Mặt trời mới hé sau cơn mưa.
Từ khung cửa sổ có mấy vệt xanh nhìn ra ngoài, tấm áo tối màu của Trúc Ân hóa ra không phải tuyền một màu đen tuyền mà là hơi có chút màu tím nhàn nhạt sáng bóng. Dáng vẻ đi lại của hắn vừa nhàn tản vừa thong dong, giống như một quý tộc đang thong thả đi chơi xa. Cái đoạn đuôi rắn kia ẩn giấu dưới lớp y phục, trên con đường bùn lầy bị cỏ xuân che lấp không lộ ra chút dấu vết nào. Dần dần hắn càng đi càng xa, rồi biến thành một bóng dáng mờ mờ nhạt nhạt, kế đó tà áo đen tung bay, thân hình phiêu tán như một đám mây đen trôi mất.
Núi rừng phía xa xôi, bầy quạ nháo nhác bay lượn. Có mấy con bay tới cái cây xác xơ trước ngôi miếu cổ hoang tàn.
“Ta đã phải tốn mất một trăm năm vừa rồi để mô phỏng dáng đi của loài người, bây giờ trông dáng đi của ta có phải đã rất giống rồi không?”, sáng sớm, lúc đang bận rộn làm bữa sáng cho mình Trúc Ân hỏi Tử Hân như vậy.
“Việc gì phải mô phỏng kẻ khác?”, Tử Hân khẽ cười, “Hay là huynh cảm thấy bộ dạng vốn có của bản thân rất xấu xí ư?”.
“Tộc của bọn ta cực kỳ cô độc, cũng chẳng có thanh danh gì tốt gì. Trôi nổi ở hai giới, nhân giới đã không dung mà tiên giới cũng không thừa nhận.”
“Có điều ta không hề bận tâm tới bộ dạng của huynh trông thế nào”, Tử Hân nói, “Huynh ngại gì mà không hiện chân thân đi?”.
“Ta lo đệ sợ.”
“Ta chẳng sợ huynh chút nào.”
“Thế thì là ta sợ”, hắn ngừng một lát rồi bổ sung thêm một câu, “Ta sợ đệ thấy rồi sẽ sợ hãi”.
“Ta không sợ…”
“Thế thì là ta sợ đệ thấy rồi sẽ sợ hãi tuy rằng đệ nói đệ không sợ…”
“Ta sẽ không ép huynh đâu”, không đợi hắn nói hết Tử Hân đã ngắt lời, rồi lấy trong bọc hành trang ra một quả táo, yên lặng mà ăn.
Cứ như thế kéo dài gần một tuần trà thời gian, người nào người nấy tự mình ăn bữa sáng của bản thân, thế rồi Trúc Ân rất khách khí cáo từ. Hắn không hề nói với Tử Hân hướng đi của mình, Tử Hân cũng không dò hỏi hắn.
Giống như phụ thân mình, đối với người lạ Tử Hân luôn giữ thái độ cẩn trọng, không có tính hiếu kỳ dù là ở mức độ thấp nhất mà cũng không cho rằng cần thiết phải qua lại. Đối với hai người họ, người xa lạ biến thành quen thuộc rồi lại trở thành bằng hữu là một chuyện cực kỳ khó khăn. Đương nhiên, ngược lại càng khó hơn.
…
Lúc cưỡi ngựa trở lại con phố lớn trong Đông Đường trấn, nơi ấy đã sớm tấp nập náo nhiệt lắm rồi. Tử Hân tìm lại vị trí sạp của mình hôm qua, mượn người bên cạnh một cái ghế dài rồi ngồi điềm tĩnh xuống. Chàng cảm thấy bộ dạng hiện tại của mình trông rất lôi thôi lếch thếch: ngủ một đêm trên mặt đất lạnh lẽo và cứng, xương cốt trở nên quá cứng nhắc đến khó chịu. Lúc rửa mặt thì tìm mãi cũng không ra nước sạch, đành phải ra cái vại nước cạnh cửa nhắm mắt nhắm mũi mà ráng rửa qua loa mặt mũi một chút. Trong vại đầy những rong rêu xanh mượt nhỏ như sợi tóc, lấy tay khẽ khuấy nước có thể nhìn thấy mấy con nòng nọc sợ hãi luống cuống bơi qua bơi lại.
Từ lúc nhớ nổi tới tận bây giờ, Tử Hân chưa bao giờ ở bẩn như thế.
Ánh thái dương lười biếng trải trên con phố tấp nập người qua lại, mua bán hang hóa vô cùng nào nhiệt, tiếng rao, tiếng mặc cả, trả giá ồn ào.
Bên trái chỗ chàng ngồi là một vị lão hán mặt nhỏ râu dài, mười ngón tay gầy gò khô quắt, đôi mắt mờ đục, da mặt vàng vọt, dáng vẻ tàn tạ, mở một sạp đoán chữ; bên phải chàng là một tay bán rau dưa trẻ tuổi, bộ dạng cực kỳ nhanh nhẹn, tháo vát. Một tay hắn cầm cái quạt rách để xua ruồi đuổi nhặng, tay kia tưới nước lên rau quả cho rau củ được tươi hơn mà không bị héo rũ.
