Thái Dương và Nguyệt Lượng là một cặp song sinh, bí mật này hẳn mọi người đều đã đoán ra.
Hồi đó, khi mang thai, mẹ chúng không hề nghĩ rằng lại có niềm vui bất ngờ như thế, bởi vì Nguyệt Lượng luôn cuộn người phía sau Thái Dương từ đầu đến cuối, nghe tim thai không nghe thấy nó, đưa tay sờ cũng chẳng sờ thấy nó. Đến khi mang thai được bảy, tám tháng, người mẹ cảm thấy lạ, tại sao bụng mình to như vậy, tại sao ăn uống lại ngon miệng đến thế, cơm có thể ăn gấp đôi người khác, ngủ cũng phải ngủ gấp đôi người ta, liền đến bệnh viện siêu âm. Bác sĩ thực tập trẻ tuổi vừa nhìn màn hình hiển thị đã buột miệng thốt lên: “Là quái thai!” Bác sĩ già hướng dẫn thực tập sinh vội đến xem, trên màn hình, bên cạnh bàn tay và bàn chân bé tí ti của Thái Dương, đúng là còn mọc ra một cái tay và một cái chân khác! Vị bác sĩ già liền cười phá lên, quay đầu nói với người mẹ: “Chúc mừng chị, là cặp song sinh!”
Mẹ của Thái Dương và Nguyệt Lượng rất đỗi vui sướng khi tưởng tượng ra cảnh sau này, các con gái của mình sẽ là hai nhành hoa chung gốc, sẽ có dáng người như nhau, dung mạo như nhau, cả nụ cười và tiếng khóc cũng giống nhau. Chủ nhật hay những dịp lễ tết, cô sẽ trang điểm xinh đẹp, dắt theo hai cô con gái giống nhau như đúc đi trên phố, ha ha, cảnh tượng lúc đó mới đáng yêu và thú vị làm sao!
Một tháng sau, cặp song sinh nữ đến với thế giới này đúng như đã hẹn. Thái Dương ra đời rất thuận lợi, mẹ đau bụng khoảng một tiếng đồng hồ, em bé sơ sinh đã cất tiếng khóc oe oe rõ to. Nguyệt Lượng lại giở trò, nằm ngang trong bụng mẹ, khiến người mẹ trẻ bị hành hạ đến thất điên bát đảo, chết đi sống lại. Bác sĩ không thể không tiến hành phẫu thuật khẩn cấp, một nhát dao rạch xuống, lôi được Nguyệt Lượng đang tím tái toàn thân ra ngoài. Sau này, cứ mỗi lần kể lại tường tận nguyên do vết sẹo như con rết trên bụng mình, người mẹ yêu cái đẹp đều thoáng chút không vui trong lòng, than trách Nguyệt Lượng không nghe lời từ bé, không biết làm hài lòng người khác, không biết quan tâm, chăm sóc người khác.
Với các cặp song sinh trên thế giới, mười cặp thì có đến tám, chín cặp có vẻ ngoài khiến người khác không phân biệt được ai với ai, Thái Dương và Nguyệt Lượng cơ bản cũng vậy. Lúc nhỏ mới thú vị. Khi bà ngoại mắt đã mờ tắm cho chúng, bà tắm cho Thái Dương trước, tắm xong lau khô, mặc quần áo đâu vào đó và kéo ra ngoài, đổ nước bẩn đi rồi mới lôi đứa thứ hai vào, cởi quần áo, ấn xuống chậu tắm. Thái Dương bĩu môi phản đối: “Bà ơi, sao bà lại tắm cho cháu hai lần liền?” Lúc này, bà ngoại mới biết đã nhầm. Nhưng tháng năm trôi qua, khi lớn lên, vẻ ngoài của cặp song sinh đã có sự khác biệt. Đôi mắt của Thái Dương hình hạnh nhân, lúc nào cũng mở to, đặc biệt là lúc nhìn người khác, ngời sáng và thông minh, rực rỡ và sống động. Đôi mắt của Nguyệt Lượng lại có phần nhỏ hơn, hẹp và dài giống hình lá liễu, khoảng cách giữa hai mắt lại hơi rộng hơn so với người khác. Chính chút khác biệt nho nhỏ này khiến hai đứa nó có vẻ ngoài khác hẳn nhau. Thái Dương trông xinh xắn, hoạt bát, tỷ lệ mắt mũi miệng hài hòa, hợp lý, giống như búp bê trong phim hoạt hình, có thể nói đã đạt đến độ nhiều thêm một chút sẽ thừa, thiếu đi một chút thành không đủ. Thần thái của Nguyệt Lượng lại lộ vẻ hiền lành, khô khan, ánh mắt ảm đạm, sắc mặt không sáng, lưng còn hơi gù, bất cứ lúc nào nhìn vào cũng cảm thấy đứa trẻ đó uể oải và ủ rũ.
Dường như trí thông minh của hai đứa cũng có sự khác biệt. Thái Dương không chỉ hoạt bát mà còn thông minh, cầm kỳ thi họa hễ học là biết, ngay từ thuở mẫu giáo, hát hò nhảy múa đều rất xuất sắc, là con cưng, trò cưng của bố mẹ và thầy cô. Sau đó, nó đã thi đỗ vào đoàn nghệ thuật thiếu nhi, lên sân khấu, quay phim, cực kỳ hãnh diện, nó cũng khiến mẹ vô cùng tự hào. Nguyệt Lượng thì không, từ nhỏ đã nhút nhát, nói chuyện rủ rỉ như muỗi bay, hát thì chẳng đúng độ cao năm nốt, đàn piano học ba năm vẫn không thi qua cấp năm, khiến mẹ tức giận mắng: “Cùng một thân cây mà sao lại tạo ra hai loại quả chứ!” Nên mẹ chúng ít nhiều có chút thiên vị. Ví dụ như, một cái bánh trung thu, lúc mới đầu, trước mặt hai chị em, lưỡi dao được đặt đi đặt lại sao cho chính giữa, để chia được hai phần như nhau. Nhưng lưỡi dao ấn xuống sẽ chầm chậm lệch sang một bên, tạo ra một mặt cắt nghiêng, cầm lên tay, rõ ràng một miếng to, một miếng nhỏ. Lúc này, mẹ chúng sẽ thốt lên một tiếng “ai dà” như thể cảm thấy có chút áy náy và nói với hai cô con gái: “Làm thế nào bây giờ? Mẹ đâu cố ý. Các con tự chọn đi.” Thái Dương sẽ lập tức bước lên: “Nguyệt Lượng chọn trước. Em ấy là em, con nên nhường em ấy.” Trong tình huống đó, đương nhiên, Nguyệt Lượng sẽ chọn miếng nhỏ. Thái Dương vui vẻ cầm lấy miếng to. Đã được hưởng lợi, lại còn tỏ vẻ ngoan ngoãn trước mặt mẹ và em, đây hoàn toàn là việc trong tầm tay của Thái Dương. Lại một ví dụ nữa, con gái lớn đều phải giúp bố mẹ làm việc nhà, mua đồ này, quét nhà này, rửa bát này. Riêng chuyện rửa bát, mẹ đã quy định rất công bằng: Hai chị em luân phiên nhau, mỗi người một ngày. Đến hôm Nguyệt Lượng rửa bát, Thái Dương sẽ ăn chậm nhai kỹ, không chút vội vàng. Đến hôm nó rửa bát, bạn xem, nó như một cơn cuồng phong ập đến bàn ăn, phồng mang trợn má, giải quyết gọn bữa ăn chỉ trong năm phút. Sau đó, nó để bát đấy, chui vào phòng, mở nắp đàn piano, bắt đầu dạo một đoạn. Mẹ ở bên ngoài dỏng tai nghe tiếng đàn, lộ vẻ vô cùng hài lòng, mỉm cười quay sang thương thảo với Nguyệt Lượng: “Con xem chị con kìa, sắp bước vào kỳ thi vượt cấp piano rồi, thời gian rất quý báu, bát đũa hôm nay…” Nguyệt Lượng đành đứng lên, nói: “Để con rửa.” Kỳ thực, Nguyệt Lượng cũng phải tập đàn, cũng có một đống bài tập phải làm. Rất rất nhiều những chi tiết như thế đã cho thấy vị trí của nó trong nhà cũng như trong lòng mẹ. Nguyệt Lượng không phải không cảm nhận được, chỉ có điều nó không đau lòng cũng không phản kháng, nó cho rằng mọi việc nên như thế, Thái Dương khiến mẹ được hãnh diện với đời, đương nhiên mẹ sẽ thích Thái Dương hơn một chút. Hơn nữa, Thái Dương là chị, em gái sống núp dưới cái bóng của chị gái cũng là điều đương nhiên mà.
