Franklin thân yêu,
Tối nay văn phòng em có lễ Giáng sinh, chẳng dễ dàng gì để tổ chức một buổi tiệc với sáu người luôn muốn nhảy vào họng nhau. Bọn em có rất ít điểm chung, nhưng em cũng hài lòng khi làm việc với họ, không chia sẻ quá nhiều tâm tư qua một chiếc bánh kẹp cũng như qua việc trao đổi hàng ngày về các giao dịch ở Bahamas. (Nhiều khi em cảm thấy biết ơn vì có quá nhiều chuyến bay phải đặt khiến em bận rộn phát khóc.) Chỉ việc đơn giản là ở quanh những cơ thể sống đã mang đến cho em sự thoải mái nhất.
Người quản lý đã rất tử tế khi nhận em vào làm. Vụ việc ngày thứ Năm đã làm tổn thương quá nhiều người trong khu này, Wanda ban đầu đã lo lắng rằng mọi người sẽ tránh cơ sở của cô ấy vì không muốn nhớ tới chuyện đó. Nhưng để công bằng với những người hàng xóm của chúng ta, thi thoảng có những lời chào hỏi nghe có vẻ chân thành một cách kỳ lạ nhắc em rằng họ nhận ra em là ai. Những nhân viên mới là người thất vọng vì em. Họ chắc hẳn hy vọng việc cọ xát với người nổi tiếng nào đó sẽ khiến họ có chút khác biệt hoặc là em sẽ khuấy động bằng việc kể những câu chuyện khó chịu cho những đồng nghiệp trong bữa tối. Nhưng sự giao thiệp quá hời hợt, và em không nghĩ bạn bè của họ bị ấn tượng gì. Hầu hết những chuyện em nói đều là chuyện thường ngày. Chỉ có một chuyện mà họ thực sự muốn biết, và đó là chuyện mà họ đã biết quá rõ trước khi em gia nhập.
Người phụ nữ hông to đã ly dị với giọng cười the thé, Wanda mong bọn em có thể nhanh chóng trở thành bạn bè. Cuối bữa trưa đầu tiên cùng nhau, cô ấy tâm sự rằng chồng cũ của mình cương cứng khi nhìn thấy cô ấy đi tiểu, rằng cô ấy vừa phẫu thuật co búi trĩ, và rằng, cho đến lần suýt qua mặt được những bảo vệ ở Saks28 khi cô ấy ba mươi sáu tuổi, cô ấy bị buộc tội trộm vặt. Em đáp trả bằng việc tiết lộ rằng em đã mua được rèm cửa sau sáu tháng sống trong căn hộ mới.
28 Chuỗi cửa hàng bách hóa xa xỉ của Mỹ
Tối nay Wanda dồn em đến gần chỗ máy fax. Cô ấy không muốn tọc mạch, nhưng có phải em đã buột miệng “Cứu!”? Em biết cô ấy định làm gì. Toàn bộ học sinh của trường Phổ thông Gladstone đều được hội đồng nhà trường tư vấn miễn phí, kể cả những đứa mới vào năm nay, cả những đứa không liên quan đến sự việc năm 1999, đã nói rằng chúng bị chấn động tâm lý và bị suy sụp. Em không muốn tỏ ra thù địch và thật lòng mà nói thì em không hiểu việc kể đi kể lại những rắc rối của mình cho một người lạ sẽ làm chúng giảm bớt tí ti như thế nào, và chắc chắn rằng những lời tư vấn chỉ là cách trốn tránh hợp lý của những người mà vấn đề của họ là những hoang tưởng chóng tàn và chẳng thực sự gây ra gì trong quá khứ. Vậy nên em cho rằng kinh nghiệm của em về nghề chăm sóc sức khỏe tâm thần khá là tồi, vui lòng bỏ qua sự thất bại trong việc điều trị tâm thần của con trai em đã được lên mặt báo khắp nơi.
Hơn nữa, có vẻ không khôn ngoan lắm khi thú nhận rằng cho đến giờ, thứ duy nhất có thể “cứu” em chính là những bức thư viết cho anh, Franklin. Bằng cách nào đó, em khá chắc chắn những lá thư này không nằm trong danh sách những liệu pháp được chỉ định, vì anh chính là những gì em cần “vượt qua” để em có thể “chôn vùi” mọi chuyện. Và viễn cảnh đó mới kinh khủng làm sao.