Đang đầu mùa xuân, mướp đắng đưa lên chợ đều có màu xanh nhạt, hình dạng như con thoi, hai đầu có màu vàng nhạt bắt mắt, bề mặt thì như có hoa văn – bất kể là lồi hay lõm – thì đều sạch sẽ bóng loáng, vỏ đày đặn, tuyệt đối không có lông tơ hay sần sùi nhấp nhô như dưa chuột hay thấy, về mặt hình dáng thì mướp đắng càng giống với ngô hơn. Nghe nói lá trên dây leo cây mướp đắng còn dày đặc hơn cả trinh đằng, tới mùa hái, chúng thẹn thùng ẩn hết đằng sau lớp lá rậm rạp, chỉ đôi khi lộ ra nửa thân mà thôi. Anh sẽ phải như một tay phàm phu thô lỗ vạch kéo chúng từ bên trong lớp lá rập rạp mà chúng ẩn nấp ra ngoài. Bày phía trên mướp đắng là những trái tiểu lựu to nhỏ không đều, trông như triền núi thời cổ xưa, như thạch nhũ trong hang đá, lại như những hòn sỏi trong một khu vườn hoa vậy. Tay bán rau tính toán khéo léo, đem bày bốn mươi chín trái mướp đắng thành hàng, mỗi hàng bảy trái, to nhỏ đều nhau, hàng sau chồng lên hàng trước, bày thành hình hoa lăng. Ở bên cạnh thì bày thêm những quả ớt đỏ tươi và cà chua . Cả cái sạp rau quả của hắn một phen bày biện công phu trông đã mắt và đẹp mắt như một bức họa.
Tử Hân ngây ra nhìn hồi lâu, không tự chủ được nghiêng đầu qua ngắm, tay bán rau lập tức hỏi: “Khách quan muốn mua không? Mướp đắng thượng hạng tươi rói này ta chỉ tính ngươi năm phân tiền thôi, rẻ lắm”.
Tử Hân vội xua tay: “Không mua, không mua”.
“Bốn phân thì sao? Mua hai cân ta tính ngươi bốn phân một cân nhé”, tay bán rau đeo bám nhất định không buông.
“Không mua”, chàng chỉ đành bồi thêm một câu, “Xin lỗi”.
Khuôn mặt tay bán rau chẳng lộ vẻ thất vọng gì, dường như bị người ta từ chối chẳng qua chỉ là một chuyện quá tầm thường đã thành quen thuộc. Dưới cái nhìn của Tử Hân, tâm tư người bán rau bỏ vào việc bố trí sắp xếp rau quả chẳng hề thua kém đại tướng quân bày binh bố trận chút nào; nước bọt phải bỏ ra để tốn công để thuyết phục khách hang mua rau củ đại khái cũng chẳng ít hơn các quan can gián trong cung đình của đế vương. Ngày nối ngày, bọn họ ngồi nơi đầu đương góc phố bụi bẩn, hết lần này tới lần khác chỉnh trang, xếp đi xếp lại lại hàng hóa bị người mua nhặt lên, đặt xuống thành bày bừa. Bất kể cuộc sống có lặp đi lặp lại thế nào, bọn họ luôn luôn không thay đổi nét mặt, hứng khởi mà đợi chờ, nồng nhiệt mà chào mời, chăm chú mà thu xếp…
Nghĩ tới đây, Tử Hân không khỏi cười khổ.
Để trao cho cuộc sống thường ngày một loại ý nghĩa hiển nhiên cần có dũng khí: Một loại dũng khí đối diện với cái bất đắc dĩ của cuộc đời này.
May là tuy chàng không có thứ dũng khí ấy nhưng vận khí thì lại vốn không tệ cho lắm.
Thì ra cái tiểu trấn này tuy không phải hoang vu gì nhưng thôn dân ở đây đại đa số rất là mê tín dị đoan. Có chút bệnh vặt thì hoặc mời vu bà đến nhà làm phép, hoặc thỉnh đạo sĩ để cầu an. Bệnh thành nặng rồi thì cả nhà lớn nhỏ cùng dắt nhau tới đền chùa cách trấn ngoài mười dặm dập đầu cầu khấn vô cùng thành tâm, sau đó về nhà lễ phật tụng kinh. Đến khi mọi thứ đều không ăn thua thì lúc bấy giờ mới chạy đến các trấn lớn ở xa hơn tìm lang trung… ấy là mới chỉ kể người có tiền mà thôi. Cho nên ở đây trước giờ vốn không có đại phu tọa đường, nhưng sạp thuốc thì lại có liền mấy cái. Nếu như có giang hồ lang trung hoặc hòa thượng vân du đi ngang qua, thôn dân vừa thấy là liền như ong vỡ tổ đổ xô tới, đem nào là bệnh cũ mười mấy tháng rồi chưa khám, bệnh mãn tính, bệnh không nặng, bệnh không có tiền khám mang ra khám một lượt, khám cho bằng hết. Chỉ vì giang hồ lang trung thu phí khám bệnh, bốc thuốc cực rẻ, thực ra nếu họ không có tiền thì một rổ lạc hay trứng gà thì giang hồ lang trung cũng đều chấp nhận được cả.