Một Nguyệt Lượng như thế sẽ chìm nghỉm trong lớp, yên tĩnh và lặng lẽ. Một Nguyệt Lượng không tranh không giành, nhẫn nhục chịu khó như thế vốn sẽ chẳng thể bước vào cuộc sống của Thiện Minh Minh và Đỗ Tiểu Á, Thiện Minh Minh và Đỗ Tiểu Á sẽ chẳng chú ý đến nó, nó cũng sẽ không chủ động tiếp cận hai đứa. Nhưng lần đó, ở chợ hoa Thành Nam, khi Nguyệt Lượng mặc chiếc váy liền màu xanh nhạt, tay vo tròn một tờ năm tệ, cùng Thiện Minh Minh và Đỗ Tiểu Á tiến vào cửa hàng của bà chủ bán thỏ con, hai đứa trẻ đã ngay lập tức coi Nguyệt Lượng là người cùng đội với mình, chúng nảy sinh cảm tình đặc biệt và cũng có sự quan tâm đặc biệt với cô bé. Nguyệt Lượng trở thành bạn của chúng.
Hôm đó, sau khi tan học, Đỗ Tiểu Á đợi Thiện Minh Minh chép xong bài tập về nhà cuối cùng ở trên bảng, hai đứa nó người trước người sau đi xuống cầu thang, xuyên qua sân vận động. Khi chuẩn bị chơi vòng treo và xà kép trước lúc về nhà, Đỗ Tiểu Á bất ngờ thấy Nguyệt Lượng đang đứng dưới gốc cây cọ và quay lưng về phía chúng.
“Cậu mau nhìn kìa!” Nó căng thẳng, thúc vào khuỷu tay Thiện Minh Minh: “Đó là Nguyệt Lượng! Bạn ấy đang khóc!”
Thiện Minh Minh vội ngẩng đầu lên nhìn: “Không phải chứ? Buổi sáng vừa mới kiểm tra xong, bài còn chưa trả về, cậu ấy khóc cái gì mà khóc?”
Đỗ Tiểu Á kiên quyết nói: “Chắc chắn bạn ấy đang khóc. Tớ biết là bạn ấy đang khóc.”
Thiện Minh Minh dừng chân, nhìn kỹ hơn, quả nhiên phát hiện thấy điều bất thường: Nguyệt Lượng đầu cúi gằm, bờ vai rung lên, hai tay còn không ngừng quệt đi quệt lại trên mặt.
Thiện Minh Minh cũng trở nên căng thẳng theo Đỗ Tiểu Á: “Đúng là đang khóc.” Nó quay đầu sang nhìn Đỗ Tiểu Á: “Phải làm sao bây giờ? Có cần đi nói với thầy không?”
Đỗ Tiểu Á nói: “Không cần. Cậu ấy trốn ra đây khóc, chắc chắn là không muốn để người khác nhìn thấy.”
Thiện Minh Minh cảm thấy khó xử: “Vậy thì… Nhưng không thể mặc kệ thế chứ? Hay là cậu đi hỏi xem sao?”
Đỗ Tiểu Á trở nên bẽn lẽn: “Cậu đi đi.”
Thiện Minh Minh lùi lại một bước như sợ bỏng, liên tục xua tay: “Sao lại là tớ? Cậu ấy sẽ không nói cho tớ biết đâu.”
Hai đứa thì thào đùn đi đẩy lại một hồi lâu, sau đó thống nhất quyết định bằng kết quả trò chơi “oẳn tù tì”, Đỗ Tiểu Á thắng được hai trên ba ván, Thiện Minh Minh đành phải vượt khó đi về phía Nguyệt Lượng đang thút thít.
Thiện Minh Minh đi vòng đến sau lưng Nguyệt Lượng rồi dừng lại. Nguyệt Lượng thấy có động tĩnh, mau chóng quay người, ngại ngùng khi đối diện với người khác trong trạng thái nước mắt lưng tròng. Thiện Minh Minh cũng quay người theo, mặt đối mặt với Nguyệt Lượng.
Nguyệt Lượng nghẹn ngào, hít một hơi rồi năn nỉ với vẻ mặt hết sức tội nghiệp: “Thiện Minh Minh, cậu đừng nhìn tớ như thế được không?”
Thiện Minh Minh nói: “Là Đỗ Tiểu Á bảo tớ đi lại đây.” Nó bán đứng Đỗ Tiểu Á không chút do dự, chỉ tay về phía Đỗ Tiểu Á đang đứng.
Nguyệt Lượng nước mắt giàn giụa, giậm chân nhè nhẹ: “Tớ không muốn nhìn thấy hai cậu.”
Thiện Minh Minh gãi gãi đầu: “Nhưng chúng mình là bạn cùng lớp, tớ không thể để mặc bạn học khi biết bạn ấy đang gặp nguy hiểm. Nói đi, ai bắt nạt cậu? Cậu cứ nói đi, đừng sợ.” Nó mạnh tay vỗ ngực thùm thụp: “Ai bắt nạt cậu, để tớ giúp cậu trả đũa. Ở trường tiểu học Trường Hồng Lộ chúng mình, tớ chẳng sợ ai hết, ai tớ cũng dám đánh! Cậu tin không?”
Nguyệt Lượng cúi đầu, mũi chân mài xuống mặt đất tạo ra một vũng sâu tròn nho nhỏ. Nó đau lòng cất tiếng: “Thiện Minh Minh, không ai bắt nạt tớ, tự tớ muốn khóc.” Nói xong, miệng nó lại mếu máo.
Thiện Minh Minh cảm thấy việc này thật đau đầu, nó thật sự không biết nên làm thế nào mới được. Ứng phó với nước mắt của con gái, nó hoàn toàn không có chút kinh nghiệm nào. Nó đành ngẩng đầu lên nhìn Đỗ Tiểu Á, vội vàng vẫy tay ra hiệu, thúc giục Đỗ Tiểu Á đến ứng cứu.
Quả nhiên, Đỗ Tiểu Á rất tinh, vừa đến, nó đã hỏi thẳng vào nỗi đau của Nguyệt Lượng: “Là Thái Dương bắt nạt cậu đúng không?”
Nguyệt Lượng lắc đầu.
Đỗ Tiểu Á nói cực kỳ tự tin: “Nhất định là thế. Nếu không, cậu sẽ không trốn vào một góc để khóc. Chắc chắn là mẹ cậu đã giúp cậu ấy mà không giúp cậu.”
Trong phút chốc, nước mắt Nguyệt Lượng thi nhau tuôn ra như chuỗi ngọc trai: “Đều không phải!” Nó nghẹn ngào: “Tại tớ thấy sợ, tớ không muốn lên ti vi…”
Thì ra là thế này: Đài truyền hình cáp sắp tổ chức một cuộc thi đối kháng độc đáo về trí tuệ dành cho lứa tuổi nhi đồng, người chơi là hai cặp song sinh nam nữ cùng tuổi. Cặp song sinh nam đã tìm được, còn cặp song sinh nữ, thông qua sự hỗ trợ của cảnh sát hộ tịch phường, họ đã tìm được đến mẹ của Thái Dương và Nguyệt Lượng. Mẹ của cặp song sinh nữ vốn là người luôn muốn cạnh tranh và hiếu thắng, thích nổi bật, nên nghe nói con gái có cơ hội lên ti vi, đương nhiên vui mừng khôn xiết. Hơn nữa, nhà tài trợ cuộc thi đối kháng này lại rất có thực lực, giải thưởng nhiều vô cùng, ngoài một chiếc máy tính, còn có đầu đĩa DVD, từ điển điện tử Văn Khúc Tinh, bút bi kỹ thuật số… Một lần lên ti vi mà vừa được nổi tiếng vừa được quà, một việc vui như vậy cớ gì không làm!
Nhưng điều quan trọng là: Chỉ được thắng, không được thua.
Người mẹ gọi hai cô con gái đến trước mặt để nói chuyện và giao nhiệm vụ một cách hết sức trịnh trọng. Về phần Thái Dương, mẹ cực kỳ yên tâm, Thái Dương thông minh lại có thần thái, chẳng cần nói nhiều, chỉ cần đứng trên sân khấu là tinh thần và khí chất đã đủ hơn đối phương một bậc. Còn về phần Nguyệt Lượng, mẹ nói: “Nguyệt Lượng nhất định không được làm xấu mặt mẹ. Nếu quả thật không thể làm được gì thì cho dù chỉ đứng trên sân khấu, con cũng phải đứng từ đầu đến cuối cho mẹ, tuyệt đối không được tỏ ra sợ sệt.”
Nguyệt Lượng đáng thương phải chịu đựng một gánh nặng tinh thần rất lớn. Nguyệt Lượng là người đến phát biểu trên lớp còn không dám hé miệng, sao có thể tưởng tượng ra cảnh đứng trước máy quay, dưới ánh đèn sân khấu sáng bừng, đối diện với vô số khán giả trong trường quay, lại còn phải trả lời nhanh đủ loại câu hỏi! Sau khi tan học, Nguyệt Lượng càng nghĩ càng thấy đau khổ, không dám về nhà, chạy đến một góc khuất trong sân vận động rồi bật khóc.
