét. "John," Jenny phản đối. "Nó có thể ngã xuống mất." Tôi nhìn cô ấy vẻ ngờ vực. "Em nghĩ là nó ngốc đến mức nào thế?" Tôi hỏi. "Em nghĩ là nó sẽ làm gì nào? Nhảy ra khỏi mép đê hả?" Mười giây sau, đó đúng là những gì mà nó làm, nhảy ùm xuống biển, làm nước bắn tung tóe và phải cần đến một cuộc giải cứu phức tạp để kéo nó lên.
Vài ngày sau, tôi đang lái xe đến buổi phỏng vấn thì tự dưng lại hiện ra hình ảnh ngày đầu chúng tôi mới cưới: một kỳ nghỉ cuối tuần lãng mạn đến một cái nhà tranh trước biển trên đảo Sanibel trước khi bọn trẻ ra đời. Cô dâu, chú rể - và Marley. Tôi hoàn toàn đã quên kỳ nghỉ đó, và giờ nó lại ở đây, tua lại sống động: lái xe dọc tiểu bang trong khi nó chen giữa chúng tôi, mũi của nó đôi khi nảy lên chạm mạnh vào cái cần số, gạt về số không. Tắm cho nó trong bồn tắm ở nhà chúng tôi thuê sau một ngày trên biển, bọt xà phòng, nước và cát bắn tung tóe khắp nơi. Jenny và tôi yêu nhau dưới chiếc tấm chăn cotton mát mẻ, một cơn gió biển nhè nhẹ ùa vào, cái đuôi rái cá của Marley đập thùm thụp vào đệm.
Nó là vai chính trong vài chương hạnh phúc nhất của cuộc đời chúng tôi. Những chương của tình yêu non trẻ và những khởi đầu mới mẻ, của sự nghiệp chớm nở và những đứa bé tí hon; của những thành công vang dội và những thất vọng ê chề; của khám phá, tự do và nhận thức về bản thân. Nó bước vào cuộc sống của chúng tôi khi chúng tôi đang cố gắng đoán xem điều gì sẽ đến. Nó ở cùng chúng tôi khi chúng tôi vật lộn với những khó khăn mà tất cả các cặp vợ chồng khác rốt cuộc đều gặp phải. Quá trình đôi khi khó nhọc để hai con người với hai quá khứ riêng biệt cùng sẻ chia tương lai. Nó trở thành một phần của tấm vải, một sợi được bện chặt và không thể tách rời để dệt nên cuộc sống của chúng tôi. Ngay khi chúng tôi giúp định hình nó trở thành một vật nuôi gia đình, nó đã giúp định hình chúng tôi trở thành một đôi vợ chồng, một cặp cha mẹ, những người yêu động vật và những con người trưởng thành. Mặc cho tất cả, tất cả những điều thất vọng và những mong đợi bất thành, Marley đã dành cho chúng tôi một món quà, vừa vô giá lại vừa miễn phí. Nó dạy cho chúng tôi về nghệ thuật của tình yêu tuyệt đối. Làm thế nào để cho đi, làm sao để nhận lại. Nơi đâu có điều đó, tất cả những mảnh ghép mới trở về đúng chỗ.
Mùa hè sau khi nó chết, chúng tôi xây một bể bơi. Tôi không thể không nghĩ đến Marley, con chó nước tràn trề sinh lực của chúng tôi, sẽ yêu cái bể bơi tới mức nào, chắc chắn nhiều hơn chúng tôi rất nhiều, ngay lúc nó lôi cái lớp lót ra bằng móng vuốt và làm kẹt máy lọc bởi lông của nó. Jenny ngạc nhiên là thật dễ dàng để giữ cho ngôi nhà sạch sẽ khi không có một con chó suốt ngày làm rụng lông, nhỏ nước dãi và để lại vết bẩn trên sàn. Tôi thừa nhận thật tuyệt làm sao khi dạo chân trần trên cỏ mà không cần để ý xem mình bước vào đâu. Khu vườn rõ ràng là tốt đẹp hơn khi không có một tay thợ săn thỏ to lớn, nặng nề quần thảo tan nát khu vườn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc sống không có một con chó thì dễ dàng hơn và hết sức đơn giản. Chúng tôi có thể đi nghỉ cuối tuần mà không cần phải sắp xếp gửi nó. Chúng tôi có thể ra ngoài ăn tối mà không phải lo những món đồ gia bảo lâm nguy. Bọn trẻ có thể ăn mà không phải cảnh giác canh đĩa thức ăn của chúng. Thùng đựng rác không phải để lên trên chạn bếp khi chúng tôi ra ngoài. Một lần nữa chúng tôi được ngồi lại tận hưởng yên bình trong cơn bão sấm sét. Tôi đặc biệt thích sự tự do đi lại xung quanh nhà mà không có một cục keo nam châm màu vàng khổng lồ cứ dính chặt sau gót.