Tử Hân vừa tới Đông Đường trấn, lại được Diêu A Tam ra sức quảng cáo hộ, ngày hôm đấy chàng gần như bận rộn khám bệnh tới tận tối. Rốt cuộc là nhổ bao nhiêu cái răng, kê bao nhiêu đơn thuốc thì chính bản thân chàng cũng không còn rõ nữa.
Tới buổi chiều khi chợ phiên càng ngày càng thêm đông đúc tấp nập, người tới khám bệnh càng lúc càng lắm, A Tam thấy chàng bận tối mắt tối mũi bèn tự quyết thay chàng mướn một cửa tiệm nhỏ mặt quay ra đường. Vốn chủ tiệm là một thương nhân buôn bán vải vóc, nhưng vì mở cửa hàng buôn bán chưa đến nửa năm đã dốc dùng sạch chút vốn liếng, lại sợ bị người ta truy nợ liền thu gom đồ đạc đang đêm chuồn mất, để lại gian hang đồ đạc còn lại nửa mới nửa cũ. Đằng sau cửa tiệm liền với một ngôi nhà to không to nhỏ không nhỏ, ở giữa có một cái giếng nước. Trong đó có đủ phòng bếp phòng ngủ cho nên giá thuê tuyệt không thấp nhưng nhìn chung là sạch sẽ, gọn gàng. Tử Hân vừa mới lập nghiệp, chỉ mới giao được có năm lượng bạc làm tiền cọc thuê cửa hàng. Nhưng A Tam vỗ ngực đảm bảo nói: “Xem tay nghề của lão đệ lưu loát thuần thục như vậy, thì kiếm được bạc trắng chỉ là chuyện sớm hay muộn thôi, không phải lo lắng nhiều. Mấy chuyện lặt vặt này cứ tính lên người Tam ca ngươi! Ngươi chỉ cần cứ cách mười ngày giao cho ta mười lượng bạc là được rồi”.
Nói rồi bèn gọi người tới quét tước nhà cửa sạch sẽ, chăng màn trướng cho chàng. Bàn ghế một bộ được đem đến, đệm bắt mạch bày ra, bút nghiên ngay ngắn thật cũng ra dáng một y quán. Bận rộn một phen cả ngày trời, chớp mắt trời đã tối, đám đông dần dần dần tản bớt, Tử Hân cũng có phần mệt mỏi, cũng lười làm cơm tối, bèn nhai qua loa ba quả dưa chuột rồi ra ngoài mua một ít vật dụng thường dùng hàng ngày, về nấu nước tắm rửa sạch sẽ rồi mở bọc hành lý, thu dọn giường chiếu nằm tựa người thong thả đọc sách.
Ngọn nến xanh trên mặt bàn hình như là nến giả, thắp rồi mà chẳng được bao lâu đã cháy hết một nửa. Bấc nến thì kêu lách tách, ánh lửa chập chờn bất định, cả căn phòng cũng theo ánh nến mà như nhảy loạn lên.
Tiếp đến, chữ trong sách cũng trờ nên bồng bềnh. Một cơn mày hoa mắt váng ập đến, Tử Hân bèn quăng sách sang một bên, rồi ra bàn đốt một cây nến khác lên.
Đúng lúc ấy, cửa mở đánh “rầm” một cái.
Giờ chàng mới nghĩ ra, bởi vì dọn vào nhà này quá vội, cũng quên mất chưa có khóa cửa. Bản thân trên người chàng chẳng dư dả gì, lẽ nào còn phải sợ ăn trộm thó mất thứ gì chứ, trộm vào cũng chẳng có thứ gì đáng tiền mà bê đi. Ai mà ngờ xông vào lại là một tiểu cô nương mười hai, mười ba tuổi, thân mặc áo màu lục, đầu thắt hai búi, trên khuôn mặt gày nhom có một đôi mắt to tròn. Cô bé nhanh nhẹn tiến vào trong phòng, sau lưng còn mang theo một bọc đồ to đùng. Trông thấy Tử Hân bèn “Ý” một tiếng, có vẻ rất ngạc nhiên.
“Này! Ngươi là ai? Ở trong này từ lúc nào thế?”, không đợi Tử Hân mở miệng, cô bé chống nạnh, không khách khí mà chất vấn chàng.
“Từ chiều.”
“Nơi đây! Căn phòng này! Là địa bàn của ta”, cô bé ánh mắt sắc nhọn nhìn chàng chằm chằm, điệu bộ tỏ ra vô cùng hung dữ, rõ ràng là đã nổi giận lắm rồi, “Ngươi… cút ra ngoài!”.