Thiện Minh Minh nghe Nguyệt Lượng nghẹn ngào kể lại với vẻ mặt đượm buồn, nó thở phào một hơi: “Tưởng chuyện gì!”
Đỗ Tiểu Á chau mày: “Thiện Minh Minh, cậu đừng nói mát thế, việc này đúng là hơi đáng sợ.”
Thiện Minh cười “ha” một tiếng: “Có khó bằng biểu diễn trên sân khấu không? Nguyệt Lượng, tớ nói cho cậu biết, một khi thực sự đứng trên sân khấu, chắc chắn cậu sẽ quên đi nỗi sợ, bởi vì ánh đèn quá chói, cậu căn bản là không nhìn thấy mặt người ngồi xem phía dưới, không nhìn thấy mặt thì cậu còn sợ nỗi gì?”
Đỗ Tiểu Á phản đối nó: “Hai việc đó không giống nhau, diễn kịch là diễn kịch, thi trả lời nhanh là thi trả lời nhanh. Con người sẽ trở nên ngốc nghếch lúc căng thẳng, rõ ràng là câu hỏi có thể trả lời được, nhưng khi căng thẳng lại nhớ mãi không ra, nhớ không ra thì càng căng thẳng hơn, càng căng thẳng lại càng không thể nhớ ra.”
Nguyệt Lượng lại mếu máo, vành mắt lại bắt đầu đỏ lên.
Đỗ Tiểu Á vội lên tiếng: “Nhưng không sao, cậu chỉ cần chuẩn bị thật kỹ, có thể trả lời được khoảng bảy mươi phần trăm số câu hỏi, thế là không ai địch nổi rồi.”
Thiện Minh Minh lại thở dài: “Những bảy mươi phần trăm số câu hỏi! Thế thì khó biết mấy, ai mà làm được!”
Ba bạn nhỏ cùng lộ vẻ trầm tư, đều cảm thấy sự việc quả thật rất phức tạp, nói thì dễ, làm mới khó, tựa như núi cao đường xa. Bạn nghĩ mà xem, trên thế giới có bao nhiêu câu hỏi, riêng cuốn Mười vạn câu hỏi vì sao đã có tới mười nghìn câu hỏi hay gặp nhất và có tính phổ cập nhất. Nếu cộng thêm số tác phẩm văn học nổi tiếng thì sao? Cả lĩnh vực âm nhạc, mỹ thuật, thể dục thể thao nữa? Rồi tính cả triết học và lịch sử loài người? Lại còn thủ đô, danh lam thắng cảnh, thành ngữ ngạn ngữ, câu đố mẹo của các nước… Ái chà chà, thật sự không dám nghĩ, nếu còn nghĩ tiếp, con người khéo chẳng thể sống nổi.
Cuối cùng, vẫn là Đỗ Tiểu Á nói được một câu khiến Nguyệt Lượng cảm thấy được an ủi phần nào: “Nguyệt Lượng, cậu đừng sợ, thật sự cậu đừng sợ, cậu phải nghĩ thế này: Cậu, Thái Dương và cả cặp sinh đôi đối thủ kia đều cùng chung một bậc học, chung một cuốn sách giáo khoa, câu hỏi mà cậu không biết, chắc gì họ đã biết nào?”
Nguyệt Lượng lí nhí nói: “Thái Dương thông minh hơn tớ.”
Đỗ Tiểu Á tận tình khuyên giải: “Thái Dương thông minh là chuyện tốt, bởi vì bạn ấy là người chơi cùng đội với cậu, bạn ấy thắng cũng có nghĩa là cậu thắng.”
“Nhưng nếu tớ chẳng thể trả lời được câu nào, người khác sẽ cười chê tớ, mẹ sẽ càng không thích tớ.” Mắt Nguyệt Lượng lại đỏ lên.
Đỗ Tiểu Á ngẩng đầu, nó và Thiện Minh Minh bốn mắt nhìn nhau. Chúng đều tỏ ra lực bất tòng tâm, muốn giúp Nguyệt Lượng nhưng lại không biết giúp như thế nào, đúng là vừa sốt ruột vừa hoang mang.
Lúc chia tay, hai cậu bạn không dám quay lại nhìn Nguyệt Lượng, cứ cúi đầu lầm lũi bước, lòng trĩu nặng. Đi được nửa đường, Thiện Minh Minh không nhịn nổi, muốn nói câu gì đó, bèn húng hắng ho, nhưng thấy Đỗ Tiểu Á chất chứa tâm sự, chẳng có phản ứng gì, đành nuốt “ực” một tiếng, nuốt lại cả lời muốn nói.
Đến trước cổng nhà bà điếc, Thiện Minh Minh hỏi dò: “Có cùng làm bài tập về nhà không?”
Đỗ Tiểu Á mơ mơ màng màng, ngẩng đầu đáp: “Hả?”
Thiện Minh Minh rất biết điều, lập tức xua tay: “Không có gì. Bài tập về nhà hôm nay không khó, tớ tự làm được.”
Rồi ai về nhà nấy.
Làm xong bài tập, Thiện Minh Minh cảm thấy chẳng có gì thú vị, trong lòng cứ canh cánh hình ảnh Nguyệt Lượng đáng thương, nước mắt tuôn trào, bản tính anh cả không kìm nén được, nó liền chạy đi tìm Đỗ Tiểu Á. Tiến vào trong sân, qua khung cửa sổ, nó nghe thấy tiếng hỏi và đáp trong phòng Đỗ Tiểu Á, người hỏi mồm mép lanh lợi, giọng hỏi lanh lảnh, hết câu này đến câu khác, khiến người nghe không khỏi hồi hộp. Người đáp lão luyện, thành thục, không hấp tấp vội vàng, gần như không bị rơi vào bẫy của người hỏi, là một người rất có chính kiến. Lúc đầu, Thiện Minh Minh cứ ngỡ có khách đến chơi nhà Đỗ Tiểu Á, nhưng thò đầu qua cửa sổ, ngó vào trong, nó mới phát hiện ra, tiếng nói bắt nguồn từ chiếc ti vi, Đỗ Tiểu Á đang xem chương trình bồi dưỡng trí tuệ Trời sinh tôi tài. Ti vi được đặt trên một cái tủ thấp, Đỗ Tiểu Á bê một chiếc ghế đẩu đến trước tủ, trên mặt ghế bày một cuốn vở ghi chép. Đỗ Tiểu Á quỳ gối trên nền đất, nhoài người về đằng trước, hai mắt mở to dán chặt vào ti vi, vừa nghe những lời hỏi đáp, vừa tốc ký vào vở. Bởi vì người nó đang cúi xuống, một giọt nước mũi ngang ngược liền tự động chảy ra, treo lơ lửng nơi chóp mũi, trong suốt óng ánh, dập dìu muốn rơi. Nhưng nó không hề có cảm giác gì. Nói cách khác, nó chẳng có thời gian để tâm tới những cảm nhận của cơ thể nữa. Thế là, thể tích giọt nước mũi ngày càng lớn, nửa trên gắn với chóp mũi nó bằng một sợi mảnh như tơ, nửa dưới lại tròn trịa, căng mọng, giống như quả bóng nhỏ đựng đầy nước. Cuối cùng, giọt nước tròn, nặng trịch như trái bóng đó cũng rơi xuống, rụng “bộp” vào mặt giấy. Một đứa trẻ ưa sạch sẽ như Đỗ Tiểu Á không nỡ dùng tay áo quệt tạm, nhưng cũng không dám phí thời gian đứng dậy lấy khăn mặt, nó đành xuống dòng viết tiếp, vòng qua chỗ nước mũi thấm.
Thiện Minh Minh nhìn mà buồn cười, bật ra một tràng “ha ha” bên ngoài cửa sổ, rồi đi vòng vào trong phòng và hỏi: “Cậu làm xong bài tập về nhà rồi à?”
Đỗ Tiểu Á lập tức xua tay với Thiện Minh Minh, mắt vẫn không rời màn hình ti vi, trông còn tập trung hơn cả thí sinh thi đại học.
Thiện Minh Minh lẩm bẩm: “Cậu xem gì thế? Hai người hỏi đi hỏi lại, có hay bằng Conan không?”
Đỗ Tiểu Á vùi đầu cật lực ghi chép, ngòi bút không ngừng phát ra những tiếng xoẹt xoẹt, nó vẫn không nói với Thiện Minh Minh một lời nào.
Cuối cùng, chương trình ti vi cũng kết thúc. Người dẫn chương trình đi tới, cầm một tay người chơi, giơ cao lên trời, biểu thị sự chiến thắng và nói lời chúc mừng. Người đó bẽn lẽn mỉm cười, nhưng lại tỏ rõ điệu bộ “không phải tôi thì còn ai khác”.