Ngay cả từ năm 1983, em đã không thể hiểu tại sao một chứng tâm thần tiêu chuẩn như trầm cảm sau sinh lại được coi là cần an ủi. Mọi người dường như muốn đặt thật nhiều các thể loại bệnh trong hồ sơ của họ. Không chừng một lời phàn nàn phổ biến đến nỗi người ta đặt tên cho nó để ám chỉ rằng bạn không cô đơn và những lựa chọn như phòng tán chuyện trên Internet hay những nhóm hỗ trợ cộng đồng để cùng than vãn công khai. Sự ép buộc với đám đông này thậm chí đã ngấm vào cả những cuộc trò chuyện nhỏ của người Mỹ. Em không thể nhớ lần cuối có người nói với em rằng anh ta phải vất vả mỗi sáng để thức dậy. Thay vào đó, em tự hiểu rằng anh ta không phải kiểu “người buổi sáng”. Tất cả những người hay đi du lịch mà thường xuyên yêu cầu những cốc cà phê đậm đặc để tỉnh táo chắc hẳn sẽ tặng vài cái tát cho sự chán ghét để nhảy ra khỏi giường cho chuyến chạy bộ mười dặm.
Em có thể phải đánh giá lại những chuẩn mực của riêng mình, bao gồm cả những kỳ vọng phi lý rằng khi mang thai em sẽ thực sự cảm nhận được điều gì đó, kể cả điều tốt đẹp. Nhưng em không thay đổi nhiều đến thế. Em không bao giờ cảm thấy được an ủi như những người khác. Bác sĩ Rhinestein đề cập đến trầm cảm sau sinh như thể nó là một món quà, như thể chỉ đơn giản việc người ta bảo bạn đang buồn phải làm bạn vui lên, em không trả tiền cho những chuyên gia chỉ để nói những điều hiển nhiên, những mô tả đơn thuần. Những kết luận cũng chẳng hơn gì một phép lặp thừa: Tôi trầm cảm sau khi sinh Kevin bởi vì tôi bị trầm cảm sau khi sinh Kevin. Vâng, cảm ơn.
Tuy nhiên cô ấy cũng gợi ý rằng việc Kevin từ chối ti mẹ có thể khiến em cảm thấy bị chối bỏ. Em đỏ mặt. Thật xấu hổ khi em có thể đã để bụng những định kiến mờ nhạt của một sinh vật bé nhỏ, đang hình thành kia.
Cô ấy đã đúng. Ban đầu em nghĩ là do mình làm sai gì đó, không đặt đúng hướng miệng nó. Nhưng không, em chỉ có thể đặt núm vú vào giữa hai môi nó, còn chỗ nào khác nữa đâu? Nó mút một, hai lần gì đó rồi quay đi, dòng sữa lợt lạt chảy xuống cằm nó. Nó ho, hoặc cũng có thể là do em tưởng tượng, nó dường như muốn bịt miệng. Khi em gặp bác sĩ Rhinestein, cô ấy thẳng thắn nói rằng “Điều này đôi khi cũng xảy ra”. Chúa ơi! Franklin! Anh hiểu điều đôi khi xảy ra khi làm cha mẹ là gì mà. Em đã quẫn trí. Trong văn phòng cô ấy, em bị bao quanh bởi những tờ rơi về việc xây dựng hệ thống miễn dịch cho trẻ. Và em đã làm tất cả. Em đã không uống rượu. Em đã loại bỏ các chế phẩm từ sữa. Một sự hy sinh to lớn, em đã từ bỏ hành, tỏi và ớt. Em đã loại bỏ thịt và cá. Em đã áp dụng một chế độ ăn không gluten, em chỉ còn lại không gì hơn một bát cơm và sa-lát không xốt.
Cuối cùng thì em chết đói trong khi Kevin tiếp tục ăn một cách uể oải những bình sữa công thức quay lò vi sóng mà nó chỉ nhận từ tay anh. Nó thậm chí còn không ăn sữa mẹ từ bình, lắc đầu không chịu ăn lấy một hớp. Nó có thể ngửi thấy em. Nhưng nó không dương tính với bất kỳ kiểm tra dị ứng nào, ít nhất là trên phương diện y học. Trong khi đó, một bên ngực em đang căng lên, đau nhức và rỉ sữa. Rhinestein rất cương quyết rằng em không nên để mình mất sữa vì những ác cảm nhất thời này sẽ dịu đi. Đó là từ mà cô ấy đã dùng đấy Franklin, ác cảm. Thật khó chịu và đau lòng, em chưa bao giờ thực sự học cách sử dụng máy hút sữa, mặc dù thật ngọt ngào khi anh đã mua cho cho em chiếc máy Medela loại tốt. Em sợ rằng mình đã ghét nó, một miếng nhựa lạnh lẽo thay thế cho một đứa trẻ sơ sinh ấm áp. Em đã hết lòng dành cho nó dòng sữa tốt đẹp của con người và nó không muốn, hoặc nó chỉ không muốn sữa của em.
