Khi những người phụ nữ lần đầu tiên bước vào văn phòng của tiến sĩ Vincent Felitti, một số người cảm thấy khó mà đi lọt qua cửa. Những bệnh nhân này không chỉ thừa cân, mà họ còn ăn nhiều đến mức tự làm cho mình bị mắc bệnh tiểu đường và hủy hoại các cơ quan nội tạng của họ. Họ dường như không thể ngăn bản thân lại. Họ được chỉ định đến đây, phòng khám của Vincent, như một cơ hội cuối cùng.
Giữa những năm 1980, tại thành phố San Diego của California, Vincent đã được nhà cung cấp dịch vụ y tế phi lợi nhuận Kaiser Permanente ủy nhiệm nghiên cứu xem nguyên nhân nào dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của căn bệnh tốn kém rất nhiều chi phí điều trị của họ: bệnh béo phì. Mọi nỗ lực của họ trước đó đều vô vọng, vì vậy những gì Vincent nhận được ban đầu là một tờ giấy trắng. Họ bảo ông bắt đầu lại từ đầu, suy xét mọi khả năng để tìm ra cách giải quyết vấn đề này. Và thế là các bệnh nhân bắt đầu tìm đến ông. Nhưng những gì ông ấy khám phá được từ những bệnh nhân này lại dẫn đến một bước đột phá lớn trong một lĩnh vực rất khác: cách chúng ta nghĩ về chứng trầm cảm và lo âu.
*
Khi cố gắng loại bỏ tất cả những giả định xung quanh bệnh béo phì, Vincent đã nghe về một phương pháp ăn kiêng mới dựa trên một suy nghĩ đơn giản đến mức điên rồ: Những người thừa cân nghiêm trọng chỉ cần ngừng ăn và sống nhờ vào lượng chất béo tích tụ trong cơ thể cho đến khi họ giảm về mức cân nặng bình thường. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu áp dụng theo phương pháp này?
Lạ kỳ thay, có thông tin rằng thời gian gần đây một thử nghiệm về điều này đã được thực hiện cách đó tám nghìn dặm, vì những lý do hơi lạ lùng. Trong nhiều năm ở Bắc Ireland, nếu bạn bị bỏ tù vì tham gia vào chiến dịch bạo lực của Quân đội Cộng hòa Ireland nhằm đánh đuổi người Anh ra khỏi Bắc Ireland, bạn sẽ bị xếp vào loại tù nhân chính trị. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ được đối xử hoàn toàn khác: Bạn được phép mặc quần áo riêng và không phải làm những công việc giống như các tù nhân khác.
Chính phủ Anh Quốc đã quyết định chấm dứt sự phân biệt đó, họ lập luận rằng các tù nhân này cũng chỉ là những tội phạm thông thường và không nên nhận được sự đối đãi khác biệt này nữa. Thế là các tù nhân quyết định phản đối bằng cách tuyệt thực. Họ dần dần trở nên gầy yếu đi.
Vì vậy, các nhà thiết kế ra phương pháp ăn uống mới này đã nghiên cứu bằng chứng y tế về những người tuyệt thực ở Bắc Ireland để tìm xem thứ gì đã giết chết họ. Nghiên cứu chỉ ra rằng vấn đề đầu tiên tù nhân phải đối mặt là thiếu kali và magie. Nếu không có chúng, trái tim của bạn sẽ không thể đập như bình thường. Được thôi, những nhà dinh dưỡng cực đoan nghĩ: Nếu chúng ta bổ sung kali và magie cho người nhịn ăn thì sao? Thì điều đó không xảy ra. Nếu có đủ mỡ, họ sẽ sống được thêm được vài tháng nữa – cho đến khi sự thiếu hụt protein giết chết họ.
Được thôi, vậy điều gì sẽ xảy ra nếu bạn cung cấp cho họ những chất bổ sung để ngăn chặn điều đó? Nếu vậy thì hóa ra người ta sẽ sống được tới một năm, miễn là có đủ chất béo. Sau đó, họ sẽ chết vì thiếu vitamin C – do bệnh scobat – hay các bệnh do thiếu chất khác.
Được thôi, vậy điều gì sẽ xảy ra nếu bạn cung cấp cho người nhịn ăn những chất bổ sung để không bị như thế? Nếu vậy thì có vẻ như họ sẽ sống sót và khỏe mạnh, như Vincent đã phát hiện trong các tài liệu y khoa. Bạn sẽ giảm được 136 kí mỗi năm. Sau đó, người nhịn ăn có thể bắt đầu ăn uống trở lại, theo một chế độ lành mạnh.
