Trong lúc đếm ngược từng ngày để mang Marley về nhà, tôi chậm chạp bắt đầu công việc nghiên cứu về giống chó tha mồi Labrador. Tôi nói chậm vì hầu như mọi thứ tôi đọc đều đưa ra những lời khuyên tốt như nhau: Trước khi mua một con chó, phải chắc chắn bạn đã nghiên cứu triệt để giống ấy để biết bạn đang gặp chuyện gì. Tệ quá!
Ví dụ một người sống trong căn hộ, chắc chắn không thể sống tốt với một con Saint Bernard. Một gia đình có trẻ con có thể muốn tránh nuôi giống chó Chow chow(3), vốn là loài đôi khi hơi khó lường. Một người lười biếng chỉ biết chúi mũi vào tivi, muốn một con chó cảnh để cùng lãng phí hàng giờ đồng hồ trước màn hình, rất có thể sẽ nổi điên với một con Border Collie(4), giống chó coi chạy nhảy và làm việc là niềm vui.
Tôi thừa nhận là Jenny và tôi hầu như chưa nghiên cứu gì trước khi quyết định mua một con chó tha mồi Labrador. Chúng tôi chọn giống dựa trên mỗi tiêu chuẩn duy nhất: vẻ ngoài. Chúng tôi thường ngưỡng mộ chúng với các chủ nhân dọc theo đường đi xe đạp ở khu Intracoastal Waterway - họ nhảy nhót vui đùa, trông thật yêu đời, với cảm xúc nồng nàn không thường thấy trên đời. Thậm chí, quyết định của chúng tôi không chịu ảnh hưởng bởi cuốn "Cẩm nang về chó" - kinh thánh về các giống chó do Câu lạc bộ nuôi Chó Mỹ xuất bản, hay bởi bất kỳ chỉ dẫn đáng tin cậy nào khác. Nó chịu ảnh hưởng bởi một tác phẩm khác viết về chó cũng rất có trọng lượng, cuốn "Bên kia thế giới" của Gary Larson. Chúng tôi là fan cuồng của tranh biếm họa. Larson lấp đầy những trang vẽ của mình bằng hình ảnh những con chó Lab tinh tế, dí dỏm đang hành động và nói những điều đáng nguyền rủa nhất. Vâng, chúng nói được! Làm sao không mê được cơ chứ? Những con chó Lab là những con vật hết sức buồn cười - ít nhất là qua tay Larson. Ai lại không dùng tới một chút trò tiêu khiển giải trí trong đời đây? Chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục.
Lúc này, khi đã nghiên cứu nghiêm túc hơn về chó tha mồi Labrador, tôi tự an ủi rằng lựa chọn của chúng tôi, ít ra cũng không quá xa rời chuẩn mực. Tác phẩm tràn ngập những lời bình sinh động về tính điềm đạm, đằm thắm của chó tha mồi Labrador, tính hòa nhã của nó với bọn trẻ, tính không hiếu thắng và ham muốn được làm trò vui của nó nữa. Với trí thông minh và dễ bảo, chúng là lựa chọn hàng đầu cho bài tập tìm-và-cứu, là chó dẫn đường cho người mù và người tàn tật. Tất cả những điểm này dự báo điềm lành về một vật nuôi trong ngôi nhà không sớm thì muộn cũng sẽ có những đứa trẻ.
Một đoạn hướng dẫn viết: "Chó tha mồi Labrador được biết đến bởi trí thông minh, cảm giác ấm áp gần gũi với con người, sự khéo léo và hết lòng tận tâm với bất kỳ nhiệm vụ nào." Có người lại kinh ngạc trước lòng trung thành cực kỳ của giống này. Tất cả những đặc tính ấy đã giúp chó tha mồi Labrador từ một giống chó chuyên thể thao, được các thợ săn bắt chim rất chuộng vì kỹ năng bắt vịt hay gà lôi từ những vùng nước giá lạnh, trở thành vật nuôi trong nhà ưa thích ở Mỹ. Chỉ vài năm trước, năm 1990, chó tha mồi Labrador đã đánh bật loại chó giống Cocker Spaniel(5) khỏi vị trí dẫn đầu của Câu lạc bộ nuôi Chó Mỹ, trở thành giống được nuôi nhiều nhất trong nước. Không giống nào tiến được tới gần để đánh bật Lab khỏi vị trí dẫn đầu kể từ đó. Năm 2004, nó đánh dấu mười lăm năm liên tiếp là giống chó số một của AKC, với danh sách 146.692 con được đăng ký. Tiếp ngay sau ở vị trí thứ hai là chó tha mồi vàng, 52.550 con, và vị trí thứ ba thuộc về chó chăn cừu Đức, với 46.046 con.