Em không nên để bụng chuyện này, nhưng em biết làm thế nào chứ? Nó không phải không muốn sữa mẹ, nó không muốn Mẹ. Em dần bị thuyết phục rằng những niềm vui nho nhỏ bắt đầu chừa mình ra. Trẻ sơ sinh có trực giác rất tốt bởi vì đó là tất cả những gì chúng có. Em thấy khá chắc chắn rằng nó có thể cảm thấy gì đó thô cứng trong vòng tay em khi em bế nó lên. Em tin rằng nó có thể suy luận từ sự bực bội phảng phất trong giọng nói của em khi em thì thầm hay dỗ dành rằng sự thì thầm và dỗ dành đó không đến tự nhiên và đôi tai phát triển sớm của nó có thể tách rời từ sự vỗ về vô tận đó một sự chế nhạo giả dối, gượng ép. Hơn nữa, em đã đọc, xin lỗi là anh đã đọc, được rằng luôn giữ nụ cười với trẻ là rất quan trọng để gợi lên nụ cười từ chúng, em cười và cười, cười đến mức đau cả mồm, và em chắc rằng nó cũng biết điều đó. Mỗi khi em buộc mình phải cười, nó rõ ràng cũng biết rằng em không muốn cười bởi vì nó chẳng bao giờ cười đáp lại. Nó chưa nhìn thấy nhiều nụ cười nhưng nó đã nhìn thấy anh, đủ để nhìn ra sự khác biệt khi so sánh với nụ cười từ mẹ. Miệng cong một cách giả tạo, rồi bốc hơi nhanh chóng ngay khi em quay đi khỏi cũi của nó. Có phải Kevin đã học từ đó không? Trong tù, nụ cười như con rối của nó, như thể được kéo lên từ hai sợi dây bên mép vậy.
Em biết anh không tin nhưng em đã thực sự rất cố gắng để hình thành mối liên kết sâu sắc với con trai chúng ta. Nhưng em chưa từng làm vậy với cảm xúc dành cho anh, giống một bài thể dục mà em buộc phải luyện đi luyện lại như thang âm đàn piano. Em càng cố gắng thì càng nhận ra những nỗ lực của mình chỉ là một sự ghê tởm. Chắc chắn tất cả những sự dịu dàng sau cùng mà em chỉ đơn giản bắt chước sẽ không tự đến. Do vậy, không phải chỉ Kevin làm em thất vọng, hay sự thật là tình cảm của anh ngày càng chuyển hướng, mà chính em tự làm mình thất vọng.
Nhưng Kevin cũng làm em thất vọng, ý em là Kevin chứ không phải đứa bé. Ngay từ đầu đứa trẻ đã rất khác biệt trong mắt em, trong khi anh luôn hỏi “Em bé thế nào?”, “Chàng trai của bố sao rồi?”, “Bé con đâu rồi?” thì với em nó chưa bao giờ là một “đứa bé”. Nó là một cá thể tách biệt, xảo quyệt kỳ lạ đã đến và ở lại với chúng ta trong hình hài nhỏ bé. Đối với anh, nó là “con trai của chúng ta”, hay có lúc anh đã gạt cả em ra, chỉ là “con trai anh”. Có một sự cố chấp thường thấy trong cách anh thương con mà em chắc chắn nó cảm nhận được.