Đỗ Tiểu Á đặt bút xuống, thở dài: “Nếu tớ được một phần mười tài năng của anh ấy thì tốt biết mấy. Người ta trả lời chính xác đến chín mươi phần trăm.”
Thiện Minh Minh tỏ vẻ không phục: “Cậu tin à? Chưa biết chừng đây đều do tập luyện trước.”
Đỗ Tiểu Á nói: “Chính vì làm chương trình cần phải tập dượt trước nên chúng ta mới có thể giúp được Nguyệt Lượng.” Nó trịnh trọng tuyên bố: “Kể từ hôm nay, trong một tuần tới, tớ phải xem hết tất cả các chương trình hỏi đáp trí tuệ trên ti vi, ghi lại tất cả các câu hỏi và đáp án. Nếu Nguyệt Lượng có thể học thuộc tất cả những câu hỏi này, chắc chắn bạn ấy sẽ là người xuất sắc nhất trong buổi thi hôm đó.”
Đỗ Tiểu Á mở một tờ giấy cho Thiện Minh Minh xem danh sách các chương trình mà nó đã thống kê, trong đó có: Ngày ngày 90 điểm của đài truyền hình Giang Tô; Câu lạc bộ đối kháng của đài truyền hình Nam Kinh; Thách thức lớn của đài truyền hình Chiết Giang; Người chiến thắng siêu cấp của đài truyền hình An Huy;Đại bản doanh vui vẻ của đài truyền hình Hồ Nam; Từng bước chiến thắng của đài truyền hình Quảng Đông; Thời gian bảy sắc của đài truyền hình Vân Nam; Có hẹn với thứ Bảy của đài Đông Phương… Còn có Thử thách cùng người dẫn chương trình, Chuyến xe trí tuệ Samsung, Lướt sóng trí tuệ… của đài truyền hình Trung ương.
Thiện Minh Minh nhìn tờ danh sách dài dằng dặc trên tay Đỗ Tiểu Á, hít một hơi thật sâu: “Nhiều chương trình thế này! Cậu chỉ có một đôi mắt thôi mà!”
Đỗ Tiểu Á lòng ngập tràn tự tin: “Sợ gì chứ? Chẳng phải còn cậu nữa sao? Cũng còn cả Chu Học Hảo? Còn mẹ tớ? Nếu mọi người chia nhau xem, phân công nhau ghi chép, đây là chuyện đơn giản.”
Thiện Minh Minh thấy lòng mình ấm áp vô cùng, bởi vì nó được Đỗ Tiểu Á tin tưởng, cũng bởi vì nó có thể gia nhập đoàn cố vấn giúp Nguyệt Lượng tham gia thi đấu.
Công tác xem chương trình trí tuệ, xây dựng kho kiến thức trí tuệ bắt đầu được triển khai một cách rầm rộ.
Đỗ Tiểu Á là người phát động, nên nó mạnh dạn đảm nhiệm gần một nửa số chương trình. Nó mắt tinh, não nhạy, tay nhanh, mắt dán chặt vào màn hình, tay vẫn viết nhoay nhoáy, ngoài việc chữ viết có lúc hơi đè lên nhau giống như người khiếm thị lần mò tự viết thì chẳng còn gì có thể chê trách.
Chu Học Hảo là người chậm chạp, cũng giống như tiết tấu khi nói chuyện của nó, phản ứng của nó trước lời nói của người khác cũng luôn chậm nửa phách, đến khi não nó hiểu ra thì người ta đã nói sang câu sau, hoặc câu sau sau nữa. Theo lý thuyết, với trình độ này, nó không thể ghi lại nội dung hỏi và trả lời trên ti vi, nhưng ông trời lại hay đãi kẻ khù khờ: Nhà nó có một chiếc máy quay khá tốt! Thế là thuận tiện quá rồi, ti vi hễ bắt đầu, máy quay cũng hoạt động ngay, chương trình được quay lại, cứ việc từ từ tiêu hóa! Xem một lần không chép kịp, có thể xem lại, có thể tua chậm, có thể dừng lại… Chiếc máy quay cực kỳ ngoan ngoãn, chỉ cần có thời gian, có lòng kiên nhẫn, muốn làm gì nó cũng không thấy phiền.
Tội nghiệp cho Thiện Minh Minh, đã không có bộ óc của Đỗ Tiểu Á, lại không có máy quay như nhà Chu Học Hảo, đứng trước ti vi thì cứ gọi là bận hết hơi! (Vì Thiện Minh Minh một mực yêu cầu, cuối cùng, bố nó cũng “thắng” để mang được ti vi về nhà.) Chữ viết đã chậm, lại còn rất nhiều chữ không biết viết! Tập trung dỏng tai để nghe thì chẳng thể điều khiển cái bút trong tay, mới sột soạt viết được vài chữ, một câu hỏi vừa được trả lời xong, câu hỏi tiếp theo đã lại ập đến. Xem xong chương trình ti vi, Thiện Minh Minh toàn thân ướt đẫm mồ hôi, miệng lưỡi khô khốc, nhưng cầm tờ giấy đầy những chữ loằng ngoằng rối mắt lên, làm đủ mọi cách vẫn không ghép được thành nội dung người ta đã nói. Nó chán nản cực độ.
Tối hôm sau, nó động não, thay đổi trình tự làm việc, áp dụng “cách viết gọn”, tức là mỗi câu hỏi chỉ ghi mấy chữ quan trọng, xem xong sẽ lục lại trí nhớ để bổ sung. Nhưng vấn đề cũng xuất hiện từ đây: Có chữ vừa nhìn đã đoán được là từ nào, ví dụ như chữ “Pháp” chắc chắn là đại diện cho “nước Pháp”, chữ “Đường” chắc chắn là “đời Đường”, chữ “Lỗ” chẳng cần hỏi cũng biết là “Lỗ Tấn”. Nhưng có chữ sẽ rơi vào hoàn cảnh “tưởng khôn mà hóa dại”, nghĩa là xem xong không sao điền cho được câu từ phù hợp. Ví dụ như với câu “phi lưu trực há tam thiên xích” (tạm dịch là “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”), lúc xem, Thiện Minh Minh tiện tay ghi lại một chữ “phi”, nhưng xem xong, nghĩ chán nghĩ chê, rốt cuộc nó không nhớ nổi là “phi phàm” hay “phi cơ” nữa. Hình như đều không đúng, bởi vì trong ấn tượng của nó, câu cần phải chép khá dài. Thiện Minh Minh đành phải mặt dày đi tìm Đỗ Tiểu Á, vậy mà Đỗ Tiểu Á lập tức đoán ra: “Chắc chắn là ‘phi lưu trực há tam thiên xích’.” Thiện Minh Minh phục sát đất, hỏi Đỗ Tiểu Á làm sao đoán được, Đỗ Tiểu Á đáp: “Câu trả lời tiếp theo của cậu ghi một chữ ‘lý’, mà ‘nước bay thẳng xuống ba nghìn thước’ là một câu thơ của Lý Bạch, chúng mình đã từng học trong giờ ngữ văn trước đây.”
Thiện Minh Minh bực bội đưa tay lên vò đầu bứt tóc. Lúc này, nó mới nhớ ra, hồi lớp năm quả thật đã được học bài thơ này. Đúng là dốt, có thế thôi mà nó nghĩ mãi không ra! Đấy chính là sự khác biệt giữa học sinh xuất sắc và học sinh trung bình, Thiện Minh Minh không thể không khâm phục.
Cuối cùng, Thiện Minh Minh đành phải cầu cứu sự giúp đỡ của bố Thiện Lập Quốc, hai bố con vai kề vai ngồi trước ti vi, một người phụ trách ghi lại câu hỏi của người dẫn chương trình, một người phụ trách ghi lại nội dung câu trả lời của khách mời. Chương trình kết thúc, gộp thông tin trên hai tờ giấy làm một, chép lại lần nữa, thế là không chê vào đâu được!
Để làm trợ thủ cho con trai, Thiện Lập Quốc suốt mấy tối không ra khỏi nhà đi chơi mạt chược. Chép mãi đâm ra bắt đầu có hứng thú, anh nói với Thiện Minh Minh: “Hỏi đi hỏi lại chẳng phải cũng từng đó câu sao? Mấy hôm nay, bố học thuộc được tám chín phần rồi. Hôm nào bố cũng phải đi đăng ký tham gia chương trình, giành chiến thắng để rinh cái máy tính về cho con.” Thiện Minh Minh vội phá tan siêu ý tưởng của bố: “Bố, đừng! Nếu như bố trở thành trò cười trên ti vi, con sẽ bị các bạn trêu đến chết mất.” Thiện Lập Quốc lấy làm không vui, hừ một tiếng, cho rằng con trai coi thường mình.