Thật tình cờ, chúng tôi gặp một giống chó mà cả nước Mỹ không tài nào chán nổi. Tất cả chủ nhân của những con chó hạnh phúc kia không thể sai, phải không nào? Chúng tôi đã chọn đúng nhà quán quân đã được chứng minh. Nhưng lúc này thì cuốn sách bắt đầu tràn ngập những điềm báo gở.
Chó Lab được nuôi dạy thành những con chó làm việc và được chăm bẵm để có nguồn năng lượng vô bờ bến. Chúng vốn dĩ rất có tính bầy đàn nhưng đã sống tách biệt một thời gian dài. Chúng có thể đã ngu đi nhiều và khó huấn luyện. Chúng cần những bài tập nghiêm khắc mỗi ngày, nếu không có thể trở nên phá phách. Một số dễ bị kích động và gây khó dễ, khó kiểm soát với ngay cả những người huấn luyện chó dạn dày kinh nghiệm. Chúng có một thời kỳ có thể xem như chó con, kéo dài liên tục khoảng ba năm hoặc hơn. Thời kỳ hiếu động này đòi hỏi sự kiên nhẫn nhiều hơn từ chủ nhân.
Chúng vạm vỡ, sinh sôi qua hàng thế kỷ để thích nghi với đau đớn, các đặc tính có lợi cho chúng khi nhảy xuống vùng nước buốt giá ở Bắc Đại Tây Dương hỗ trợ ngư dân. Nhưng ở trong nhà, những đặc tính ấy cũng đồng nghĩa với việc chúng có thể không khác gì những con bò trong tủ sứ. Chúng là những sinh vật to khỏe, vạm vỡ vốn chẳng bao giờ ý thức được sức mạnh của mình. Mới đây, một người chủ kể với tôi rằng có lần cô ấy buộc con Lab đực vào khung cửa ga-ra để nó ở gần, trong khi cô ấy rửa xe ở lối vào nhà. Con chó phát hiện ra một con sóc, liền nhào tới, giật tung cả khung cửa thép lớn khỏi bức tường.
Thế rồi tôi tình cờ đọc một câu làm dấy lên nỗi lo sợ trong tim tôi. "Chó bố mẹ có thể là một trong những dấu hiệu cho thấy tính khí tương lai của con chó con nhà bạn. Một con số rất đáng ngạc nhiên chứng minh hành vi có được là do di truyền." Trong đầu tôi thấp thoáng hình ảnh tử thần trét đầy bùn, mép sùi bọt, phi ra từ cánh rừng, trong cái đêm chúng tôi chọn con chó con cho mình. Chúa ơi, tôi thầm nghĩ. Cuốn sách khuyên rằng bất cứ khi nào thích hợp, phải yêu cầu được trông thấy cả con mẹ lẫn con bố. Trong óc tôi lại thoáng lướt qua hình ảnh ngập ngừng quá-đỗi-qua-loa của người nuôi chó khi tôi hỏi con bố đâu. Ôi... Chắc nó lại loanh quanh đâu đó đây mà. Rồi cả cái cách bà ta mau chóng chuyển chủ đề. Tất cả đều có ý nghĩa. Những người mua chó hiểu biết sẽ yêu cầu được gặp con bố. Rồi họ sẽ thấy gì đây? Một con vật điên cuồng mò mẫm phi trong đêm, như thể ma quỷ bám sát ngay sau đuôi nó. Tôi thầm cầu nguyện sao cho Marley được thừa hưởng tính khí từ mẹ nó.