Tử Hân vừa định mở miệng đáp lại thì lại nghe một tiếng kêu chói tai, cô bé chạy tới bên giường, giậm chân gào hỏi: “Chăn gối của ta đâu rồi? Sao không thấy đâu nữa rồi? Ngươi bỏ chúng đi đâu mất rồi?”.
Thực ra lúc mới chuyển vào đây, việc quét dọn phòng ngủ cũng chẳng tốn bao nhiêu thời gian công sức, trong này kỳ thực rất sạch sẽ, đám chăn đệm trên giường cũng cực kỳ thơm tho. Kể cả như thế, bệnh ưa sạch của Tử Hân vẫn cứ phát tác, chàng đã đem gom tất tần tật đồ trên giường cuộn lại nhét vào một cái hòm, sau đó đổi sang dùng đồ mới hết.
“Xin hỏi cô nương, căn phòng này đúng là phòng của cô sao?”, Tử Hân không vội không gấp thong thả hỏi.
“Đây là phòng bỏ không, ai phát hiện ra trước thì được ở trước”, cô bé đứng trước mặt chàng ngạo mạn, cao giọng lớn tiếng nói. Rõ ràng cô bé thấp hơn chàng một cái đầu nhưng lại không hề tỏ ra yếu thế một chút nào, “Ta đã ở đây được hai ngày rồi”.
“Có khế ước không?”
“Không có”, cô bé nhìn chàng trừng trừng mắt ngang bướng.
“Ta lại có”, một tờ khế ước đang ở trong tay áo được đưa ra chàng lấy ra đưa vào tay cô bé, “Ta đã giao năm lượng bạc làm tiền cọc thuê chỗ này rồi”.
Cô bé cầm tờ giấy đọc kỹ một lượt, “hừ” một tiếng, bất mãn hỏi: “Ngươi có bạc thì giỏi lắm sao?”.
“Không dám, không dám”
“Đi thì đi, ai mà them ở lại cái căn phòng rách này!”, cô bé xoay người cái vù, bọc hành lý vắt lên vai, ngẩng cao đầu, khí khái lập tức sải bước đi ra ngoài.
Một sự hiểu lầm.
May mà cô bé này tới như chớp đi cũng như gió, không hề lằng nhằng dây dưa gây khó khăn, chàng thở phào một tiếng.
Thế rồi, nhờ vậy mà Tử Hân chợt có hưng phấn trở lại, Tử Hân không thấy buồn ngủ bèn lại nằm tựa đầu giường tiếp tục đọc sách.
Đến nửa đêm, gió mưa chợt nổi lên, nghe xa xa văng vẳng tiếng sấm ầm ầm, chàng ngồi bật dậy đóng cửa sổ lại. Nghĩ tới việc vừa rồi chính bởi vì chủ quan không khóa cửa nên mới dẫn tới phiền phức thế là đi ra tiền sảnh, tìm cái then cửa, đang định cài then lại thì chợt phát hiện cô bé áo xanh ban nãy hóa ra không hề đi đâu xa, chỉ gối đầu lên bọc hành lý, đang co ro bó gối trú dưới mái hiên để tránh mưa. Đêm giá buốt, cô bé chỉ mặc có độc một bộ đồ mỏng manh, lạnh tới mức răng gõ vào nhau lách cách, dáng người gầy gò run rẩy.
Tử Hân hơi sững người, nói: “Sao cô còn ở đây?”.
Cô bé trợn mắt nhìn chàng: “Liên quan gì tới ngươi chứ”.
“Vào đây đi”, chàng nói liền đẩy mở cửa, “Ngoài này lạnh quá, cô sẽ chết rét mất”.
“Ở đây rất tốt, không cần đi đâu.”
“Nếu quả thật cô không còn chỗ nào để đi, tối nay cứ ngủ trong này cũng được”, Tử Hân từ tốn nói.
“Ai mà muốn ở trong cái nhà rách của ngươi chứ!”
“Vậy thì… tùy thôi. Đúng rồi, suýt nữa quên không nói cho cô, nhà đại thúc ở phía đối diện có một con chó rất lớn, rất hung dữ để canh nhà, cẩn thận…”
Câu này còn chưa nói hết, cô bé “luỵch huỵch, luỵch huỵch” một tiếng đã nhanh lẹ luồn qua nách chàng chui thẳng vào trong rồi đóng cửa cài then thật chặt.
“Em sợ chó à?”
“Ai bảo là ta sợ chó?”
Phòng khách rất chật hẹp, cô bé thân hình mảnh khảnh, bộ dạng gầy guộc, thần sắc cảnh giác nhìn Tử Hân đánh giá chàng một lượt.
“Ngươi làm nghề gì?”, nhìn một hồi lâu, cô bé đột nhiên hỏi.
“Ta là lang trung.”
“Chẳng giống một chút nào… Trông ngươi còn rất trẻ.”