Chuẩn bị một tuần liền, tổng cộng, số lượng câu hỏi trí tuệ thu thập được cũng lên tới vài trăm. Đúng là cổ kim Đông Tây không thiếu cái gì! Câu hỏi “Mãn Hán toàn tịch hay còn gọi Đại tiệc hoàng gia Mãn - Hán gồm những món ăn nào?” đã bị Đỗ Tiểu Á gạch bỏ không chút do dự. Nó nói, Nguyệt Lượng sẽ tham gia cuộc thi trí tuệ lứa tuổi nhi đồng, người dẫn chương trình không đời nào lại hỏi câu hỏi như vậy, điều này không phù hợp với tôn chỉ và tinh thần cuộc thi. Nó còn nói, nếu như có hỏi, thì chắc chắn là đài truyền hình muốn bọn trẻ con mất mặt, Nguyệt Lượng có quyền phản đối tại chỗ và bỏ thi. Những lời nói này của nó khiến Thiện Minh Minh muôn phần hứng khởi, cứ như thể sẽ lập tức được chứng kiến màn đối đầu rúng động lòng người giữa Nguyệt Lượng với người dẫn chương trình.
Tất cả thời gian ngoài giờ học, từng phút từng giây, chỉ cần có thể, Đỗ Tiểu Á đều tận dụng triệt để để huấn luyện Nguyệt Lượng khả năng phản ứng và giành quyền trả lời nhanh nhất. Bốn người bọn họ: Đỗ Tiểu Á, Thiện Minh Minh, Chu Học Hảo, Nguyệt Lượng, hễ tan học liền lần lượt rẽ vào một góc yên tĩnh nhất quanh hàng rào của trường, ba người hội Đỗ Tiểu Á là giám khảo, đứng nghiêm túc thành hình cánh quạt, chỉ còn lại một mình Nguyệt Lượng tay buông thõng, đứng đối diện với chúng trong trơ trọi, khổ sở. Sau đó, Nguyệt Lượng - tay cầm tờ giấy viết chi chít những câu hỏi và đáp án - nghe Đỗ Tiểu Á bắt đầu hỏi như súng liên thanh.
“Đất nước phía bên kia địa cầu, đối diện với chúng ta là nước nào?”
“Các nước Nam Mỹ.”
“Chữ ‘quân’ trong câu “Thiên quân nhất phát” có ý là nghìn cân treo sợi tóc dùng để chỉ bao nhiêu cân?”
“Ba mươi cân.”
“Quốc ca của nước pháp tên là gì?”
“Bài ca Marseille.”
“Lý Bạch là nhà thơ sống ở giai đoạn nào thời Đường? Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường hay Vãn Đường?”
Nguyệt Lượng nghĩ một lát: “Thịnh Đường.”
“Trụ sở Liên Hợp Quốc nằm ở đâu?”
“New York.”
“Có mấy nước ủy viên thường trực?”
Nguyệt Lượng ngẩn người, mau chóng cúi đầu, nhìn tờ giấy trong tay. “Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Mỹ. Tổng cộng năm nước.”
“Nhà soạn nhạc vĩ đại Beethoven là người nước nào?”
“Đức.” Nguyệt Lượng buột miệng trả lời ngay. Nó từng học piano, Beethoven là tác giả mà nó quá đỗi thân thuộc.
“Cả đời ông đã viết bao nhiêu bản giao hưởng?”
Nguyệt Lượng do dự: “Chắc chín bản?”
Đỗ Tiểu Á không buông tha: “Là chín bản nào?”
Nguyệt Lượng hoảng hốt tìm trong giấy. “Không có mà. Các cậu không viết ở đây.”
Mặt Đỗ Tiểu Á đanh lại: “Nhân tiện thì tớ hỏi luôn. Nhỡ hôm đó sẽ hỏi đến thì sao?”
Nguyệt Lượng vẻ mặt đáng thương: “Không thể nào. Như thế quá khó. Dù gì chúng mình vẫn là học sinh tiểu học.”
Đỗ Tiểu Á vẫn không nương tay: “Nhưng mười ba tuổi, Beethoven đã trở thành nghệ sĩ dương cầm của hoàng gia.”
Nguyệt Lượng cao giọng: “Thế thì ông ấy mới là thiên tài! Trên thế giới này liệu có được mấy Beethoven?”
Đỗ Tiểu Á suy nghĩ một lúc, mỉm cười, cho rằng Nguyệt Lượng nói rất đúng, con người với con người không thể đem ra so sánh. Nó xí xóa câu hỏi ngẫu hứng đó, tiếp tục đặt câu hỏi.
“Kể ba thành ngữ thể hiện sự kiên định.”
“Thủy chung như nhất; Bách chiết bất nạo; Trí tử bất du2.”
2. Tạm dịch: Thủy chung như một; Trăm lần bẻ không cong; Đến chết không thay đổi.
“Câu chuyện Ngọa tân thường đảm bắt nguồn từ cuốn sách nào?”
“Sử ký.”
“Dạ Lang trong truyện Dạ Lang tự đại chỉ ai?”
“Không phải người, là một nước nhỏ thời Hán.”
“…” Câu hỏi cuối cùng của Đỗ Tiểu Á còn chưa kịp đặt ra, chuông vào lớp đã reo lên. Chúng quay đầu co cẳng chạy về phòng học. Luôn luôn là Thiện Minh Minh về đầu tiên, tiếp đó là Chu Học Hảo, cuối cùng mới là Đỗ Tiểu Á. Lần nào sau khi giữ chặt chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, chạy qua đoạn đường đó, sắc mặt Đỗ Tiểu Á đều nhợt nhạt, hơi thở gấp gáp. Lúc này, giáo viên sẽ kinh ngạc hỏi nó: “Đỗ Tiểu Á, em vừa đi đâu đấy? Sao lại ra nông nỗi này?” Thiện Minh Minh liền nhanh nhảu trả lời thay bạn: “Dạ, bạn ấy đau bụng đi ngoài.” Giáo viên sẽ làu bàu: “Đi ngoài cũng không cần đến mười phút.” Thiện Minh Minh hiên ngang đáp: “Nhà vệ sinh phải xếp hàng ạ!” Lớp học rộ lên một tràng cười lớn. Giáo viên cũng không nhịn được liền cười theo. Đỗ Tiểu Á không cười, nó đỏ mặt, dáng vẻ ngại ngùng. Hễ nhắc đến từ ngữ có liên quan đến bài tiết, nó đều mặt đỏ tía tai như vậy.
Cuối cùng, việc hội Đỗ Tiểu Á giúp Nguyệt Lượng luyện tập đã bị Thái Dương phát hiện. Thái Dương ép Nguyệt Lượng đưa tất cả câu hỏi cho nó xem một lượt. Nguyệt Lượng rất đắn đo: Nếu không đưa, Thái Dương sẽ mách mẹ; đưa thì hình như sẽ có lỗi với những người bạn nhiệt tình. Nguyệt Lượng hỏi Đỗ Tiểu Á phải làm sao? Thiện Minh Minh lập tức trả lời là không đưa, bởi vì Thái Dương ức hiếp Nguyệt Lượng quá nhiều, hà cớ gì mà cả bọn phải lãng phí thời gian giúp Thái Dương? Đỗ Tiểu Á lại nói, không được, tốt nhất vẫn nên đưa Thái Dương xem, dù gì Thái Dương và Nguyệt Lượng cũng cùng một đội chơi, Nguyệt Lượng đâu thể đơn thương độc mã chiến thắng cuộc thi.
Cầm được câu hỏi trong tay, Thái Dương lập tức chạy ra hàng in ấn đầu phố, photo cho mình một bản. Nó đã học thuộc làu làu tất cả các câu hỏi trong hai ngày. Nhưng sau khi thuộc hết, nó lại nói với Nguyệt Lượng bằng vẻ khinh khỉnh coi thường: “Bọn Đỗ Tiểu Á chuẩn bị những câu hỏi gì thế, quá trẻ con, chị chẳng cần chuẩn bị cũng biết hết rồi.”
Nguyệt Lượng tức giận trong lòng, nhưng không dám nói với Thiện Minh Minh và Đỗ Tiểu Á, mấy ngày liền, nó không thèm nói chuyện với Thái Dương.
Một hôm, Đỗ Tiểu Á hỏi Nguyệt Lượng với vẻ mặt hết sức nghiêm túc: “Hôm thi, cậu định mặc gì? Để kiểu tóc như thế nào?”
Nguyệt Lượng trả lời: “Có lẽ nên là đồng phục? Tớ vẫn tết tóc như bây giờ.”
Đỗ Tiểu Á lắc đầu ra vẻ người trong nghề: “Không được, đồng phục quá là thiếu cá tính. Người lên ti vi cần phải xây dựng hình ảnh, để tớ nhờ mẹ thiết kế cho cậu nhé.”