Trước khi anh tự biện hộ cho mình, em không có ý chỉ trích đâu. Hẳn sự gắn kết bao trùm với một thứ gì đó rất trừu tượng, với sự đúng hay sai của lũ trẻ, có thể còn tàn nhẫn hơn những cam kết với chúng như là những người khó tính và thực tế, và điều đó có thể khiến anh luôn hết lòng vì chúng khi bản thân chúng là nỗi thất vọng. Về phần em, đó là một giao ước lớn lao với trẻ-con-trên- lý-thuyết mà em có thể đã không làm được và không thể trông cậy vào khi Kevin thử thách sợi dây liên kết mẹ-con đến giới hạn trong ngày thứ Năm. Em đã không bỏ phiếu cho các đảng mà là cho các ứng viên. Quan điểm của em cũng như cái chạn hổ lốn của em, vẫn đầy ắp sốt salsa từ Mexico, cá cơm từ Barcelona, lá chanh từ Bangkok. Em không có vấn đề gì với việc phá thai nhưng em sợ bị trừng phạt, em nghĩ mình bắt đầu “có thờ có thiêng” từ khi trưởng thành. Thói quen hàng ngày của em thất thường, em đặt một viên gạch vào bể chứa bồn vệ sinh để tiết kiệm nước nhưng sau đó lại mở chiếc vòi hoa sen có cả tá những vòi phun nhỏ với áp lực nước kiểu châu Âu và đầm mình dưới đó cả nửa tiếng đồng hồ. Tủ đồ của em phấp phới những chiếc khăn sari từ Ấn Độ, những chiếc khăn quấn từ Ghana và áo dài Việt Nam. Vốn từ vựng của em điểm xuyết những từ nước ngoài. Em thật hỗn độn và anh thi thoảng lại lo lắng rằng em không thể gắn bó với bất cứ thứ gì hoặc bất cứ đâu, anh đã sai, sự cam kết của em chỉ đơn giản là xa vời và cụ thể một cách khó hiểu.
Tương tự, em không thể yêu một đứa trẻ bất kỳ, em phải yêu đúng đứa trẻ. Em gắn kết với thế giới bằng những sợi chỉ mảnh, anh thì bằng những sợi dây thừng to và chắc chắn. Cũng giống như lòng yêu nước, anh luôn cho rằng nước Mỹ hùng mạnh hơn chính nó rất nhiều, nhờ tình yêu với những khát vọng kiểu Mỹ mà anh có thể bỏ qua thực tế là cha mẹ những người bạn Yankee của anh đang đứng xếp hàng suốt đêm bên ngoài FAO Schwarz29 với những bình giữ nhiệt chỉ để mua bản phát hành giới hạn của trò Nintendo. Cái chính là họ chỉ cố làm màu, nhưng họ lại nói những khái niệm như sự vĩ đại, sự siêu việt, sự bất diệt. Bất kỳ quốc gia nào hay một thằng bé mắc bệnh hiểm nghèo nào cũng có thể xuống địa ngục, ý niệm về quốc gia hay ý niệm về đứa bé thì trường tồn. Mặc dù không ai trong hai ta đến nhà thờ, nhưng em tự kết luận anh là một con chiên ngoan đạo.
29 Một thương hiệu đồ chơi và cửa hàng của Mỹ.
Cuối cùng, chứng viêm vú đã chấm dứt chuỗi thất vọng của em khi cố tìm hiểu loại thực phẩm nào khiến cho Kevin tránh xa sữa của mình. Có lẽ chế độ ăn thiếu dinh dưỡng đã khiến em trở nên mẫn cảm. Và cả việc vụng về cho Kevin bú có thể đã gây ra những vết xước đủ để gây nhiễm trùng truyền từ miệng nó. Chống đối sự nuôi dưỡng của em, nó vẫn có thể mang cho em bệnh viêm nhiễm, như thể ngay từ năm đầu đời bọn em đã ở hai phe đối đầu.
Vì triệu chứng ban đầu của bệnh viêm vú là kiệt sức, nên có lẽ những dấu hiệu sớm thường không được để ý. Nó đã quần em nhiều tuần. Em cá là anh vẫn sẽ không tin em về cơn thịnh nộ của nó, mặc dù sự giận dữ kéo dài sáu đến tám tiếng có vẻ giống một trạng thái tự nhiên hơn là cơn giận. Rồi nó biến mất một cách kỳ quái và thay vào đó là sự bình tĩnh giữa chừng mà anh chứng kiến. Con chúng ta có một cơn bình yên. Và điều này nghe có vẻ hoàn toàn điên rồ, việc lặp đi lặp lại khi Kevin la hét bằng sức mạnh ý chí sớm có suốt khoảng thời gian chỉ có em và nó và rồi đột ngột tắt cái đài phát thanh ầm ĩ đó ngay khi anh bước vào nhà, có vẻ là có chủ ý. Sự im lặng vẫn vang lên với em, anh cúi xuống thiên thần đang say giấc của chúng ta mà không hề biết rằng nó vừa mới thiếp đi sau khi đã dốc hết sức trèo tới đỉnh Olympia. Em không bao giờ muốn anh chịu những cơn đau đầu của em, em không thể chịu đựng được sự ngờ vực giữa chúng ta khi mà trải nghiệm với con trai của anh không giống như của em. Thi thoảng em lại say sưa với suy nghĩ ngay từ khi còn ở trong cũi, Kevin đã biết cách phân biệt và chế ngự, lên kế hoạch để thể hiện trước mặt chúng ta những tâm trạng trái ngược nhau một cách kỳ lạ. Nét mặt của Kevin sắc sảo một các bất thường so với một đứa trẻ, trong khi em chỉ có thể biểu lộ quanh quẩn với sự cả tin như Marlo Thomas30, như thể nó đã hút cạn trí tuệ của em từ trong tử cung.