“Xin hỏi niên kỷ của tiểu thư?”
“Mười ba”, nói xong hai chữ này, cô bé liền hắt xì một tiếng.
“Trong bếp còn nước nóng đấy, có cần ta mang lên cho cô không?”, Tử Hân không đổi nét mặt, hỏi một câu nhàn nhạt.
“Chớ có lân la ân cần với ta! Bình sinh ta cvốn húa ghét lũ nam nhân giả nhân giả nghĩa các ngươi!”, quẳng lại câu này, cô bé co chân chạy thẳng vào bếp, được một lúc, lại gọi vọng ra ngoài, “Này! Ngươi qua đây!”.
Chàng lắc đầu cảm than, đành phải chống trượng bước tới.
“Cái thùng nước này nặng quá!”, cô bé mở to mắt nhìn vào chân chàng, “Nếu ngươi không khiêng được thì cũng không cần cố đâu”.
Bất kể là nói gì, cô bé đều chẳng có lấy một chút e thẹn nào cả.
Chàng chẳng nói chẳng rằng giúp cô bé đem thùng nước vào phòng ngủ.
“Tiểu thư còn có gì sai bảo?”
“Còn đứng ngây ngốc ở đấy làm cái gì chứ? Người ta muốn tắm rửa bây giờ.”
Tử Hân đi ra ngoài. Trong phòng ngủ có tiếng nước bì bõm, qua thời gian một nén hương, cô bé thay một bộ váy hoa sạch sẽ chỉnh tề, vắt mái tóc dài còn ướt ra sau lưng, nghiêng đầu nói với chàng: “Ta tắm xong rồi”.
Cô bé lau khô đôi chân trắng muốt, lê đôi giày ngủ, phía trên mắt cá chân bé nhỏ có một vết chích be bé.
Rõ ràng cô bé không có chút ý định muốn nhường lại căn phòng ngủ cho chàng.
Tử Hân chỉ đành nói: “Ừm… cô ngủ đi”.
“Ta ngủ trên sàn phòng khách là được rồi”, cô bé ôm lấy cái chăn hoa trắng trên giường, miệng cắn theo cái gối, nói với chàng: “Giường này nhường cho ngươi đi”.
“Đấy là chăn của ta mà”, chàng nói.
“Lẽ nào ngươi muốn ta ngủ trên mặt sàn lạnh cóng này à?”, cô bé quắc mắt, lại lộ ra nétn mặt hung hăng lúc trước.
“Ta tới nhà bằng hữu ngủ nhờ một đêm, sáng mai quay lại vậy”, chàng nhạt giọng nói, “Đến lúc ta quay lại, hy vọng cô đã biến mất khỏi nhà ta rồi”.
“Được, nể tình ngươi hôm nay nhường nhịn ta, ta sẽ biến mất thật nhanh”, cô bé đáp lại chắc nịch.
“Thế thì ta phải đa tạ cô nương rồi”, chàng vừa nói vừa sải bước đi khỏi phòng.
“Này! Cứ thế mà đi sao? Đem những thứ đồ đáng tiền của ngươi đi hết đi chứ.”
“Ta chẳng có thứ gì đáng tiền cả đâu.”
“Sách thì sao? Mấy cuốn… cái gì mà Vân Mộng cứu kinh, ngươi cũng không đem theo à?”, cô bé nhìn vào mấy chồng sách ở đầu giường, hỏi lớn.
“Để đấy chẳng sao, ngày mai ta còn quay lại.”
“Tạm biệt.”
Xét cho cùng thì vẫn là một đứa trẻ, tuy rằng có chút ngang ngược, không biết lý lẽ. Chàng cười rồi đi ra ngoài, khép cửa lại cho cô bé.
Cái đêm ấy, chàng chỉ đành lại ngủ trong tòa miếu hoang nọ.
Trong miếu là một mảng tối đen, chàng không gặp lại Trúc Ân nữa, chỉ cảm thấy mệt mỏi đến kỳ lạ, vừa ôm áo ngả đầu xuống là đã ngủ thiếp đi không hề mộng mị.
Đầu giờ Tị ngày hôm sau, chàng ăn xong bữa sáng liền quay trở lại phòng khám của mình thì sớm đã có bảy, tám bệnh nhân đang chờ đợi ngoài cửa để khám bệnh. Chàng mở cửa lớn, mời bọn họ vào khách sảnh ngồi chờ. Đang định vào phòng trong lấy thêm một cái ghế bang ra để ngồi khám, vừa đẩy cửa, trong phòng đã có tiếng thét:
“Chớ có vào, ngươi chớ có vào!”
Trời ạ! Cô bé kia vẫn chưa đi!
Chàng đứng ngây ra cạnh cửa cứ như trúng phải một đao, khó khăn lắm mới khôi phục lại nét mặt bình thường, sau đó ngượng ngùng quay đầu lại cười cười với mười mấy cặp mắt trong khách sảnh đang trừng trừng ngó vào mình, trừ bỏ cái hiềm nghi mình là một tên con buôn. Khép cửa lại, quay về trước bàn, tiếp tục khám bệnh, bắt mạch kê đơn.