Trừ những đặc tính di truyền riêng, tất cả những con Labrador thuần chủng đều chắc chắn có những đặc điểm có thể đoán trước. Câu lạc bộ nuôi Chó Mỹ đặt ra các tiêu chuẩn một con chó tha mồi Labrador cần phải có. Theo lẽ tự nhiên, chúng vạm vỡ, chắc nịch, với bộ lông rậm, ngắn, có khả năng chịu đựng thời tiết. Lông chúng có thể đen, nâu sô cô la, hoặc là vàng, từ màu kem nhạt cho tới màu đỏ thắm lông cáo. Một trong những điểm đặc trưng chính của chó tha mồi Labrador là cái đuôi to khỏe, tương tự như đuôi rái cá, có thể quét sạch nguyên một cái bàn cà phê chỉ bằng một cú quất. Đầu to, hình khối lớn, hàm răng đầy sức mạnh và đôi tai vểnh. Hầu hết các con Lab đều cao khoảng hơn sáu mươi phân tính tới lưng hoặc đầu vai. Trọng lượng con đực khoảng ba mươi đến ba sáu cân. Đôi khi cũng có con nặng hơn.
Nhưng theo AKC, yếu tố ngoại hình không phải là tất cả để một con Lab đúng nghĩa là một con Lab. Tiêu chuẩn nòi giống của Câu lạc bộ cho biết: "Tính khí thực sự của chó tha mồi Lab cũng như dấu hiệu phân biệt nòi giống của đuôi ‘rái cá’. Tính cách lý tưởng là tính dễ bảo, thân mật, chân thành, hăm hở được làm vui lòng chủ và không hung hăng với người hay con vật khác. Chó Labrador có nhiều điều hấp dẫn mọi người. Tính khí hiền lành, trí thông minh và khả năng thích nghi khiến nó trở thành một con chó lý tưởng."
Một con chó lý tưởng! Những lời xác nhận không thể nào tuyệt hơn thế. Càng đọc, tôi càng cảm thấy tốt hơn về quyết định của chúng tôi. Thậm chí những điềm báo cũng không làm tôi lo sợ nhiều nữa. Jenny và tôi ắt hẳn sẽ rất hăng hái với con chó mới của mình, với việc trình diễn nó, thu hút sự chú ý và được yêu mến. Chúng tôi sẽ dành thật nhiều thời gian cần thiết để huấn luyện nó ra trò, dạy nó tuân lệnh và các kỹ năng xã giao. Cả hai chúng tôi sẽ là những người bách bộ hăng hái theo con đường ven bờ biển mỗi tối sau giờ làm việc, và những buổi sáng nữa chứ. Dĩ nhiên sẽ dắt theo con chó mới đi cùng trong những buổi tập đi bộ. Rồi chúng tôi sẽ cho thằng nhóc mệt lử. Tòa soạn của Jenny chỉ cách nhà có một dặm. Trưa nào cô ấy cũng về nhà ăn trưa. Thời gian đó cô ấy có thể tung bóng cho nó ở sân sau, để nó tiêu sạch thậm chí còn nhiều hơn cả nguồn năng lượng vô hạn mà chúng tôi đã được cảnh báo.
Một tuần trước khi chúng tôi đón con chó của mình về nhà, chị gái Jenny, Susan, gọi điện từ Boston. Chị ấy cùng chồng và hai đứa nhỏ định đến Disney World tuần tới. Liệu Jenny có muốn đến chơi vài ngày với họ không? Là một người dì rất yêu thương và luôn trông chờ từng cơ hội để được ở gần cháu trai, cháu gái, Jenny thực sự rất muốn đi. Nhưng cô ấy lại lưỡng lự.
- Em sẽ không ở nhà để được đón Marley bé bỏng về.
- Em đi đi - Tôi nhẹ nhàng - Anh sẽ đi đón nó, bảo đảm nó hoàn toàn yên ổn và đợi em về.
Tôi cố gắng tỏ vẻ như hờ hững, nhưng thực ra trong lòng thì thầm vui mừng khôn xiết với viễn cảnh sở hữu con chó mới, hoàn toàn của riêng mình trong thời gian tự do này. Nó là kế hoạch chung của chúng tôi, cả hai chúng tôi có vai trò như nhau. Nhưng tôi không bao giờ tin một con chó có thể nghe lời hai chủ. Và nếu chỉ có một lãnh đạo chính trong nhà, thì tôi muốn người đó phải là tôi. Ba ngày ngắn ngủi sẽ cho tôi một khởi đầu thuận lợi.