30 Margaret “Marlo” Thomas là nữ diễn viên người Mỹ nổi tiếng với vai chính trong bộ phim sitcom That Girl.
Khi chưa có con, em cho rằng việc trẻ con khóc chẳng đáng bận tâm. Cũng ầm ĩ, nhưng không quá ồn. Nhưng đến khi làm mẹ thì tai em mới phát triển. Những tiếng khóc khi không được đáp ứng đúng nhu cầu là cách duy nhất mà đứa trẻ xoay sở biểu lộ trước khi biết nói, âm thanh thông báo bỉm ướt, đói, hoặc khó chịu. Những tiếng khóc thét khiếp sợ mỗi khi không có ai xung quanh hay như thể sẽ không có ai ở đây nữa. Tiếng oa-oa không biết mệt mỏi đó, không giống như lời gọi từ một nhà thờ Hồi giáo ở Trung Đông hay một bài hát vừa bộc phát, đây là tiếng khóc sáng tạo, tiếng khóc buồn cười từ đứa trẻ không thực sự buồn vì một điều gì cụ thể nhưng đã thất bại trong việc học cách kìm nén phiền muộn. Có lẽ điều buồn nhất là sự im lặng, tiếng oa-oa thường xuyên của một đứa trẻ có thể đang thực sự đau khổ nhưng với một đứa, dù bị bỏ mặc hay thấu hiểu, không còn kỳ vọng sự cứu giúp, một đứa mà ngay từ khi sơ sinh đã cam chịu ý nghĩ rằng còn tồn tại là còn chịu đựng.
Ồ, em tưởng tượng ra nhiều lý do khiến trẻ sơ sinh khóc, những lý do giống như người lớn, nhưng Kevin không phải kiểu khóc lóc thường thấy như vậy. Chắc chắn rồi, khi anh ở nhà thi thoảng nó cũng khóc một chút giống như một đứa bé bình thường khi đói hay cần thay tã, và anh cho nó ăn hoặc thay tã cho nó thì nó ngừng khóc. Rồi anh quay ra nhìn em kiểu như “thấy chưa?” và em chỉ muốn đấm anh.
Với em, khi anh đi vắng, Kevin không thể hài lòng với những thứ nhỏ bé và bình thường như là sữa hay tã sạch. Nếu nỗi sợ bị bỏ rơi có một mức đề-xi-ben ngang ngửa máy cưa công nghiệp, thì sự cô đơn của nó thể hiện bản năng sinh tồn thuần tuý, không phải để được dỗ dành bởi con bò cái xanh xao lảng vảng với dung dịch màu trắng ghê tởm. Em biết rõ rằng không có tiếng khóc nào là khẩn thiết, không có tiếng than tuyệt vọng, không có tiếng thút thít của những nỗi sợ không tên. Thay vào đó, nó cất tiếng lên như một thứ vũ khí, tiếng khóc đập vào những bức tường như một cây gậy bóng chày đập vào nhà chờ xe buýt. Nó giơ nắm đấm khua loạn xạ, đá chân đạp tung chăn, đó là lúc em đặt nó xuống sau khi vừa dỗ dành, vỗ về, thay tã, cho ăn như đánh vật với nó. Không thể nhầm lẫn được: thứ điều khiển động cơ đốt trong đặc biệt này là một nguồn nhiên liệu của sự ác cảm được chưng cất và tái tạo vô hạn.
“Vì cái gì mới được?” Có thể anh sẽ hỏi như vậy.