Tất cả điều này cho thấy về lý thuyết, ngay cả những người béo phì nhất cũng có thể giảm về mức cân nặng bình thường trong một khoảng thời gian nhất định. Những bệnh nhân đến với ông đã trải qua mọi thứ: mọi chế độ ăn kiêng dở hơi, mọi sự xấu hổ, mọi kiểu thúc đẩy và lôi kéo. Không có thứ gì hiệu quả cả. Họ sẵn sàng thử bất cứ điều gì. Vì vậy, dưới sự kiểm tra cẩn thận và giám sát nghiêm ngặt, họ đã khởi động chương trình này. Nhiều tháng trôi qua, Vincent nhận thấy một điều khác thường. Nó đã có hiệu quả. Các bệnh nhân đang giảm cân. Họ không ốm đau gì cả. Thật ra, họ đang khỏe mạnh trở lại. Những người từng bất lực vì việc ăn uống liên tục đã bắt đầu thấy cơ thể của họ biến đổi ngay trước mắt.
Bạn bè và người thân của họ vỗ tay tán thưởng. Những người quen biết họ đã rất ngạc nhiên. Vincent tin rằng chắc hẳn ông đã tìm ra giải pháp cho tình trạng thừa cân quá mức. “Tôi nghĩ: Chúa ơi, chúng ta giải quyết được vấn đề này rồi”, ông nói. Đúng lúc đó, có một điều mà Vincent không bao giờ ngờ tới đã xảy ra.
*
Trong chương trình, có một số ngôi sao – những người đã nhanh chóng giảm cân một cách đáng kể. Đội ngũ y tế và tất cả bạn bè của họ đều mong đợi những người đã phục hồi sức khỏe này thể hiện niềm vui. Nhưng họ không phản ứng theo cách đó.
Những người có kết quả tốt nhất, giảm cân nhiều nhất thường rơi vào tình trạng trầm cảm nặng nề, hoặc hoảng loạn, hoặc giận dữ. Một số người đã tự tử. Mất đi trọng lượng khổng lồ của mình, họ cảm thấy mình không thể đương đầu nổi với thế giới. Họ cảm thấy dễ bị tổn thương một cách khó tin. Họ thường chạy trốn khỏi chương trình, ngấu nghiến đồ ăn nhanh và tăng cân trở lại rất nhanh.
Vincent cảm thấy bối rối. Họ đang chạy trốn khỏi một cơ thể khỏe mạnh mà họ biết là mình có thể đạt được, hướng tới một cơ thể không khỏe mạnh mà họ biết sẽ giết chết họ. Tại sao? Ông không muốn trở thành một bác sĩ kiêu căng, ra vẻ đạo đức, đứng trên bệnh nhân của mình, chỉ tay vào mặt và bảo rằng họ đang tự hủy hoại cuộc sống của bản thân – đó không phải là tính cách của ông. Thật lòng ông muốn giúp họ tự cứu mình. Vậy nên ông cảm thấy tuyệt vọng. Đó là lý do tại sao ông đã làm điều mà trước đây chưa có nhà khoa học nào trong lĩnh vực này từng làm với những người béo phì. Ông không bảo họ phải làm gì nữa, mà thay vào đó ông bắt đầu lắng nghe họ. Ông mời những người đã hoảng sợ khi bắt đầu giảm cân đến và hỏi họ: Điều gì đã xảy ra khi bạn giảm cân? Bạn cảm thấy thế nào?
Có một cô gái hai mươi tám tuổi, tôi sẽ gọi là Susan để bảo mật danh tính của cô ấy. Trong năm mươi mốt tuần, Vincent đã giúp Susan giảm từ 185 kí xuống còn 60 kí. Có vẻ như ông đã cứu mạng Susan. Nhưng sau đó, khá đột ngột, chẳng có lý do rõ ràng nào, cô tăng 17 kí trong vòng ba tuần. Không lâu sau, cô ấy đã trở lại mức trên 180 kí. Thế là Vincent nhẹ nhàng hỏi cô rằng điều gì đã thay đổi khi cô bắt đầu giảm cân. Điều đó có vẻ bí ẩn đối với cả hai người. Họ đã nói chuyện rất lâu. Cuối cùng, cô nói ra một điều quan trọng. Khi cô rất béo, đàn ông không bao giờ đụng đến cô. Nhưng khi cô giảm xuống được mức cân nặng khỏe mạnh, thì một ngày nọ, cô bị một gã đàn ông gạ gẫm. Đó là một đồng nghiệp mà cô biết là đã kết hôn. Cô chạy trốn và ngay lập tức bắt đầu ăn uống một cách không kiểm soát mà không thể dừng lại.