Một tuần sau, Jenny tới Orlando - cách nhà tôi ba giờ rưỡi xe. Hôm đó là thứ Sáu, sau giờ làm việc buổi tối, tôi quay lại trang trại để đón thành viên mới của gia đình. Khi Lori dẫn con chó của tôi từ sau nhà ra, tôi há hốc miệng kinh ngạc. Con chó con tí hon, lông xù mà chúng tôi chọn ba tuần trước giờ đã to gấp đôi. Nó phi thẳng vào tôi, húc vào mắt cá chân, cuộn tròn dưới chân rồi lộn ngược dậy, cào cào vào không khí, hành động tôi chỉ có thể tưởng tượng là dấu hiệu năn nỉ van xin. Lori chắc nhận ra tôi đang choáng váng. Bà ta vui vẻ:
- Nó là một cậu bé đang lớn, phải không nào? Anh phải xem nó làm gỏi nguyên gói thức ăn cho chó cơ!
Tôi vươn người ra, xoa bụng nó, rồi nói:
- Sẵn sàng về nhà chưa Marley?
Đó là lần đầu tiên tôi thực sự gọi tên mới của nó, thấy cũng ổn.
Trong xe, tôi xếp mấy chiếc khăn tắm thành một cái ổ ấm cúng ở ghế phụ và đặt nó vào đó. Nhưng xe vừa mới tới đầu đường thì nó bắt đầu ngọ nguậy, thò đầu ra khỏi những chiếc khăn tắm. Nó trườn về phía tôi qua ghế, vừa rên rỉ vừa nhích lên. Ở bảng điều khiển trung tâm, Marley lần đầu rơi vào tình thế khó khăn trong vô số những lần nó sẽ gặp suốt cuộc đời. Nó ở đó, chân sau vắt qua phía ghế phụ của bảng điều khiển, còn chân trước thì ở bên phía ghế lái. Ở giữa, bụng nó đè lên phanh khẩn cấp. Bốn chân nhỏ của nó khua loạn lên, chơi vơi trong không khí. Nó ngọ nguậy, đu đưa, lúc lắc, nhưng vẫn bị mắc cạn y như tàu chở hàng trên bãi cát ngoài cửa sông. Tôi vươn tay chạm vào lưng nó, chỉ làm nó thêm kích động, càng giãy giụa tợn hơn. Chân sau của nó tìm mọi cách bám vào hộp đựng đồ giữa hai ghế. Dần dần, nó bắt đầu vận động phần thân sau trong không khí, đầu thì cứ ngỏng lên, ngỏng lên, ngỏng lên, cáu tiết quẫy đuôi ầm ĩ, tới khi định luật trọng lực cuối cùng cũng ra tay giúp sức. Nó vật được sang phía bên kia hộp điều khiển, nhào mình xuống sàn xe dưới chân tôi rồi lộn lại. Từ đây, nó dễ dàng, nhanh chóng trườn vào lòng tôi.
Ôi, nó đang hạnh phúc - hạnh phúc ghê gớm. Nó run rẩy mừng rỡ khi dụi đầu vào bụng tôi, gặm những nút áo, trong khi đuôi đập vào vô lăng như cái kim của máy đánh nhịp.
Tôi nhanh chóng phát hiện ra mình có thể tác động đến nhịp ve vẩy đuôi của nó, đơn giản chỉ bằng cách chạm vào người nó. Khi tôi đặt cả hai tay lên vô lăng, nó đập ba nhịp đều đều mỗi giây. Bum. Bum. Bum. Nhưng tất cả tôi cần làm chỉ là ấn một ngón tay lên đỉnh đầu nó, và nhịp điệu chuyển ngay từ điệu van sang bossa nova. Bum-bum-bum-bum-bum-bum! Hai ngón tay và nó chuyển thành điệu mambo. Bum-bumba-bum-bum-bumba-bum! Còn khi tôi khum cả bàn tay lại trên đầu, xoa những ngón tay lên da đầu nó, nhịp đập bùng lên thành điệu samba liên hoàn như súng máy. Bumbumbumbumbumbumbumbum!
- Chà chà! Mày đánh nhịp được cơ à! Mày xứng là một con chó reggae đấy.