Nó đã có tã sạch, đã ăn no, đã ngủ đủ. Em đã thử cả đắp chăn và bỏ chăn, nó chẳng nóng hay lạnh. Nó đã được ợ, bản năng của em mách bảo rằng nó không hề bị đau bụng. Nó không khóc vì đau mà vì phẫn nộ. Nó có đồ chơi treo trên đầu, có đồ chơi cao su trong cũi. Mẹ nó đã nghỉ làm sáu tháng để dành toàn bộ thời gian ở bên cạnh nó, và em bế nó nhiều đến nỗi đau cả tay, anh không thể bảo rằng nó thiếu sự quan tâm. Giống như những tờ báo mô tả mười sáu năm sau, “Kevin có mọi thứ”.
Em có một giả thuyết rằng anh có thể định nghĩa hầu hết mọi người bằng một thước đo của những thứ cơ bản nhất và rằng vị trí của họ trên thước đo này chính là những mối tương quan của họ với nhau: chính xác thì họ muốn sống trên cõi đời này chừng nào, hay chỉ là tồn tại. Em nghĩ Kevin ghét việc đó. Em nghĩ Kevin nằm ngoài thước đo đó, nó ghét phải có mặt trên đời này. Có khi nó vẫn còn lưu giữ những ký ức từ kiếp trước, và những thứ vô dụng lấp lánh này khác xa so với những gì nó đã bỏ qua trong tử cung của em. Kevin dường như tức giận vì không ai hỏi ý kiến nó về việc khiến nó bỗng dưng xuất hiện trong một chiếc cũi và thời gian cứ thế trôi qua, trong khi chẳng có bất cứ thứ gì khiến nó quan tâm trong cái cũi đó. Nó là đứa bé trai ít tò mò nhất mà em từng gặp, thỉnh thoảng nó cũng thể hiện vài ngoại lệ khiến em rùng mình.
Một buổi chiều, em chán nản hơn bình thường, có lúc còn thấy hơi lâng lâng. Trong nhiều ngày, em đã không thể tự giữ ấm, và lúc đó là cuối tháng Năm, bên ngoài, người New York vẫn mặc quần soóc. Kevin bắt đầu độc tấu một cách điêu luyện. Rúc mình trong chiếc chăn trên ghế sô-pha, em cáu kỉnh nhận ra rằng anh đang bận rộn hơn bao giờ hết. Cũng công bằng thôi, là một người làm việc tự do, anh không muốn những khách hàng quen của mình tìm một người thay thế, trong khi công ty của em có những người đáng tin cậy và không bỏ em đi. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là em cả ngày mắc kẹt trong địa ngục nhỏ bé còn anh thì vui vẻ lái chiếc xe bán tải xanh dương của mình lang thang cả ngày để tìm những cánh đồng với những con bò hợp nhãn. Em thắc mắc không biết nếu chúng ta đổi vị trí cho nhau, anh đứng đầu một công ty còn em là một trinh sát địa điểm tự do, Eva hẳn sẽ giãy ra như đỉa phải vôi.
Khi thang máy dừng lại, em vừa nhận ra miếng thấm ở ngực phải mình chuyển sang màu đỏ tươi, nhẹ nhàng kiểm tra bên còn lại và thấy vết loang còn lớn hơn. Anh mở cửa sắt và đi thẳng về phía chiếc cũi. Em rất mừng khi anh trở thành một người cha tận tụy, nhưng trong hai sinh vật sống đang ở trong căn gác, chỉ có vợ anh đánh giá cao lời chào hỏi.
“Đừng đánh thức nó.” Em thì thầm. “Nó mới nằm được khoảng hai mươi phút cả ngày nay. Em ngờ rằng nó chẳng phải ngủ mà là lả đi vì mệt ấy.”
“Con đã ăn no chưa?” Bỏ ngoài tai lời cầu khẩn của em, anh bế nó lên vai và chọc vào mặt nó. Trông nó như đang giả vờ. Mơ về sự lãng quên, có lẽ vậy.
“Rồi, Franklin ạ!” Em trả lời với thái độ hơi mất kiểm soát. “Sau bốn hay năm tiếng nghe Kevin gào ầm nhà em mới nghĩ đến điều đó đấy. Sao anh lại bật lò thế?”
“Lò vi sóng làm mất hết chất dinh dưỡng.” Ồ vậy là sau bữa trưa ở McDonald’s, anh đã đọc sách.
“Không dễ để biết nó muốn gì. Nó hầu như còn chẳng biết mình muốn gì.” Em đã thấy anh đảo mắt nhìn lên trần nhà như thể ôi-không-phải-lại-như-thế-chứ. “Anh nghĩ em đang phóng đại.”
“Anh không nói vậy.”