Đây là lúc Vincent nghĩ ông phải hỏi một câu mà ông chưa bao giờ hỏi bệnh nhân của mình trước đây. Bạn bắt đầu tăng cân từ khi nào? Nếu đó là khi bạn 13 tuổi, hoặc khi bạn vào đại học (chẳng hạn), thì tại sao lại là thời điểm đó, mà không phải là một năm trước, hay một năm sau?
Susan suy nghĩ về câu hỏi này. Cô ấy bắt đầu tăng cân khi 11 tuổi. Vincent hỏi tiếp: Có điều gì khác thường xảy ra trong cuộc sống của cô năm 11 tuổi không? “Có”, Susan trả lời, “đó là khi ông tôi bắt đầu cưỡng hiếp tôi”.
Từ lúc ấy, Vincent đặt ra cho tất cả các bệnh nhân của mình ba câu hỏi đơn giản sau: Bạn cảm thấy thế nào khi giảm cân? Bạn bắt đầu tăng cân vào khoảng thời gian nào trong đời? Có điều gì khác lạ đã xảy ra vào khoảng thời gian đó? Khi nói chuyện với 183 người trong chương trình, ông bắt đầu nhận ra một số kiểu mẫu. Một người phụ nữ bắt đầu tăng cân rất nhanh năm cô hai mươi ba tuổi. Có chuyện gì xảy ra lúc đó? Cô ấy đã bị cưỡng hiếp. Cô nhìn xuống đất sau khi thú nhận điều này, và nói nhẹ nhàng: “Béo phì thì sẽ không bị để ý, đó là cách tôi cần phải làm”.
“Tôi đã không muốn tin những gì mình nghe thấy”, Vincent nói khi chúng tôi ngồi với nhau ở San Diego. “Có vẻ như người nào tôi hỏi cũng đều thừa nhận một lịch sử như vậy. Tôi tự nhủ không thể như vậy được. Nếu đây là sự thật thì mọi người đã phải biết và phải có ai đó nói với tôi rồi chứ. Chẳng phải trường y khoa là dành cho mục đích này sao?”. Khi năm người đồng nghiệp của ông đến để thực hiện thêm các cuộc phỏng vấn sâu, thì kết quả là khoảng 55% bệnh nhân tham gia chương trình đã từng bị lạm dụng tình dục – nhiều hơn rất nhiều so với cộng đồng nói chung. Và thậm chí còn nhiều người hơn thế, hầu hết mọi người đều có tuổi thơ bị sang chấn nặng nề.
Nhiều người trong số những phụ nữ này đã tự làm bản thân béo phì lên vì một lý do vô thức: để bảo vệ mình khỏi sự chú ý của đàn ông, những người mà họ tin là sẽ làm tổn thương họ. Khi quá béo, hầu hết đàn ông sẽ không còn nhìn bạn theo cách đó nữa. Và nó có hiệu quả. Khi đang lắng nghe một câu chuyện lạm dụng tình dục đầy đau đớn khác, ý tưởng đó đã ập đến với Vincent. Sau này, ông nói với tôi: “Điều mà chúng ta coi là vấn đề – chứng béo phì nghiêm trọng – thật ra lại rất thường xuyên là giải pháp cho những vấn đề mà chúng ta không hay biết gì”.
Vincent bắt đầu tự hỏi phải chăng các chương trình chống béo phì – kể cả chương trình của ông – đã sai lầm hoàn toàn, khi chỉ đưa ra lời khuyên về dinh dưỡng. Những người béo phì không cần được chỉ bảo phải ăn những gì; họ biết những lời khuyên về dinh dưỡng tốt hơn ông. Nhưng họ cần ai đó hiểu được tại sao họ lại ăn nhiều như vậy. Sau khi gặp một người từng bị cưỡng hiếp, ông nói với tôi: “Khi đã nhìn rõ được bản chất của vấn đề, tôi cảm thấy việc bảo người phụ nữ này đến gặp chuyên gia dinh dưỡng để học cách ăn uống cho đúng quả là lố bịch”.