Đỗ Tiểu Á đưa Nguyệt Lượng về nhà, nhờ mẹ Trịnh Duy Na chọn trang phục và kiểu tóc giúp bạn mình. Mẹ Trịnh Duy Na tháo tung dây buộc tóc của Nguyệt Lượng, nhìn trước ngó sau, ngắm trái coi phải, sau đó cắt thành kiểu tóc ngang vai, phần tóc trước trán được cài lên bằng một hàng những chiếc cặp nhỏ xinh đủ màu. Cô cởi chiếc áo khoác bên ngoài của nó, chỉ để nó mặc chiếc áo len màu đỏ có phần cổ áo màu trắng viền ren bẻ ra ngoài. Sau đó, cô chạy ra sạp quần áo trong chợ, mua về một chiếc quần yếm may bằng vải bò màu xanh rẻ tiền, giúp Nguyệt Lượng mặc thử, cố ý để cho dây yếm to bản lộ ra ngoài áo len. Cô còn dặn Nguyệt Lượng nhất định phải phối cùng một đôi giày du lịch màu trắng.
Thì ra, một cô bé dung mạo tầm thường, vẻ ngoài rụt rè, dưới bàn tay phép thuật của cô Trịnh Duy Na lại có thể trở nên hoạt bát, đáng yêu, ngây thơ đến thế. Không thể không thừa nhận, nghệ sĩ hóa trang xuất sắc có thể biến đá thành vàng.
Có lẽ chính diện mạo mới của Nguyệt Lượng quá thu hút nên hôm đó, sau khi nó về nhà, ngay cả mẹ nó cũng cảm thấy muôn phần bất ngờ, ân hận vì đã không sớm phát hiện ra vẻ đáng yêu của cô con gái út. Mẹ vui, Thái Dương lại cảm thấy không vui. Nó trốn vào trong phòng, cũng xõa tóc ra, đính những chiếc cặp tóc sắc màu lên cho giống kiểu tóc của Nguyệt Lượng. Nhưng Nguyệt Lượng để kiểu tóc đó rất hợp, trông rõ hồn nhiên, xinh đẹp, còn Thái Dương thì lại chẳng hợp, vì mắt nó quá to, quá có thần, kẹp quá nhiều cặp tóc sắc màu, nhìn vào lại có phần ngốc nghếch và dữ dằn, khiến nó tức đến mức giật hết cặp tóc vứt ra ngoài cửa sổ.
Thái Dương trằn trọc suốt đêm vì việc này, nó không thể nào chịu đựng nổi việc Nguyệt Lượng chiếm ưu thế hơn nó về mặt ngoại hình. Thế là ngày hôm sau, nó chạy ra cửa hàng tóc, tự ý cắt kiểu đầu con nít, về nhà lại tự mình kết hợp áo len trắng với váy kẻ ca rô đỏ trắng siêu ngắn. Nó khoe hình ảnh mới của bản thân với mẹ và nói: “Con và Nguyệt Lượng đã là chị em song sinh, lên ti vi đương nhiên cũng phải trang điểm giống nhau. Mẹ thấy có phải không ạ?”
Mặc dù mẹ thích kiểu tóc của Nguyệt Lượng, nhưng mái tóc của Thái Dương đã cắt ngắn rồi, tóc ngắn không thể dài ra ngay tức thì, nên chỉ có thể là Nguyệt Lượng chiều theo Thái Dương, cũng cắt kiểu tóc con nít ngắn cũn cỡn. Đương nhiên, áo len đỏ và quần yếm bò xanh cũng đổi thành áo len trắng và váy kẻ ca rô đỏ trắng siêu ngắn.
Khi gặp lại Trịnh Duy Na, Nguyệt Lượng không dám nhìn thẳng vào cô, như thể đã phụ công cô, rất có lỗi với cô. Nhưng Trịnh Duy Na lại chẳng mấy để bụng, quan sát một lượt từ trên xuống dưới, đánh giá tạo hình mới của Nguyệt Lượng, mỉm cười nhẹ nhàng và nói: “Ý tưởng của mẹ cháu à?” Cô còn nói: “Ra là gu thẩm mỹ như thế.” Rốt cuộc “như thế” là thế nào, tốt hay không tốt thì cô lại không nói.
Ngày chính thức ghi hình chương trình rất thú vị, người chơi tham gia thi đấu chỉ có hai cặp nam nữ, nhưng đội hình người nhà, bạn bè làm cổ động viên đi theo lại rất đông, cả đằng nội lẫn đằng ngoại. Nam giới thì ai ai cũng ưỡn ngực trong bộ đồ tây, phụ nữ thì ai ai cũng trang điểm đậm nét, họ đều một lòng muốn được tỏa sáng nhờ con cháu, chí ít cũng được ló mặt chương trình truyền hình. Bảo vệ ngoài cổng đài truyền hình nhìn thấy đoàn người thơm phưng phức, nô nức như đi trẩy hội này, không biết là ghi hình chương trình đấu trí của các cặp song sinh nên còn tưởng là chương trình hẹn hò cấp tốc kiểu Phi thường nam nữ, miệng lẩm bẩm không ngớt: “Sao người đến toàn lớn tuổi thế này? Lẽ nào chương trình lần này chuyên để giải quyết cho các hộ neo đơn?”
Nguyệt Lượng mặt được trang điểm nhẹ, tóc cắt kiểu con nít, mặc áo len trắng cùng váy kẻ ca rô đỏ trắng siêu ngắn, ít nhiều trông vẫn hơi quê mùa. Trước khi lên sân khấu, nó không đứng cùng với mẹ và chị, mà chạy tới bên mấy người bạn đến cổ vũ cho mình, một tay nắm lấy tay Đỗ Tiểu Á, một tay nắm lấy tay Thiện Minh Minh. Nó không nói câu nào, lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi, sâu trong ánh mắt đầy nỗi buồn và sự tuyệt vọng.
Đỗ Tiểu Á an ủi nó: “Nguyệt Lượng, cậu đừng căng thẳng, căng thẳng thì chẳng nghĩ ra được cái gì nữa. Cậu đã chuẩn bị tốt như thế mà, cứ tự tin lên nhé.”
Thiện Minh Minh luồn tay vào trong áo, lôi ra một tấm bảng nhựa trắng như thể đang làm trò ảo thuật và nói: “Ba bọn tớ ngồi ở ghế ngoài cùng, đến lúc đó, nếu cậu không trả lời được, bọn tớ sẽ dùng bút đen viết lên bảng này, giơ lên, cậu chỉ cần liếc mắt là có thể nhìn thấy ngay.”
Chu Học Hảo lộ vẻ ngạc nhiên, hào hứng tâng bốc Thiện Minh Minh: “Cách này của cậu… cậu… cậu… quá hay, may… may… may… là cậu nghĩ ra.”
Nguyệt Lượng không nói gì, chỉ càng nắm chặt tay chúng hơn, chặt đến nỗi Thiện Minh Minh còn cảm thấy đau. Thiện Minh Minh nhận ra cơ thể Nguyệt Lượng đang run lẩy bẩy, tựa như con chim sẻ nhỏ bị đứa trẻ nghịch ngợm bắn trúng, nằm thở thoi thóp trong bàn tay nắm chặt của nó. Thiện Minh Minh thầm nghĩ, Nguyệt Lượng là người chưa bao giờ dám phát biểu trước đám đông, nó bẩm sinh đã sợ lên sân khấu biểu diễn, tại sao mẹ nó không nghĩ cho nó một chút, nhất định bắt ép nó làm việc này mới được chứ?
Đèn trên cửa trường quay sáng đỏ lên, một chú râu rậm rất có dáng đạo diễn bước ra, hô hào mọi người vào cuộc. Trường quay hơi giống với phòng học bậc thang trong trường, các hàng ghế khán giả cứ cao dần lên từng tầng, phía trước là khu vực khách mời nhỏ xinh, kê hai chiếc bục như để phát biểu, một bên bục có hai cậu bé đang đứng, một bên bục có hai cô bé đang đứng. Phía trước phía sau, bên trái bên phải được tô điểm bằng vài quả bóng bay, ít giấy màu, những hình khối trừu tượng làm từ bọt biển, đơn sơ đến mức không gì đơn sơ hơn. Nhưng chỉ một lát sau, ánh đèn trong trường quay vụt sáng, Thiện Minh Minh bỗng thấy mọi thứ đều thay đổi một cách kỳ lạ, bóng bay, giấy màu, khối bọt xốp lấp lánh óng ánh dưới ánh sáng, đẹp đến mê mẩn, sinh động như được thổi hồn trong chớp mắt. Thiện Minh Minh bĩu môi, trong lòng không giấu nổi cảm giác thất vọng: Thì ra ti vi cũng là đồ lừa đảo.
