• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình cần nói chuyện về Kevin
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 32
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 32
  • Sau

Ngày 13, tháng Một, năm 2001

Franklin thân yêu,

Đúng vậy, hôm nay là ngày thứ Bảy thứ hai của tháng và em lại đang báo cáo công việc ở quán cà phê Bagel đây. Em bị ám ảnh bởi hình ảnh người lính gác có nốt ruồi như dính bùn trên mặt, người đã nhìn em bằng ánh nhìn hòa trộn giữa buồn bã và chán ghét. Em cũng cảm thấy như vậy với gương mặt anh ta. Nốt ruồi rất to và phồng, như con ve, lốm đốm và đậm, to dần lên như một loại nấm mọc lên từ một cái gốc nhỏ nên một vài chỗ bắt đầu rủ xuống. Em tự hỏi liệu anh ta có bị ám ảnh quá mức với công việc của mình hay không, làm thêm giờ ở Claverack để tiết kiệm tiền chuyển đi nơi khác hay là anh ta đã nảy sinh một thứ tình cảm gắn kết bệnh hoạn với chúng. Mọi người dường như có thể dần trở nên quen thuộc với mọi thứ, và đó là một khoảng cách rất ngắn từ thích nghi đến gắn bó.

Thực tế, gần đây em đã đọc được rằng có một số phẫu thuật thần kinh được phát triển và gần như có thể chữa được cho những bệnh nhân Parkinson. Những cuộc phẫu thuật thành công đến nỗi nó khiến cho hơn một người được phẫu thuật tự kết liễu cuộc đời mình. Vâng, anh đọc đúng rồi đấy: họ đã tự sát. Không còn run rẩy, không còn những cú vung tay làm đổ rượu trong nhà hàng. Và dĩ nhiên cũng không còn nữa sự thương cảm đau đớn trong ánh mắt của những người lạ mặt, không còn sự ân cần vô bờ bến từ những người bạn đời đầy vị tha. Sự phục hồi dần biến thành tuyệt vọng, xa lánh. Họ không thể chịu đựng được điều đó, cũng giống như tất cả những người khác.

Về hai chúng ta, em bắt đầu lo lắng một cách nửa đùa nửa thật rằng em sẽ dần trở nên gắn bó với sự méo mó của chính cuộc đời mình. Những ngày này, chỉ nhờ sự nổi tiếng mà em hiểu được mình là ai và vai trò của mình trong vở kịch của người khác. Em là mẹ của “một trong những đứa trẻ Columbine đó (và điều đó khiến Kevin đau khổ làm sao khi mà chung cuộc Littleton đã thắng Gladstone). Không điều gì em nói hay làm có thể chệch khỏi thực tế đó, nó khiến người ta muốn ngừng chiến đấu và từ bỏ. Điều đó hẳn lý giải tại sao những bà mẹ giống như em từ bỏ mọi nỗ lực lấy lại cuộc sống mà họ có trước kia, như là một giám đốc tiếp thị hay một kiến trúc sư, và thay vào đó là đứng phát biểu trước quan tòa hoặc dẫn đầu tuần hành Triệu bà mẹ tháng Ba45. Có khi đây chính là ý của Siobhan khi cô ấy nói về “ơn gọi”.

45 Một sự kiện thường được tổ chức vào Ngày của mẹ để yêu cầu chính phủ kiểm soát súng nghiêm ngặt hơn.

Em đã bắt đầu có một sự tôn trọng nhất định đối với sự thật, sự thống trị tuyệt vời của nó về những chuyện đã xảy ra. Những chuyện em đang kể cho anh đây chẳng cần thêm lời giải thích nào vì chúng không có cơ hội áp đảo sự thật tuyệt đối của ngày thứ Năm, và có thể đó chính là phép màu của sự thật mà Kevin đã tìm ra chiều hôm đó. Em có thể giải thích đến khi chán thì thôi, nhưng những gì đã xảy ra chỉ đơn giản là ở ngay đó, chiến thắng như cách ba chiều áp đảo hai chiều. Không quan trọng bao nhiêu sơn mà những kẻ phá hoại đó ném vào cửa sổ của chúng ta, căn nhà vẫn ở đó, và ngày thứ Năm cũng mang lại cảm giác bất biến như vậy, như một món đồ em có thể tô vẽ nhưng bản chất khủng khiếp vẫn duy trì hình dạng của nó, bất kể màu sắc.