Có muốn tới bếp uống chén nước thì cũng phải đi qua phòng ngủ mới tới được.
Cả buổi sáng hôm ấy chàng phải sống trong cảnh miệng khô họng rát chẳng có ngụm nước nào.
Tới trưa, chàng nhanh nhanh chóng chóng khám xong cho bệnh nhân cuối cùng rồi gỡ biển mở chẩn, khép cửa chính lại, thấy phòng trong vẫn chẳng có động tĩnh gì liền gõ cửa, hỏi: “Cô nương, cô đã dậy chưa vậy?”.
“Ta không dậy nổi rồi!”, giọng nói bên trong truyền ra ngoài rõ ràng đang nghẹn ngào.
Chàng không biết làm sao, đành đẩy cửa đi vào, tới bên giường, phát hiện cô bé cuộn chặt mình trong chăn đang nằm bất động trên giường, sắt mặt tái nhợt, đôi mắt đã sưng đỏ như hai quả hạch đào. Trong lòng có chút kinh ngạc, chàng hỏi ân cần: “Sao thế? Trong người không được khỏe à?”.
Cô bé khóc thút thít không dứt: “Ngươi… ngươi chớ có chạm vào ta! Ta muốn chết đây!”, nói rồi trùm chăn qua đầu, bật khóc hu hu.
Chàng giật mình, tiếp tục hỏi: “Hôm qua hãy còn tốt, sao tới hôm nay lại đòi chết rồi?”.
“Ta muốn mẹ!”
“Mẹ cô ở đâu? Ta đi tìm bà ấy tới gặp cô.”
“Mẹ ta chết lâu rồi!”, cô bé khóc càng lúc càng thương tâm hơn.
“Cha cô đâu? Cô là người ở trấn này phải không?”
“Cha ta không thích ta, muốn gả ta cho một tên nam nhân thối tha, bỉ ổi. Ta trốn khỏi nhà ra đây, chuẩn bị đi tìm dì ta”, đại khái là trong chăn quá bí, cô bé lại thò đầu ra ngoài để thở, mắt đẫm lệ nhìn Tử Hân.
Chàng không tiện hỏi nhiều, bèn xách một cái ghế tới bên giường: “Đưa tay qua đây, ta xem mạch cho cô… Cô còn có sức khóc, hiển nhiên là chẳng chết ngay được đâu”.
“Nhưng… nhưng ta cứ mãi chảy máu không ngừng”, cô bé thò nửa cánh tay thanh mảnh ra khỏi chăn chìa cho chàng bắt mạch.
Chàng bắt mạch cho cô bé rồi thu tay lại nhàn nhạt nói: “Không phải sợ, không việc gì đâu”.
“Cái gì mà không việc gì? Bụng ta đau chết đi được, ngươi có phải là lang trung không đấy.”
“Cô có tỷ tỷ không?”
“Ra không có người nào thân thiết cả.”
“Đây là… con gái… ừm… thiên quý …”, Tử Hân cẩn thận dè dặt lựa chọn ngôn từ.
“Cái gì là thiên quý? Là quỷ trên trời à?”
“Không phải…”
“Rốt cuộc thì là cái gì?”
“Ừm… cô biết chữ, chắc có từng nghe qua Bệnh của Trình Cơ chứ?”, Tử Hân đổi sang diễn tả bằng kiểu khác cho dễ dàng.
“Chưa hề”, cô bé nghi hoặc lắc lắc đầu, “Trình Cơ là ai vậy?”.
Chàng cúi đầu khổ sở suy nghĩ, dốc hết đầu óc tìm cách giải thích cho ổn thỏa: “Là như thế này. Về sau mỗi tháng cô… đều sẽ bị như thế… cô phải quen dần đi”.
“Sao cơ? Ai cũng như thế à? Ngươi cũng thế sao?”, cô bé kinh ngạc hỏi lại chàng.
“Không không…”, đầu Tử Hân đã to như cái đấu, “Chỉ có nữ nhân mới như thế. Nếu cô đã vậy… thế thì chứng tỏ… cô đã trưởng thành một nữ nhân…”.
Bình sinh chưa từng gặp chuyện thế này, chàng càng nói càng lắp ba lắp bắp.
“Ý ngươi là, trước đây ta là kẻ bất nam bất nữ à?”
“Không không không!”, chàng xua tay lia lịa.
“Hiểu rồi, ngươi muốn nói, ta sẽ không chết phải không.”
“Đúng rồi, đúng rồi!”, Tử Hân vội gật đầu.
“Có điều, cứ thế này liệu máu của ta có chảy hết mất không”, cô bé thấy mũi chua chua, nước mắt lại trào ra.
“Không… không đâu… chẳng bao lâu nữa nó sẽ dần dần… ngừng… ngừng lại thôi.”