Thay vì dạy cho những người béo phì này cách ăn uống, ông nhận ra chính họ mới là những người có thể dạy cho ông biết điều gì đang thực sự diễn ra. Vì vậy, ông tập hợp các bệnh nhân thành từng nhóm khoảng 15 người và hỏi họ: “Các bạn nghĩ tại sao người ta lại béo lên? Không phải là họ béo lên như thế nào. Đó là điều hiển nhiên rồi. Tôi đang hỏi tại sao... Lợi ích của việc béo lên là gì?”. Các bệnh nhân này nói rằng đây là lần đầu tiên họ được khuyến khích suy nghĩ về điều đó. Các câu trả lời được chia thành ba loại khác nhau. Đầu tiên là để phòng vệ trước sự tấn công tình dục: Đàn ông ít quan tâm đến bạn hơn thì bạn sẽ an toàn hơn. Thứ hai, nó có tác dụng bảo vệ thể chất. Ví dụ, có hai người cai ngục tham gia chương trình, mỗi người giảm được từ 45 đến 68 kí. Khi đột nhiên sụt giảm một trọng lượng lớn như vậy, họ cảm thấy dễ bị nguy hiểm hơn khi ở giữa các tù nhân – họ có thể dễ bị tấn công hơn. Để tự tin bước qua những ô cửa phòng giam đó, họ cần có kích cỡ bằng một chiếc tủ lạnh.
Và loại thứ ba là để làm giảm bớt những kỳ vọng của mọi người về họ. Vincent nói: “Nếu bạn nặng hơn 180 kí, người ta sẽ cho rằng bạn ngu ngốc, lười biếng”. Nếu bạn bị cả thế giới làm tổn thương nặng nề – và lạm dụng tình dục không phải là cách duy nhất khiến điều này xảy ra – bạn thường muốn trốn tránh. Nghịch lý thay, trở thành một người nặng nề lại là một cách để được nhiều người coi là vô hình.
“Khi bạn nhìn vào một ngôi nhà đang cháy rụi, biểu hiện rõ ràng nhất là khói bốc lên rất nhiều”, Vincent nói với tôi. Do đó, thật dễ dàng khi nghĩ rằng khói chính là vấn đề, và giải quyết được khói là giải quyết xong vấn đề. Nhưng “tạ ơn Chúa vì các sở cứu hỏa hiểu rằng điều mà bạn cần xử lý là điều bạn không nhìn thấy – ngọn lửa bên trong chứ không phải khói bốc ra. Nếu không, đám cháy nhà sẽ được xử lý bằng cách mang quạt lớn đến để thổi khói bay đi. Điều đó sẽ khiến ngôi nhà bị thiêu rụi nhanh hơn”.
Ông đã nhận ra: Béo phì không phải là ngọn lửa. Nó là khói.
*
Một ngày nọ, Vincent đến một hội nghị y khoa dành riêng cho bệnh béo phì để trình bày những phát hiện của mình. Sau khi ông trình bày xong, một bác sĩ trong khán phòng đứng lên và giải thích: “Những người đã quen thuộc với những vấn đề này đều nhận ra rằng kiểu giải thích như vậy của bệnh nhân” – tức là mô tả việc họ bị lạm dụng tình dục – “cơ bản toàn là bịa đặt, nhằm che đậy cuộc đời đầy thất bại của họ”. Hóa ra trước đây những người điều trị bệnh béo phì đã nhận thấy rằng có một số lượng người béo phì không rõ tỷ lệ bao nhiêu đã mô tả là họ bị lạm dụng. Nhưng người ta chỉ cho rằng họ đang bao biện.