Franklin, em sợ rằng mình sẽ từ bỏ khi ngồi trong phòng chờ dành cho người đến thăm ở Claverack hôm nay. Mà em là người chẳng bao giờ phàn nàn về cơ sở vật chất nói chung. Nơi này mới được xây dựng để đáp ứng cho một khu vực mới phát triển nên cũng chưa quá đông đúc. Mái nhà không bị dột, nhà vệ sinh vẫn giật nước được: Trại giam trẻ vị thành niên trên a Wing and a Prayer (JUVIEWAP) mà ổ lưu manh sẽ hăng hái ghi danh. Lớp học ở Claverack mang đến sự giáo dục cơ bản tốt hơn cả những trường trung học thời thượng vùng ngoại ô, những nơi cố nhồi nhét vào chương trình giáo dục những khóa học về văn học Eskimo và Đào tạo Nhận thức về Quấy rối Tình dục. Nhưng bên cạnh màu sắc lạc quẻ như trường mầm non của khu vực thăm nuôi, Claverack rất thô bạo về nghệ thuật, trông như kiểu bị lột trần, khi mà ta vứt hết những thứ lặt vặt trong cuộc sống mới thấy những gì còn lại ít ỏi khủng khiếp làm sao. Bức tường trát xi-măng trắng xóa, tấm lát sàn màu xanh lá không họa tiết, phòng chờ của khách thăm thiếu khủng khiếp những thứ giải trí như là một tấm áp-phích du lịch vô hại về Bê-li-xê hay một cuốn tạp chí Glamour, như để cố tình bác bỏ việc tự lừa dối mình. Đó là một căn phòng không muốn bị nhầm lẫn với thứ gì đó có thể xoa dịu con người ta như là một phòng vé máy bay hay một phòng chờ khám nha khoa. Tấm áp phích đơn độc về phòng chống AIDS đó không xứng để trang trí, nó còn là một lời buộc tội.

Hôm nay có một người phụ nữ da đen trầm lặng ngồi cạnh em, trẻ hơn em nhiều tuổi nhưng chắc chắn là một bà mẹ. Em liên tục hướng ánh nhìn mê hoặc vào mái tóc của cô ấy, được tết thành một vòng xoắn phức tạp và biến mất trong vô tận, sự ngưỡng mộ của em đấu tranh với những suy đoán khắt khe của tầng lớp trung lưu về việc đã bao lâu rồi những bím tóc này không được gội rửa. Sự nhẫn nhịn bình thản của cô ấy là đặc trưng của những người da đen đã quen với căn phòng đó; em đã nghiên cứu về chuyện đó.

Những bà mẹ da trắng của những tên tội phạm, hiếm gặp hơn theo thống kê, thường có xu hướng bồn chồn, hoặc nếu họ đứng im, họ sẽ cứng ngắc, hàm nghiến chặt, đầu như thể bị cố định cho một ca chụp cắt lớp. Nếu ở đó đủ vắng, họ sẽ chọn ngồi xuống chiếc ghế có ít nhất hai chỗ trống mỗi bên. Họ thường mang theo báo, họ không muốn trò chuyện. Ẩn ý rất khô khan là: Thứ gì đó đã xâm phạm vào tính liên tục của không gian và thời gian. Họ không thuộc về nơi này. Thi thoảng em lại phát hiện ra một vài sự phẫn nộ kiểu Mary Woolford, như thể những bà mẹ này đang điên cuồng tìm kiếm quanh phòng một ai đó để kiện. Ngoài ra, em có một sự hiểu biết sâu sắc về điều-không-thể-xảy-ra này, họ không muốn tin vào sự thật đến nỗi điều đó hiện lên như một hình ảnh ba chiều trong phòng chờ về một vũ trụ song song nơi mà Johnny hay Billy đang từ trường về nhà đúng giờ như mọi ngày, một buổi chiều bình thường như bao ngày khác mà chúng sẽ uống sữa, ăn bánh cuộn Ho-Hos và làm bài tập về nhà. Những người da trắng chúng ta bám vào một cảm giác vĩnh cửu về quyền lợi đến mức ngay cả khi mọi thứ trở nên tồi tệ, ta cũng không thể từ bỏ bản sao vui vẻ một cách ngớ ngẩn của một thế giới mà ta xứng đáng, nơi mà cuộc đời thật tươi đẹp.