“Chiều nay đã có thể ngừng không? Ta còn muốn mau mau lên đường.”
“… Chỉ sợ không nhanh được như thế.”
“Vậy rốt cuộc phải đợi mấy ngày thế?”
“Bụng cô rất đau phải không?”
“Ừm.”
“Khoảng sáu, bảy ngày, có thể còn lâu hơn.”
“Ngươi có thể nghĩ cách cho ta không? Ta muốn mau mau khỏi”
“Ta có thể kê cho cô một đơn thuốc…”
Đôi mi mày của cô bé nhướn lên, mừng rỡ nói: “Ngươi có thể kê thuốc cho máu ngừng chảy?”.
“… Việc này chỉ sợ không thể… ta chỉ có thể kê chút thuốc giảm đau cho cô thôi.”
Cô bé nhìn chàng hồi lâu, hé miệng cười, nhẹ nhàng nói: “Xin lỗi… làm bẩn giường của ngươi rồi…”.
“Không sao cả.”
“Tên huynh đúng là Diêu Nhân à? Cắn người ?”, cô bé nhíu mày nhìn hắn. Tên của hắn có trên bảng hiệu treo ngoài cửa.
“Ừm.”
“Tên muội là Tô Phong Nghi”, cô bé cắn môi, hàng lông mi dài cụp xuống, thanh điệu không biết vì sao lại trở nên rất văn nhã dịu dàng.
“À.”
Sau đó, cô bé nhoài người trên giường nói với chàng: “Muội đói rồi”.
Tử Hân tới nhà bếp làm mấy món ăn, Tô Phong Nghi cuộn mình trong chăn ngồi cạnh bàn, ăn như rồng như hổ. Ăn xong cơm lại uống thêm một tô thuốc. Tử Hân buồn bực thay một cái chăn trải giường mới rồi nói: “Cô tiếp tục ngủ cho khỏe đi”.
Cô bé chậm chạp bò lên giường, chui vào trong chăn, mở cặp mắt to tròn lén nhìn trộm Tử Hân.
Tử Hân nói: “Thay y phục bẩn ra đây đi”.
Một đám mây hồng hiện lên đôi má, cô bé loạt soạt một lúc rồi ngồi dậy, ôm chăn nói: “Không cần đâu, không cần đâu… để tự muội giặt là được rồi. Cảm ơn huynh nhiều lắm”.
“Biến thành khách khí như vậy từ lúc nào thế?”, Tử Hân nói, “Y phục bị ướt không thể cứ mặc mãi trên người đâu, sẽ bị bệnh đấy”.
Cô bé lại chui trở vào chăn, ném y phục ra ngoài cho chàng.
“Cảm ơn huynh, món ăn huynh làm… món ăn huynh làm quả thật… quả thật rất ngon”, cô bé nhìn vào mắt Tử Hân, rất thành thật cảm ơn một tiếng.
Tử Hân nghiêm mặt, không đáp lời, rầu rĩ xách đồ tới bếp giặt giũ hơn một canh giờ rồi phơi tại sân sau.
Hai ngày tiếp theo, cô bé Tô Phong Nghi kia trở nên cực kỳ ngoan ngoãn, an phận. Bởi vì bụng cô bé đau rất ghê gớm nên không thể không ngoan ngoãn nằm trên giường, uống thuốc hàng ngày. Đến tối, Tô Phong Nghi lại nói mình sợ, không thể ngủ được. Tử Hân chỉ đành ngủ trên bàn ngoài khách sảnh trông cửa cho cô bé an tâm ngủ tiếp.
Đến ngày thứ ba, cuối cùng Tô Phong Nghi cũng dậy được khỏi giường liền bắt đầu tự giặt y phục cho mình.
“Tại sao món ăn huynh nấu luôn chỉ có mấy kiểu này? Chẳng có chút mùi vị nào cả?”, cùng với việc thân thể dần dần khôi phục, tính tình bướng bỉnh của cô bé hình như cũng phục hồi lại theo.
“Cô muốn ăn gì thì tự mình làm là được”, Tử Hân ‘hừ’ một tiếng.
“Sao bộ dạng rửa rau của huynh cứ như trong rau có cả đám thuốc độc thế?”
“Tại sao huynh không ăn thịt? Huynh không phải hòa thượng mà, sao lại ăn chay như vậy.”
“Trời ạ, đến cả hành với hạt tiêu huynh cũng không ăn… Quá thể đáng rồi!”
Ngày thứ tư, lúc Tô Phong Nghi lại tiếp tục không ngừng lải nhải những chuyện như thế, Tử Hân đang thái rau. Sức nhẫn nhịn của chàng rốt cuộc cũng đã tới cực hạn rồi, chàng đột nhiên buông con dao đang cầm trên tay xuống, lạnh lẽo hỏi cô bé: “Bao giờ thì cô có thể đi?”.