Vincent thấy thật kinh hoàng. Trên thực tế, ông đã xác minh lời kể bị lạm dụng của nhiều bệnh nhân – bằng cách nói chuyện với người thân của họ, hoặc với các quan chức thực thi pháp luật từng điều tra vụ việc của họ. Nhưng ông biết mình chưa có đủ bằng chứng khoa học thuyết phục để bác bỏ quan niệm của những nhà điều trị như thế. Ấn tượng của ông khi nói chuyện với từng bệnh nhân – thậm chí qua việc thu thập các số liệu trong nhóm nghiên cứu – cũng không chứng minh được gì nhiều. Ông muốn thu thập những dữ liệu khoa học chuẩn xác. Vì thế, ông quyết định hợp tác với một nhà khoa học là tiến sĩ Robert Anda, người đã dành nhiều năm nghiên cứu về lý do tại sao người ta lại làm những hành động tự hủy hoại bản thân như hút thuốc. Với sự tài trợ của Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (Centers for Disease Control – CDC) – một cơ quan lớn của Hoa Kỳ tài trợ cho nghiên cứu y tế – họ đã cùng nhau vạch ra một con đường để kiểm tra tất cả những điều này, để xem ngoài số mẫu nghiên cứu nhỏ trong chương trình của Vincent, thì nó có đúng trên diện rộng hay không.
Họ gọi nó là nghiên cứu Những trải nghiệm tuổi thơ có hại (Adverse Childhood Experiences – ACE), và nó khá đơn giản. Đó là một bảng câu hỏi. Bạn được hỏi về mười loại trải nghiệm khủng khiếp khác nhau có thể xảy ra khi bạn còn bé – từ bị lạm dụng tình dục, lạm dụng cảm xúc, đến bị bỏ rơi. Và sau đó là một bảng câu hỏi y khoa chi tiết, để kiểm tra tất cả những vấn đề xảy ra với bạn, như béo phì hay nghiện ngập. Một trong những điều họ thêm vào danh sách – gần như để gợi ý suy ngẫm sau khi trả lời – là câu hỏi: Bạn có đang bị trầm cảm không?
Cuộc khảo sát này được thực hiện với 17.000 người tìm đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe (vì nhiều lý do) ở Kaiser Permanente, San Diego. Những người điền vào biểu mẫu phần nào giàu có hơn và già hơn một chút so với dân số chung, nhưng tương đối đại diện được cho dân số của thành phố.
Khi có kết quả, họ tổng hợp lại – bước đầu là để xem liệu có bất kỳ mối tương quan nào không.
Hóa ra, với tất cả các loại trải nghiệm sang chấn đã trải qua khi còn nhỏ, bạn hoàn toàn có khả năng mắc phải trầm cảm khi trưởng thành. Nếu từng trải qua 6 loại sự kiện sang chấn trong thời thơ ấu, khi trưởng thành bạn có khả năng mắc phải trầm cảm nhiều gấp 5 lần so với những người không gặp bất kỳ sự kiện nào. Nếu từng trải qua đến 7 loại sự kiện sang chấn khi còn nhỏ, bạn có khả năng cố gắng tự tử khi trưởng thành cao hơn 3.100%.
Tiến sĩ Anda nói với tôi: “Khi kết quả được công bố, tôi không thể tin nổi. Tôi cứ nhìn vào nó và lẩm bẩm: Thật là vậy sao? Thật không thể tin được”. Bạn không mấy khi nhận được những con số thế này trong y học. Quan trọng là họ không chỉ tình cờ có được bằng chứng rằng có một sự tương quan giữa trải nghiệm sang chấn và trầm cảm hay tự tử: hai điều này xảy ra đồng thời. Mà có vẻ như họ đã tìm được bằng chứng cho thấy sang chấn góp phần gây ra những vấn đề này. Làm sao chúng ta biết được? Sang chấn càng lớn, bạn càng có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu hoặc tự tử nhiều hơn. Thuật ngữ chuyên môn để chỉ điều này là “hiệu ứng đáp lại liều lượng” (dose-response effect). Bạn càng hút nhiều thuốc lá, nguy cơ mắc ung thư phổi của bạn càng tăng lên – đó là một lý do giúp chúng ta biết rằng hút thuốc lá gây ra ung thư. Tương tự, bạn càng bị sang chấn khi còn nhỏ, nguy cơ trầm cảm của bạn càng tăng lên.
Thật kỳ lạ, hóa ra bị lạm dụng tình cảm có khả năng gây ra trầm cảm nhiều hơn bất kỳ loại sang chấn nào khác – kể cả bị lạm dụng tình dục. Bị cha mẹ đối xử tàn nhẫn là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến chứng trầm cảm trong tất cả các loại này.