“Anh nghĩ nó cáu gắt, nó giận dữ bởi vì nó đói…”
“Nghe này, Eva, anh biết là nó có chút cáu kỉnh…”
“Thấy không? Chút cáu kỉnh.” Em lạch bạch đi vào bếp trong chiếc chăn của mình. “Anh không tin em!” Em đã toát mồ hôi lạnh và sắc mặt cùng lúc vừa đỏ ửng vừa tái nhợt. Bàn chân em đau nhói và cơn đau truyền lên cả cánh tay trái.
“Anh tin rằng em thật lòng về cảm nhận của mình rằng việc này khó khăn đến thế nào. Nhưng em mong đợi gì chứ? Một cuộc dạo chơi trong công viên à?”
“Không cần phải là một cuộc dạo chơi không lo lắng. Nhưng thế này giống như bị giam cầm trong công viên.”
“Nó cũng là con anh. Anh cũng gặp nó hàng ngày. Thỉnh thoảng nó khóc một chút. Vậy thì sao chứ? Anh sẽ lo nếu nó không khóc đấy.”
Rõ ràng lời trần tình của em đã bị vấy bẩn. Em phải đưa thêm một nhân chứng khác. “Anh có biết John sống ở tầng dưới đang dọa chuyển đi không?”
“John là đồ đàn bà, và người như anh ta không thích trẻ con. Cả đất nước này chống lại trẻ con. Anh là người duy nhất thấy điều đó sao?” Sự mỉa mai nghe không giống anh cho lắm, lần đầu tiên anh nói về một đất nước thực sự chứ không phải lâu đài Valhalla31 đầy sao trong đầu. “Nhìn xem!” Kevin ngả vào vai anh và ngoan ngoãn mút sữa từ bình mà chẳng buồn mở mắt. “Anh xin lỗi, nhưng anh thấy nó hầu như là ngoan.”
31 Valhalla là một trong những lâu đài của Odin trong thần thoại Bắc Âu, nơi ở của những chiến sĩ hy sinh một cách anh dũng ngoài mặt trận.
“Bây giờ không phải nó ngoan mà là nó kiệt sức rồi. Em cũng vậy. Em biết mình đã bận cả ngày nhưng em cảm thấy hơi lạ, không ổn lắm. Chóng mặt, hơi lạnh, em nghĩ mình sốt rồi.”
“Ôi, tệ thật.” Anh trả lời máy móc. “Vậy cứ nghỉ ngơi đi, anh sẽ nấu bữa tối.”
Em tròn mắt. Sự lạnh lùng này không giống anh. Em đáng nhẽ là người luôn coi thường bệnh tình của mình còn anh thì luôn cuống lên lo cho em từng chút một. Ép anh mang sự quan tâm của mình trở lại, em giật bình sữa và kéo tay anh đặt lên trán em.
“Hơi nóng,” anh nói rồi rụt tay lại ngay tức thì.
Em sợ rằng mình chẳng đứng vững nổi nữa. Em đau hết mình mẩy bất cứ chỗ nào mà chăn chạm vào. Em lảo đảo quay lại ghế sô-pha, như thể em tự gánh chịu khải huyền của chính mình: anh đang giận em. Việc làm cha không khiến anh thất vọng, nhưng em thì có. Anh nghĩ mình đã cưới một người mở mồm ra là kêu ca. Thay vào đó vợ anh đang chứng minh rằng một người hay rên rỉ, thứ mà cô ấy kêu ca là về những người bất mãn được nuông chiều quá mức của nước Mỹ, với họ khó khăn phổ biến là mất bưu kiện FedEx ba lần liên tục và phải đi đến kho hàng, tạo nên một thứ “căng thẳng” không thể chịu đựng nổi, sự nhồi nhét những buổi trị liệu tốn kém hay bù đắp bằng dược phẩm. Ngay cả việc Kevin không chịu ti mẹ, anh cũng lờ mờ cho rằng đó là trách nhiệm của em. Em từ chối diễn hoạt cảnh cùng anh trong vai người mẹ: đó là một buổi sáng Chủ nhật ngọt ngào nằm dài trên nệm với bánh mì nướng bơ: con đang bú, vợ tươi tắn, bộ ngực lồ lộ nảy lên trên gối đến mức anh buộc phải dậy lấy máy quay phim.