Chú đạo diễn râu rậm ở dưới sân khấu nhảy qua bật lại như một con khỉ, giải thích cho khách mời về ý tưởng của chương trình: Trước tiên phải như thế nào, sau đó phải tiến hành ra sao, lúc trường quay rơi vào trạng thái im lặng phải như thế nào, lúc không khí lên cao trào lại phải thực hiện ra sao, vỗ tay như thế nào, động viên con trẻ ra làm sao, cổ động thế nào cho phù hợp… Chú khua hai tay như múa, còn phụ họa thêm đủ loại động tác hình thể khá khoa trương, nói một lèo cho đến khi giọng khàn đi, nước bọt bắn tung tóe. Dàn khách mời bật cười sảng khoái trước lời nói và hành động của chú, tràn đầy hứng khởi, không khí trong trường quay bỗng chốc được khơi dậy một cách trọn vẹn nhất.
Đúng lúc này, người dẫn chương trình nhẹ nhàng xuất hiện. Đó là một phụ nữ trẻ tuổi, nhỏ nhắn, nhanh nhẹn cùng nụ cười rất đỗi ngọt ngào, cô mặc một chiếc váy ôm khít cơ thể, màu sắc có vẻ hơi trầm, nhưng cổ áo khoác mở rộng, để lộ chiếc sơ mi viền ren bằng lụa màu hoa hồng đỏ, khiến cô lập tức trở nên rạng rỡ và hoạt bát. Lúc cô quay người đi, Thiện Minh Minh với ánh mắt sắc lẹm đã nhìn thấy một thiết bị nho nhỏ gắn trên cổ áo phía sau của cô, còn cả sợi dây điện rất dài lộ ra từ dưới vạt áo của cô, kéo dài mãi cho đến chỗ tối om bên ngoài trường quay. Thiện Minh Minh muôn phần kinh ngạc: Thì ra người dẫn chương trình cũng chẳng khác người máy là bao, đều phải nghe theo sự chỉ huy của cái thiết bị nho nhỏ sau cổ áo kia!
Đạo diễn vừa phẩy tay, toàn bộ đèn trong trường quay đều đồng loạt bật lên, chiếu cho căn phòng sáng rực như giữa ban ngày. Nhất thời chưa thể thích nghi ngay với ánh sáng quá gắt, hai cậu bé chớp mắt liên hồi. Chương trình còn chưa bắt đầu, hai chiếc nơ đỏ trên cổ hai cậu bé đã lệch sang một bên, mẹ các cậu vội lao lên sân khấu giúp con chỉnh lại cho ngay ngắn, hàng ghế khán giả rộ lên một tràng cười vui vẻ. Dù gì Thái Dương cũng là “tay lão luyện” giàu kinh nghiệm chinh chiến trên sân khấu, nó hất mặt lên, nhìn vào máy quay, nở nụ cười chừng mực, hai bờ vai thả lỏng, lưng thẳng, hai chân được đặt khéo léo, trông vừa thoải mái mà vẫn không thiếu chất nghệ thuật, thoáng chốc đã thu hút được ánh nhìn của toàn thể khán giả trong trường quay. Nguyệt Lượng đứng bên cạnh nó, mặt tái xanh, đầu cúi gằm, hai tay lóng ngóng mãi vẫn chưa tìm được chỗ để phù hợp, cuối cùng đành túm chặt gấu áo của chính mình, làm cho chiếc áo len xộc xệch, bên thấp bên cao. Quá đỗi sốt ruột, mẹ nó đứng bật lên khỏi ghế khán giả, ra sức vẫy tay lẫn ra hiệu bằng mồm, bảo nó thả lỏng và ngẩng đầu lên. Nhưng đáng tiếc thay, Nguyệt Lượng cứ cúi gằm như thế từ đầu đến cuối, cho dù mẹ nó lắc lư cơ thể như một lá cờ, nó vẫn chẳng nhìn thấy gì.
Người dẫn chương trình rất giàu kinh nghiệm, cô biết khách mời lần đầu tham gia chương trình đều khá căng thẳng, liền gợi chuyện cùng hai cặp song sinh về các chủ đề quen thuộc trong cuộc sống bằng giọng điệu thoải mái: Chuyện trường học, chuyện gia đình, chuyện bài vở, sở thích ngoài giờ, ngay cả chuyện hai cậu bé thích ăn thịt kho tàu cũng được khơi ra, khiến cả trường quay lại rộ lên một tràng cười khoái chí. Máy quay kêu “ro ro”, ghi lại tất cả những gì đang diễn ra. Sau đó, người dẫn chương trình đột ngột chuyển chủ đề, tươi cười tuyên bố quy định của cuộc thi, bao gồm nhấn chuông như thế nào, câu trả lời phải được đưa ra trong mấy giây sau khi bấm chuông mới được coi là hợp lệ. Cặp lông mày hơi nhướn lên, cô đẩy cao giọng thêm một quãng tám, cất lời hỏi: “Các bạn nhỏ đã hiểu rõ chưa nhỉ?” Ba đứa trẻ (Nguyệt Lượng vẫn không dám ngẩng đầu) không hẹn mà cùng đồng thanh hô to: “Rõ rồi ạ!”
Câu hỏi đầu tiên người dẫn chương trình đưa ra khá khó, như có ý muốn đánh đòn phủ đầu: “Cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ bắt đầu khi nào? Thế kỷ 18 hay thế kỷ 19?”
Chỉ hỏi thế kỷ, không hỏi cụ thể thập niên nào, đương nhiên là vì chương trình suy nghĩ đến đối tượng người chơi đều mới chỉ là học sinh lớp sáu.
Các cậu bé thường khá hào hứng với chủ đề lịch sử, một cậu bé trong cặp song sinh nam ấn chuông nhanh như cắt: “Thế kỷ 18.”
Người dẫn chương trình hỏi tiếp luôn: “Ai là người lãnh đạo? George Washington hay là Abraham Lincoln?”
Thái Dương vốn là người hiếu thắng, thấy câu hỏi đầu tiên đã bị đối thủ giành quyền trả lời, trong lòng có phần nôn nóng, liền chẳng nghĩ ngợi gì đã nhấn chuông, thực hiện quyền làm chủ cho câu hỏi số 2. Nhưng sau khi nhấn chuông, nó lại trở nên do dự, không biết nên chọn cái tên nào trong số hai cái tên được đưa ra kia. Nó huých tay sang Nguyệt Lượng, hy vọng em gái giải nguy giúp mình. Sắc mặt Nguyệt Lượng đang tái mét chuyển ngay sang đỏ ửng, đỏ đến nỗi khiến người khác cảm thấy nó như sắp khóc đến nơi. Thái Dương bất lực, thuận miệng thốt ra cái tên phía sau: “Lincoln.”
“Sai.” Người dẫn chương trình nói: “Phải là George Washington. Lincoln là Tổng thống trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc hồi thế kỷ 19.”
Mặt Thái Dương cũng bất ngờ ửng đỏ, nó cắn chặt môi. Người dẫn chương trình lại hỏi: “Nhà thơ Lý Bạch thời Đường có một bài thơ miêu tả thác nước, trong đó có hai câu hay nhất là câu nào?”
Bất thình lình, cặp mông của Thiện Minh Minh bật lên khỏi ghế, nó không nén nổi hào hứng mà khoe với Đỗ Tiểu Á và Chu Học Hảo: “Đây là câu hỏi tớ đã ghi lại đấy! Là câu hỏi của tớ đấy!”
Thiện Minh Minh rướn người về phía trước, nhìn Nguyệt Lượng đầy tha thiết, hy vọng nó có thể bước lên trả lời câu hỏi này. Nguyệt Lượng, cậu ấy biết mà! Trước buổi quay, chúng đã diễn tập hỏi và trả lời vô số lần rồi! Nguyệt Lượng, cậu ấy cần một cơ hội để thể hiện chính mình!
Nhưng, khi Nguyệt Lượng học thuộc đáp án này, Thái Dương cũng học thuộc luôn rồi. Đương nhiên Thái Dương sẽ không chịu để mất quyền được trả lời lần này. Nó vừa trả lời sai một câu, khá mất sĩ diện rồi, đối với câu hỏi nằm trong lòng bàn tay này, nó đâu thể khiêm tốn, lịch sự mà nhường lại cho Nguyệt Lượng. Nó mong được đưa tay ra ấn chuông quá đi chứ, khóe môi đã mấp máy đọc lên nội dung hai câu thơ: “Phi lưu trực há tam thiên xích, nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.”
Người dẫn chương trình thốt lên hai tiếng: “Tuyệt vời!” Cô vẫy tay ra hiệu về phía dưới sân khấu, ý là cộng điểm cho cặp song sinh nữ.