Khi họ đưa kết quả cho các nhà khoa học khác – bao gồm cả Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC), đơn vị đồng tài trợ cho nghiên cứu – tất cả đều không khỏi nghi ngờ. Tiến sĩ Anda nói với tôi: “Nghiên cứu này đã gây sốc cho mọi người. Người ta không muốn tin vào điều đó. Những người tại CDC không muốn tin vào điều đó. Trong nội bộ CDC đã có sự phản đối khi tôi mang dữ liệu đi khắp nơi, các tạp chí y khoa [ban đầu] cũng không muốn tin, bởi vì nó quá lạ lùng đến mức khiến họ phải nghi ngờ. Bởi vì nó khiến họ đặt dấu chấm hỏi với cách họ nghĩ về thời thơ ấu... Nó đồng thời cũng thách thức rất nhiều thứ khác”. Trong những năm sau đó, nghiên cứu này đã được lặp lại nhiều lần và luôn cho kết quả tương tự. “Nhưng chúng ta chỉ vừa mới bắt đầu suy nghĩ kỹ về những hàm ý của nó”, Vincent nói với tôi.
*
Sau khi thấm nhuần tất cả những điều này, Vincent tin rằng chúng ta đã mắc phải sai lầm với căn bệnh trầm cảm tương tự như sai lầm mà trước đây ông đã mắc phải với căn bệnh béo phì. Chúng ta đã không coi đó là triệu chứng của một vấn đề nào đó sâu sắc hơn cần được giải quyết. Vincent tin rằng có một vụ “cháy nhà” bên trong nhiều người chúng ta, mà chúng ta thì vẫn đang tập trung vào đám khói.
Nhiều nhà khoa học và nhà tâm lý học xem trầm cảm là một sự trục trặc không hợp lý trong não hoặc trong gene của bạn, nhưng Vincent biết Allen Barbour, một bác sĩ nội khoa tại Đại học Stanford, đã nói trầm cảm không phải là một căn bệnh; trầm cảm là một phản ứng bình thường với những trải nghiệm bất thường trong cuộc sống. “Tôi nghĩ đó là một ý tưởng rất quan trọng”, Vincent nói với tôi. “Bạn có thể vượt ra khỏi ý tưởng dễ dãi đầy hạn chế, rằng lý do khiến tôi trầm cảm là do tôi bị mất cân bằng serotonin, hay mất cân bằng dopamine, hay một cái gì đó”. Ông nói, đúng là có điều gì đang xảy ra trong não bạn khi bạn trở nên trầm cảm, nhưng đó “không phải là một lời giải thích mang tính nhân quả”, mà đó là “một cơ chế trung gian cần thiết”.
Theo Vincent, một số người không muốn hiểu điều này, bởi vì ít nhất ban đầu sẽ “dễ chịu hơn” khi nghĩ rằng tất cả chuyện xảy ra đơn giản là do những thay đổi trong não bộ. “Nó chối bỏ quá trình trải nghiệm và thay thế bằng một quá trình cơ học”. Nó biến nỗi đau của bạn thành một thứ ảo ảnh có thể trục xuất bằng thuốc. Nhưng cuối cùng, những thứ thuốc ấy không giải quyết được vấn đề, giống như việc yêu cầu các bệnh nhân béo phì ngừng ăn để giải quyết vấn đề của họ. Ông nói: “Thuốc men có một vai trò nhất định. Nhưng liệu chúng có phải là giải pháp cuối cùng không? Không. Có phải chúng đang lừa bịp mọi người không? Chắc chắn là có”.
Vincent cho biết, để giải quyết vấn đề cho những bệnh nhân béo phì của mình, họ đều cùng nhận ra rằng họ phải giải quyết những vấn đề đã khiến bệnh nhân phải ăn uống một cách ám ảnh lúc ban đầu. Vì vậy, ông thành lập các nhóm hỗ trợ để bệnh nhân có thể thảo luận về những lý do thực sự khiến họ phải ăn và nói về những gì họ đã trải qua. Khi điều đó được thực hiện, nhiều người có thể tiếp tục chương trình ăn kiêng và giữ được cân nặng an toàn. Ông sẽ sớm khám phá ra một cách để làm điều này với bệnh trầm cảm và thu được những kết quả đáng ngạc nhiên – như tôi sẽ thảo luận sau.
*
Vincent đã khiến tôi tức giận hơn bất kỳ ai mà tôi từng nói chuyện về những nguyên nhân tiềm ẩn của chứng trầm cảm. Sau khi gặp Vincent, tôi đi đến bãi biển ở San Diego và nổi điên với những gì ông ấy nói. Tôi ra sức tìm lý do để bác bỏ nó. Rồi tôi tự hỏi: Tại sao mình lại tức giận vì điều này? Nó có vẻ kỳ dị và tôi không thực sự hiểu được nó. Sau đó, tôi thảo luận với một số người mà tôi tin tưởng và bắt đầu hiểu ra vấn đề.