Giờ em nghĩ mình đã khá xuất sắc trong việc che giấu những cảm xúc thật về việc làm mẹ bấy lâu nay, đến mức quên mất rằng có quá nhiều lời nói dối trong hôn nhân chỉ đơn thuần là sự im lặng. Em đã kiềm chế không ném lên bàn cà phê tờ chẩn đoán về bệnh trầm cảm sau sinh mà giữ nó như một chiếc cúp cho riêng mình. Trong khi đó, em mang về cả đống việc cần chỉnh sửa nhưng mới chỉ làm được vài trang, em ăn ngủ đều kém và gần như ba ngày mới tắm một lần, em không gặp gỡ ai và hiếm khi ra ngoài vì sự mè nheo của Kevin, ở nơi công cộng, bọn em không được chào đón. Hàng ngày em phải đối diện với khuôn mặt đỏ tía vì cơn giận dữ vô độ trong khi không thể hiểu được lý do, em đáng nhẽ phải yêu những điều này.
“Nếu em cảm thấy quá mệt mỏi khi chăm sóc nó, chúng ta không thiếu sự trợ giúp.” Anh đứng sau ghế sô-pha với con trai anh, như biểu tượng người nông dân vĩ đại cống hiến cho gia đình và quê hương trên tranh tường Xô-viết. “Chúng ta có thể thuê người.”
“Ồ em quên mất không nói với anh,” em lầm bầm. “Em có một cuộc gọi tham gia hội nghị từ văn phòng. Bọn em đang nghiên cứu mở thêm phần châu Phi. AFRIWAP. Em nghĩ đó là một ý tưởng hay.”
“Ý anh không phải là...” Lời anh nói khiến tai em nóng bừng. “... một người khác sẽ nuôi dạy con trai chúng ta trong khi em đang ở tận Bỉ.”
“Là Công-gô.” Em nói.
“Chúng ta phải cùng làm việc này Eva.”
“Vậy tại sao lúc nào anh cũng đứng về phía con?”
“Nó mới có bảy tuần tuổi, nó còn chưa đủ lớn để tự đứng lên cho bản thân.”
Em tóm tay vào ghế để cố đứng lên. Anh có thể nghĩ là em khóc nhưng nước trong mắt chỉ tự nhiên chảy ra. Em khó nhọc lê chân về phía nhà tắm, tự lấy cho mình cái nhiệt kế vì anh sẽ chẳng buồn giúp em đâu. Khi em quay lại với cái ống cắm trong miệng, có phải do em tưởng tượng không hay là anh thậm chí còn lườm lên trần nhà nhiều hơn?
Em cẩn thận soi vạch thuỷ ngân dưới ánh đèn. “Này, anh xem đi, mắt em hơi mờ.”
Anh lơ đãng cầm cái ống dưới bóng đèn. “Eva, em làm hỏng rồi, chắc là do em để gần bóng đèn quá.” Anh lắc cho ống thuỷ ngân tụt xuống, chọc vào miệng em rồi quay đi thay tã cho Kevin.
Em đến cạnh bàn và tỏ ý muốn làm thay anh. Anh đọc nhiệt kế rồi trừng mắt nhìn em. “Không vui đâu, Eva.”
“Anh đang nói cái gì thế?” Lần này thì em khóc thật. “Làm nóng cái nhiệt kế! Trò đùa ngu xuẩn.”
“Em không làm thế, em chỉ đặt nó dưới lưỡi mình thôi.” “Khỉ thật, Eva. Nó hiện gần 40°C.”
“Ồ.”
Anh nhìn em. Anh nhìn Kevin, một sự giằng xé giữa lòng trung thành. Anh vội vàng bế nó khỏi bàn, đặt vào cũi dứt khoát đến nỗi nó quên mất màn trình diễn ngoan ngoãn của mình mà gào lên với tiếng hét tôi-ghét-thế-giới-này như mọi ngày. Và bằng sự nam tính mà em luôn ngưỡng mộ, anh phớt lờ nó.
“Anh xin lỗi!” Anh dễ dàng nhấc em lên khỏi mặt đất rồi đặt xuống ghế sô-pha. “Em đang sốt cao. Anh phải gọi cho Rhinestein, chúng ta phải đến bệnh viện.”
Em đang mệt, buồn ngủ. Nhưng em nhớ mình đã nghĩ rằng những việc này là hơi quá. Và em tự hỏi liệu mình sẽ có khăn ướt trên trán, nước lạnh và ba viên aspirin bên cạnh, và bác sĩ Rhinestein trên điện thoại hay không nếu nhiệt kế chỉ hiện 38°C.