Mặc dù vậy, là một gia đình, chúng tôi vẫn chưa thực sự đông đủ.
Một buổi sáng cuối hè, tôi xuống nhà ăn sáng. Jenny đưa cho tôi một phần của tờ báo được gấp, lại lộ ra một trang bên trong.
- Anh sẽ không tin điều này đâu. - Cô ấy nói.
Mỗi tuần một lần, tờ báo địa phương của chúng tôi lại nêu ra một con chó ở một trung tâm bảo trợ đang cần tìm một mái ấm. Trong phần tiểu sử luôn có một bức ảnh của con chó, tên gọi, một bản mô tả vắn tắt, được viết như thể con chó đang dùng ngôi thứ nhất, tự nói những điều tốt đẹp nhất về mình. Đó là một mẹo quảng cáo người ta thường dùng để làm cho những con vật trở nên cuốn hút và đáng yêu. Chúng tôi luôn thấy những bản lý lịch buồn cười của đám chó con, không vì lý do nào khác ngoài mục đích tô vẽ đánh bóng cho những con vật chẳng ai cần, vốn từng bị gạch tên ít nhất một lần.
Ngày hôm đó, một gương mặt trên trang báo đang chằm chằm nhìn tôi, gương mặt tôi nhận ra ngay tức thì - Marley của chúng tôi. Hoặc chí ít là một con chó sinh đôi với nó. Nó là một con Lab đực màu vàng to lớn, cái đầu trông như cái đe, trán nhăn, đôi tai mềm hếch ra đằng sau ngộ nghĩnh. Nó nhìn thẳng vào ống kính với cảm xúc mãnh liệt. Khiến bạn hiểu rằng vài giây sau khi bức ảnh được chụp, nó sẽ xô ngã thợ ảnh và cố gắng nuốt cái máy ảnh. Dưới bức hình là cái tên: Lucky. Tôi đọc lời chào hàng của nó thật to. Đây là điều mà Lucky nói về bản thân mình: "Đầy sức sống! Tôi sẽ sống tốt trong một ngôi nhà vốn yên tĩnh trong khi tôi học cách kiểm soát năng lượng của mình như thế nào. Tôi từng có một cuộc sống không dễ dàng vậy nên gia đình mới của tôi sẽ cần phải kiên nhẫn với tôi và tiếp tục dạy tôi những lối cư xử của chó."
- Chúa ơi. - Tôi kêu lên. - Chính là nó. Nó đã sống lại.
- Một sự đầu thai. - Jenny nói.
Lucky trông giống Marley một cách kì lạ làm sao và những lời miêu ta cũng đúng y chang nữa. Tràn đầy sức sống? Vấn đề kiểm soát năng lượng? Dạy nó cách cư xử cho chó? Đòi hỏi kiên nhẫn? Chúng tôi quá quen thuộc với những chuyện đó. Con chó bất ổn về mặt tinh thần của chúng tôi đã trở lại, trẻ khỏe và cuồng nhiệt hơn bao giờ hết. Cả hai chúng tôi đứng đó, nhìn chằm chằm vào tờ báo, không thốt nên lời.
- Anh nghĩ mình có thể đến xem nó. - Cuối cùng tôi lên tiếng.
- Chỉ để vui thôi mà. - Jenny thêm vào.
- Đúng. Chỉ để hết tò mò thôi.
- Có hại gì mà không ngó qua chứ?
- Không hại gì cả. - Tôi đồng ý.
- Vậy thì. - Cô ấy nói - Tại sao lại không nhỉ?
- Chúng ta có mất gì đâu?