Nếu bạn tin rằng chứng trầm cảm của mình chỉ là do não bị trục trặc, thì bạn không cần phải suy nghĩ về cuộc đời mình hay về những gì ai đó hẳn đã gây ra cho bạn. Niềm tin rằng tất cả đều là do vấn đề sinh học, theo một cách nào đó, đã bảo vệ bạn được một thời gian. Nhưng nếu bạn chọn tin theo hướng ngược lại, bạn phải nghĩ về những chuyện đã xảy ra. Và nó khơi lại nỗi đau trong bạn.
Tôi hỏi Vincent rằng anh ấy nghĩ lý do nào dẫn đến việc sang chấn tuổi thơ lại thường gây ra trầm cảm và lo âu ở tuổi trưởng thành. Và anh ấy trả lời thật sự anh không biết. Vincent là một nhà khoa học có tài, anh không muốn phỏng đoán. Nhưng tôi tin rằng mình biết tại sao, dù chưa thể chứng minh được một cách khoa học.
Khi bạn là một đứa trẻ và trải nghiệm một điều gì đó gây chấn thương về tâm lý, hầu hết bạn đều nghĩ rằng đó là lỗi của mình. Và điều này có lý do của nó, nó không hề phi lý: cũng giống như bệnh béo phì thực tế là một giải pháp cho một vấn đề mà hầu như ít ai nhìn thấy. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi rất thường hay ốm, còn cha tôi thì vắng nhà suốt, thường là đi đến một nước khác. Và mọi chuyện còn tệ hơn nữa khi cũng trong thời gian đó, tôi phải trải qua những hành vi cư xử vô cùng bạo lực từ một người lớn mà tôi quen biết. Ví dụ như một lần tôi đã bị người đó siết cổ bằng một sợi dây điện. Đến năm 16 tuổi, tôi đã rời khỏi nhà và đến sống ở một thành phố khác, tránh xa tất cả những người lớn mà tôi biết, và ở thành phố mới đó, – cũng giống như trường hợp những bạn trẻ bị đối xử tương tự ở độ tuổi định hình tính cách – tôi đã làm những chuyện dại dột nguy hiểm để rồi lại bị cư xử theo cách mà lẽ ra tôi không nên bị nhận lấy.
Tôi biết bạn sẽ không thể biết được những người mà tôi đang nói đến là ai dựa trên những gì tôi viết. Tôi biết nếu tôi nhìn thấy một người lớn đang siết cổ một đứa trẻ bằng một sợi dây điện thì không đời nào tôi có ý nghĩ trách cậu bé. Và nếu có ai đó chỉ cần băn khoăn rằng biết đâu đó là lỗi của cậu bé thì tôi sẽ cho rằng họ bị mất trí rồi. Tôi biết cảm giác thấy mình có lỗi – xét về mặt lý trí – là hoàn toàn vô lý. Nhưng, tôi vẫn cảm thấy như vậy. Cảm giác đó vẫn hiện diện và chính nó gần như đã ngăn tôi viết ra những dòng này.
Tại sao có rất nhiều người từng bị bạo hành trong thời thơ ấu lại có cùng cảm giác như vậy? Tại sao nhiều người trong số họ lại có hành vi tự hủy hoại bản thân, như làm cho mình béo phì, nghiện ngập hoặc tự tử? Tôi đã dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ về điều này. Khi còn nhỏ, bạn gần như không có khả năng thay đổi môi trường sống của mình. Bạn không thể bỏ đi hoặc buộc ai đó ngừng làm tổn thương bạn. Vì vậy, bạn có hai lựa chọn: Hoặc bạn có thể thừa nhận với bản thân rằng mình bất lực – rằng bất cứ lúc nào bạn cũng có thể bị tổn thương nặng nề mà không thể làm gì được; hoặc bạn có thể tự nói rằng đó là lỗi của bạn. Bằng cách làm như vậy, bạn trở nên có một chút sức mạnh nào đó – ít nhất là trong tâm trí của chính bạn.