Về tới nhà, tôi thả nó vào trong và tháo dây buột ra. Nó bắt đầu đánh hơi, không ngừng lại cho tới khi đã hít ngửi từng centimet vuông trong nhà. Xong xuôi nó ngồi xổm, nghếch đầu nhìn tôi như thể muốn nói, Khai quật thành công, nhưng anh chị tôi đâu rồi?
Thực ra thì cuộc sống mới của nó chưa bắt đầu cho tới giờ đi ngủ. Trước khi đi đón nó về, tôi đã dọn cho nó một góc ngủ trong ga-ra ngay sát mặt bên nhà. Chúng tôi không bao giờ để xe trong đó. Thay vào đó chúng tôi thường dùng nó làm nhà kho và phòng để dụng cụ. Máy giặt, máy sấy đặt ngoài đó, cùng với cầu là quần áo. Căn phòng khô ráo, tiện nghi, cửa dẫn ra sân sau có rào. Với tường và sàn bê tông, rất kiên cố. Tôi vui vẻ nói, dắt nó ra đó:
- Marley. Đây là phòng mày nhé.
Tôi xếp đồ chơi để gặm rải rác quanh phòng, xếp báo giữa sàn, đổ đầy nước vào một cái bát, và làm một cái giường bằng hộp các-tông với một cái ga trải giường cũ.
- Còn đây là nơi mày sẽ ngủ. - Tôi nói, bế nó đặt vào trong hộp.
Nó từng có phòng như này, nhưng lại phải san sẻ với anh chị em. Lúc này nó loay hoay đo chu vi cái hộp, rồi khổ sở ngước nhìn tôi. Như một bài kiểm tra, tôi quay vào nhà và đóng cửa lại. Tôi đứng yên lắng nghe. Ban đầu không có gì cả. Sau là tiếng rên rỉ nho nhỏ vừa đủ nghe. Rồi tiếp là tiếng kêu rõ mồn một. Nghe như có ai trong đó đang tra tấn nó vậy.
Tôi mở cửa. Vừa thấy tôi nó dừng lại ngay. Tôi lại gần, âu yếm nó vài phút, sau đó lại quay trở ra. Đứng bên ngoài, tôi bắt đầu đếm. Một, hai, ba... Đếm đến bảy thì những tiếng khóc, rên rỉ lại bắt đầu. Tôi lặp lại bài tập đó vài lần, vẫn nguyên một kết quả. Tôi thấm mệt, quyết định đây là lúc để nó khóc tới khi nào ngủ thiếp đi thì thôi. Tôi để đèn ga-ra sáng cho nó, đóng cửa, sang nhà, rồi chui vào giường nằm. Những bức tường bê tông không ngăn nổi tiếng khóc đáng thương của nó. Tôi nằm đó, cố gắng lờ đi, nghĩ từng giờ từng phút rồi nó sẽ bỏ cuộc và đi ngủ. Tiếng khóc vẫn i ỉ. Thậm chí cả khi đã cuốn nguyên cái gối quanh đầu, tôi vẫn còn nghe rõ. Tôi thầm nghĩ nó đang ở ngoài kia, lần đầu trong đời một mình, ở một môi trường xa lạ mà không có lấy hơi một con chó nào quanh đây. Mẹ nó thì không thấy đâu, các anh chị em của nó cũng thế. Con vật bé bỏng tội nghiệp. Liệu tôi có thích chuyện đó không?
Tôi kiên trì thêm nửa giờ nữa, trước khi bật dậy và đến với nó. Vừa thấy tôi, mắt nó sáng lên, đuôi bắt đầu đánh nhịp vào mặt bên hộp. Cứ như thể nó đang nói, Lại đây nào, nhảy lại đây; phòng còn rộng rãi lắm. Thay vì thế, tôi nhấc cả chiếc hộp cùng với nó bên trong mang về phòng mình. Tôi đặt nó trên sàn, tựa ngay sát vào giường. Tôi nằm sát rìa mép đệm, cánh tay thõng xuống hộp. Bàn tay tôi đặt cạnh nó, sờ thấy khung xương sườn nó phập phồng theo nhịp thở. Cả hai chúng tôi chìm dần vào giấc ngủ.