Thái Dương đắc ý ra mặt, ánh mắt đảo quanh tìm mẹ để báo tin vui. Mẹ nó khom người, vẫy tay với nó và cười sung sướng. Chỉ riêng Thiện Minh Minh cảm thấy không phục, thì thầm: “Đáng ghét, câu hỏi của tớ đâu phải chuẩn bị cho cậu ấy.”
Lúc này, câu hỏi thứ ba được người dẫn chương trình đưa ra: “Can Tương Mạc Tà trong truyền thuyết cổ đại dùng để chỉ thanh kiếm hay chỉ người?”
Cặp song sinh nam giành được quyền trả lời: “Chỉ kiếm!” Suy cho cùng, Thái Dương vẫn rất tinh ý, vừa nhìn thấy khóe môi người dẫn chương trình hơi mỉm cười, nó đã biết chắc đối thủ trả lời sai, lập tức nhấn chuông đính chính: “Là để chỉ người.”
Người dẫn chương trình nở nụ cười rồi buông tay xuống: “Đều đúng, nhưng cũng đều chưa đúng. Can Tương Mạc Tà vừa để chỉ kiếm vừa để chỉ người. Một đôi vợ chồng tên là Can Tương, Mạc Tà đã dành tâm huyết cả đời để đúc nên hai thanh kiếm quý cùng tên.”
Thái Dương nhìn sang cặp song sinh nam bằng ánh mắt thách thức, như muốn nói: “Các cậu cũng không trả lời đúng, hòa nhau cả thôi.”
Câu hỏi thứ tư liên quan đến lĩnh vực văn học: “Tác giả của tiểu thuyết Trà hoa nữ là ai?” Dừng lại trong giây lát, cô đưa ra gợi ý nho nhỏ: “Là nhà văn nào của nước Pháp?”
Vẫn là cặp song sinh nam giành quyền trả lời, họ đưa ra đáp án rất nhanh: “Alexandre Dumas cha.”
Người dẫn chương trình mỉm cười: “Chắc hẳn các em đều đã từng xem bộ phim Ba người lính ngự lâm, nên khá quen với cái tên Alexandre Dumas cha. Nhưng đáng tiếc, tác giả nhắc đến ở đây lại không phải là ông.”
Hai cậu bé đưa mắt nhìn nhau, cúi đầu vẻ chán chường. Không khí trong trường quay cũng hơi chùng xuống.
Người dẫn chương trình vội khuấy động tâm lý khán giả: “Mặc dù không phải là Alexandre Dumas cha, nhưng đáp án đã gần lắm rồi! Nghĩ thêm một chút, động não thêm một chút, để xem rốt cuộc ông là ai? Đáp án đã gần sát lắm rồi, chỉ cách chút xíu nữa thôi!”
Đỗ Tiểu Á ở phía dưới cất giọng nhỏ nhẹ: “Là Alexandre Dumas con.”
Thiện Minh Minh quay phắt đầu lại: “Cậu chắc chắn?”
Đỗ Tiểu Á nói: “Có lẽ… là ông ấy.”
Thiện Minh Minh hoàn toàn tin tưởng vào trí tuệ của Đỗ Tiểu Á, lập tức lôi ra tấm bảng nhựa trước ngực rồi viết chữ lên đó. Nó viết xong một từ “con” thật to, bỗng phát hiện không biết viết hai từ Alexandre Dumas như thế nào, chủ yếu là không biết nên lựa chọn từ đồng âm nào. Nếu còn đắn đo tiếp thì sẽ không kịp nữa, nó bèn giơ tấm bảng lên một cách dứt khoát, để Nguyệt Lượng thấy mỗi một chữ “con”.
Qua đuôi mắt, Nguyệt Lượng liếc thấy tấm bảng nhựa ở góc xa xa dưới sân khấu. Lúc đó, nó vốn không định lên tiếng, nó nghĩ bản thân mình đứng trên sân khấu chỉ để làm nền cho Thái Dương, nó không hề muốn trở nên nổi bật. Đối với nó, có thể kiên trì đứng hết chương trình đã là một việc ghê gớm lắm rồi.
Nhưng khi ấy, sân khấu ngập tràn một bầu không khí gượng gạo. Người dẫn chương trình ra sức gợi ý bằng ngôn từ, nụ cười lẫn hành động, khiến lũ trẻ hoa mày chóng mặt trước niềm kỳ vọng của cô. Thái Dương một lòng một dạ muốn vươn lên dẫn trước đối thủ, liên tiếp chạm đầu gối và khuỷu tay vào người Nguyệt Lượng, mong muốn Nguyệt Lượng có màn thể hiện tốt hơn một chút, có thể giúp nó một tay. Nguyệt Lượng bị Thái Dương thúc giục đến cuống cả lên, buột miệng thốt ra chữ “con” trên chiếc bảng nhựa.
Người dẫn chương trình mắt sáng lên, lập tức nhìn chằm chằm Nguyệt Lượng: “Cái gì con cơ? Ồ? Em nói đi, cái gì con cơ? Mạnh dạn lên, cô cảm giác em đang có câu trả lời đúng, 95% là đúng đó! Nói đi nào, cái gì con cơ?”
Người dẫn chương trình vô cùng nhiệt tình đưa micro đến trước miệng Nguyệt Lượng, cơ thể nghiêng nhẹ về trước, hai mắt nhìn chằm chằm vào đôi môi khô khốc trắng bệch của nó, ánh mắt ngập tràn hy vọng và khích lệ, chỉ muốn đưa nốt cánh tay kia ra mà móc lấy câu trả lời từ trong họng của cô bé.
Đã bao giờ Nguyệt Lượng gặp phải tình cảnh như thế này đâu. Người ngồi dưới sân khấu chỉ thấy sắc mặt Nguyệt Lượng tím ngắt như đang nín thở, toàn thân co rúm lại, người cứ thế run lên bần bật càng ngày càng mạnh hơn, giống hệt mầm cây mảnh mai không ngừng đung đưa lúc cơn bão ập về. Tiếp theo đó, tất cả mọi người đều nhìn thấy, dọc theo chân của Nguyệt Lượng bắt đầu có hơi nóng nhè nhẹ bốc ra, rất nhanh, đôi tất của nó chuyển sang màu đậm hơn, ánh mắt nó chứa đầy sự sợ hãi, hốt hoảng đến tuyệt vọng, sắc mặt cũng chuyển sang xám ngoét một màu…
Sau những phút giây kinh ngạc ngắn ngủi, cuối cùng, Thiện Minh Minh đã hiểu được tất cả những gì đang diễn ra trước mắt, tất cả những gì kinh hãi, gây nên tổn thương trí mạng suốt đời cho Nguyệt Lượng. Thiện Minh Minh đưa tay che miệng, nó cảm thấy cơ thể mình cũng như Nguyệt Lượng đang chìm xuống hố sâu lạnh cóng, muôn đời muôn kiếp cũng chẳng thể trở về.
Đạo diễn vội lao lên hét to, yêu cầu nhân viên ánh sáng tắt ngay đèn chiếu giữa sân khấu, bảo người quay phim tắt máy quay, rồi gọi trợ lý bê ra vài miếng giấy cứng làm bình phong, tạm thời vây kín sân khấu lại. Sau một hồi bàn bạc khẩn cấp, ông nghiêm mặt tuyên bố kết thúc buổi ghi hình, để mọi người ra về.
Mấy ngày liền, Nguyệt Lượng không đến trường. Thái Dương xin nghỉ hộ nó, nói nó ốm, ngày nào cũng phải đi khám. Thái Dương còn nhấn mạnh là đi khám bác sĩ tâm lý. Nhưng Thái Dương lại không cho phép người khác nhắc đến việc nó đi quay chương trình, ai nhắc đến là nó nổi nóng với người đó.
Thiện Minh Minh vò đầu bứt tai suốt mấy ngày. Thật lạ kỳ, Nguyệt Lượng xảy ra chuyện, nó luôn cảm thấy bản thân có liên quan, nó cũng là một trong những người tiếp tay cho chuyện đó xảy ra. Nó tâm sự với Đỗ Tiểu Á, Đỗ Tiểu Á cũng có cảm nhận y hệt. Đỗ Tiểu Á nói: “Nguyệt Lượng và Thái Dương vốn không giống nhau, sao chúng ta cứ ép họ phải giống nhau cơ chứ?” Một lúc sau, nó lại nói: “Tớ không muốn thấy Nguyệt Lượng vì chuyện này mà buồn cả đời, tớ hy vọng có thể giúp được cậu ấy.”
Nhưng giúp thế nào đây? Làm thế nào để Nguyệt Lượng hiểu được ý tốt của chúng và chấp nhận sự giúp đỡ? Chẳng ai biết cả. Trong cuộc sống có quá nhiều điều khiến ta chẳng thể ngờ tới, hơn nữa còn nghiêm trọng đến nỗi vượt ra ngoài sức chịu đựng của con người.