Khuôn mặt Tô Phong Nghi lập tức tái đi, ánh mắt giận dữ nhìn chàng, qua một lúc, nén cơn tức giận, nhìn xuống đất, chợt nói: “Dưới chân huynh có một con gián kia kìa”.
Đó là một con gián to đùng, cặp râu dài dò dẫm qua lại, đang gắng sức men theo một góc vạt áo dài của chàng bò lên trên. Tử Hân vừa nhìn thấy con gián, thân thể đột nhiên run lên bần bật, sắc mặt đổi thành màu tím, trong ngực khó chịu, bắt đầu khó nhọc thở dốc.
Cô bé vội vàng đỡ lấy tay chàng, hỏi: “Huynh làm sao thế?”.
Tử Hân vội đưa tay vào trong túi thơm lục tìm, còn chưa kịp lấy ra được cái gì thì hai mắt đã tối sầm, “uỵch” một tiếng, ngã nhào xuống đất mà ngất đi một cách oanh liệt.
Trừ chuyện kiêng kỵ bao nhiêu loại thức ăn ra, đây là chuyện kỳ quái đầu tiên Tô Phong Nghi biết về Tử Hân.
… Tử Hân sợ gián.
Ngày hôm đó, cô bé hoảng hốt sợ hãi nhìn nam nhân đó ngã xuống đất, hơi thở yếu ớt, bèn nhanh mắt lẹ tay tìm trong túi thơm của chàng lấy ra một lọ thuốc, cũng không thèm để ý bên trong là cái gì, vội vàng đem nhét một viên thuốc vào miệng chàng, sau đó xông ra ngoài gọi một vị đại hán ôm chàng đặt lên giường. Tử Hân rất nhanh tỉnh lại, kế tiếp sau đó thì chìm sâu vào giấc ngủ.
Qua trọn hai canh giờ, chàng mới thực sự tỉnh táo trở lại, thấy Tô Phong Nghi, giờ đã chải đầu thắt hai cái bím tóc đen bóng, quỳ trước giường ngây ngây ngốc ngốc nhìn chàng một cách chăm chú.
“Huynh không sao chứ?”, cô bé cúi đầu thực sự quan tâm hỏi.
“Không sao.”
“Muội biết muội đem lại cho huynh rất nhiều phiền phức, cho nên muội quyết định bây giờ muội sẽ đi.”
“…”
“Cảm ơn huynh đã tốt bụng chăm sóc muội những ngày vừa qua.”
“Không có gì.”
Cô bé đứng dậy, nghĩ một lúc, chợt hỏi: “Qua nhiều năm nữa, đợi khi muội lớn rồi, huynh liệu còn nhớ muội không?”.
“Khó nói…”
“Thế thì chí ít huynh phải nhớ cái xoáy này của muội, được không”, cô bé kéo ống quần, để Tử Hân nhìn cái xoáy be bé chích trên mắt cá chân trái của mình.
“Ta là giang hồ lang trung, sẽ không ở lại lâu một nơi nào cả”, chàng cảm thấy cô bé này có chút kỳ lại, “Huống chi thế giới rộng lớn thế này… chúng ta sẽ không dễ dàng tái ngộ nữa đâu”.
“Thế thì huynh quên muội đi”, cô bé thoải mái khoác bọc hành lý lên vai, vẫy tay với Tử Hân, “Tạm biệt huynh”.
“Tạm biệt.”
Tô Phong Nghi đi như bay ra khỏi cửa, lúc sắp biến mất sau cánh cửa, lại quay đầu lại, cười một nụ cười giảo hoạt với chàng, tinh nghịch làm một khuôn mặt quỷ.
Trời đã hoàng hôn, căn nhà lại trở về yên tĩnh như vốn có.
Gió chiều tràn tới, hương hoa ngọt ngào thơm nức. Tà dương ở một góc sân khẽ lay động trong làn khói bếp ban tối.
Chàng cảm thấy hơi đói bèn đi tới nhà bếp, phát hiện trong nồi đang hâm hai bát thức ăn nhỏ, còn có một nồi canh bí đao. Rõ ràng cô bé đã chăm chú quan sát bữa tối của chàng, ba món ăn đều làm theo cách của chàng, không cho thêm cái gì cả, cũng chẳng bớt đi cái gì.
Tay nghề của con nha đầu này cũng xem như không quá tệ đi.
Chàng chợt cảm thấy có chút áy náy, nhận thấy bản thân mình đối xử với cô bé quá lạnh lùng. Có điều, đấy chẳng phải một tính nết nhất quán của người nhà Mộ Dung sao?
Tới đêm lúc thay đồ đi nghỉ, chàng mới phát hiện cô bé nói không sai.
Chàng sẽ không quên cô bé.
Bởi vì cô bé đã chích lên trên mắt cá chân phải của chàng một cái xoáy y hệt trên chân của cô bé.
… Chích lên chân đương nhiên phải đau, đáng tiếc cái chân này của chàng đã hoàn toàn mất đi tri giác nên cũng chẳng cảm thấy gì.