Nếu mọi thứ là lỗi của bạn, thì bạn còn có thể làm gì đó để thay đổi. Bạn không phải là một hòn bi bị đập lòng vòng trong một cái máy bắn bi. Bạn là người nắm cần điều khiển máy. Bạn đặt tay lên những chiếc cần nguy hiểm. Theo cách này, giống như bệnh béo phì đã bảo vệ những người phụ nữ khỏi gã đàn ông mà họ sợ sẽ hãm hiếp họ, việc tự trách bản thân về những tổn thương thời thơ ấu sẽ bảo vệ bạn khỏi việc cảm thấy mình đã và đang mong manh yếu đuối đến dường nào. Bạn có thể trở thành người mạnh mẽ. Nếu đó là lỗi của bạn, thì nó nằm trong tầm kiểm soát của bạn.
Nhưng điều đó có cái giá của nó. Nếu bạn nhận trách nhiệm về việc bị tổn thương, thì ở một mức độ nào đó, bạn phải nghĩ rằng bạn đáng bị như vậy. Một người nghĩ rằng họ đáng bị tổn thương khi còn nhỏ cũng sẽ nghĩ rằng họ đáng bị như vậy khi trưởng thành.
Đây không phải là cách để sống, mà là một cách đánh lạc hướng để bạn có thể vượt qua được nghịch cảnh của quá khứ.
*
Bạn có thể nhận thấy nguyên nhân gây ra trầm cảm và lo âu này hơi khác so với những nguyên nhân mà tôi đã thảo luận từ đầu đến giờ và nó cũng khác với những nguyên nhân mà tôi sẽ thảo luận về sau.
Như tôi đã đề cập ở trên, hầu hết những người từng nghiên cứu bằng chứng khoa học đều chấp nhận rằng có ba loại nguyên nhân khác nhau gây ra trầm cảm và lo âu: sinh học, tâm lý và xã hội. Những nguyên nhân mà tôi đã thảo luận cho đến giờ, và sẽ quay lại chút nữa thôi, đều là do môi trường. Tôi sẽ sớm nói đến các yếu tố sinh học.
Nhưng sang chấn tuổi thơ lại thuộc về một loại khác. Nó là một nguyên nhân tâm lý. Khi thảo luận về vấn đề này, tôi hy vọng sang chấn tuổi thơ có thể chỉ ra thêm nhiều nguyên nhân tâm lý khác gây ra chứng trầm cảm, những nguyên nhân quá đặc thù để có thể thảo luận một cách rộng rãi. Có vô số yếu tố có thể hủy hoại tinh thần của chúng ta. Tôi biết một người bị vợ lừa dối suốt nhiều năm khi cô dan díu với người bạn thân nhất của anh ta, anh vô cùng suy sụp khi biết chuyện. Tôi biết một người đã sống sót sau một vụ tấn công khủng bố và gần như thường xuyên lo âu suốt một thập niên sau đó. Tôi biết một cô gái có người mẹ cực kỳ tài giỏi và không bao giờ đối xử bạo lực với con, nhưng lại tiêu cực kinh khủng, luôn dạy cô ấy nhìn thấy điều tồi tệ nhất ở con người và giữ khoảng cách với mọi người. Bạn không thể xếp những trải nghiệm này vào các loại điển hình theo kiểu “ngoại tình”, “tấn công khủng bố” hay “phụ huynh lạnh lùng” là nguyên nhân gây ra trầm cảm và lo âu.
Nhưng có một điều mà chúng ta biết: Sự tổn thương tâm lý không nhất thiết phải quá nghiêm trọng như bị bạo hành trong thời thơ ấu thì mới có thể tác động sâu sắc đến bạn. Bị vợ “cắm sừng” với người bạn thân nhất của mình không phải là một trục trặc trong bộ não. Nhưng nó là một nguyên nhân gây ra đau khổ sâu sắc về tâm lý – và nó có thể dẫn đến trầm cảm, lo âu.
*
Tiến sĩ Anda – một trong những người tiên phong nghiên cứu về điều này – nói với tôi rằng, nó buộc ông phải thay đổi cách suy nghĩ về bệnh trầm cảm và nhiều vấn đề khác theo hướng từ nội tại dẫn đến bên ngoài.
“Khi người ta gặp phải những loại vấn đề như vậy, đã đến lúc ngừng hỏi rằng họ bị trục trặc ở chỗ nào, mà phải bắt đầu hỏi chuyện gì đã xảy ra với họ”.