Trái lại, những bà mẹ da đen sẽ ngồi cạnh một người khác kể cả khi căn phòng vắng tanh. Không phải lúc nào họ cũng nói, nhưng có một sự khẳng định tình bằng hữu trong cái cách họ gần gũi, một tinh thần đồng đội khiến em liên tưởng đến một câu lạc bộ sách mà tất cả các thành viên đều đang cùng nhau kinh qua một tác phẩm kinh điển dày cộp đầy gian nan. Họ dường như chẳng bao giờ bực tức, hay oán giận, hay ngạc nhiên khi có mặt ở đây. Họ chỉ ngồi trong cùng một thế giới mà họ vẫn luôn ngồi. Và người da đen dường như có thể nắm bắt một cách tinh vi hơn rất nhiều bản chất của sự việc đúng lúc. Vũ trụ song song chỉ là khoa học viễn tưởng, và Johnny, hay Jamille nhỉ, đã không về nhà chiều hôm đó, phải không? Hết chuyện.

Tất cả đều như nhau, mọi người ngầm tự hiểu rằng trong phòng này không ai cố tìm hiểu về hành vi sai trái đã đẩy chàng trai của người bạn ngồi chung với mình vào đây. Mặc dù những câu hỏi mang tính xâm phạm đôi khi là biểu hiện công khai nhất của một gia đình, nhưng trong căn phòng đó bọn em cùng thống nhất một quan điểm phù hợp rằng những thứ trên tờ Thời báo hay Bưu điện là việc riêng tư. Ồ, thỉnh thoảng cũng có một bà mẹ sẽ rỉ tai người hàng xóm rằng Tyrone chưa bao giờ ăn trộm cái máy nghe đĩa đó hay nó chỉ cầm hộ bạn một ki-lô-gram, nhưng rồi một bà mẹ sẽ bắt gặp ánh mắt của một bà mẹ khác và nhoẻn miệng cười và rồi ngay sau đó quý bà Chúng-ta-sẽ-đấu-tranh-cho-công-lý sẽ im như thóc. (Kevin đã nói với em rằng trong đó, không đứa nào nói rằng chúng vô tội. Thay vào đó, chúng bàn luận về những tội ác ghê tởm mà chúng chưa bao giờ bị phát giác. “Nếu một nửa số thằng khốn đó nói thật…” Kevin thao thao hồi tháng trước, “thì hẳn cả đất nước này đã chết hết rồi”. Thực tế, Kevin đã hơn một lần xác nhận về ngày thứ Năm và những đứa mới vào không tin nó: “Còn tôi là Sidney Poitier46 đây bạn!”. Và dĩ nhiên là nó đã kéo một kẻ hoài nghi như vậy đến thư viện để xác thực lời giới thiệu về mình trên một trang Tuần san.)

46 Nam diễn viên da đen đầu tiên đoạt giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc nhất.

Em đã bị ấn tượng bởi sự thảnh thơi của cô gái trẻ này. Thay vì ngồi cậy móng tay hoặc lọc bỏ những hóa đơn cũ trong túi xách, cô ấy ngồi thẳng, hai tay đặt trên đùi. Cô ấy nhìn thẳng về phía trước, đọc tấm áp phích phòng chống AIDS có lẽ cả trăm lần. Em mong là điều này nghe không có vẻ phân biệt chủng tộc, thời nay em còn chẳng biết điều gì có thể mang tính xúc phạm nữa, nhưng người da đen dường như cực kỳ giỏi chờ đợi, như thể họ được thừa hưởng gen kiên nhẫn cùng với những tế bào hình liềm. Em thấy ở châu Phi cũng vậy: hàng tá người châu Phi đứng, ngồi bên vệ đường đợi xe buýt hay thậm chí kinh khủng hơn, chẳng chờ đợi một thứ gì cụ thể và họ chẳng bao giờ tỏ ra bồn chồn hay khó chịu. Họ không bứt cỏ và nhai chúng bằng răng cửa, họ cũng không vẽ những bức tranh vô nghĩa bằng đầu mũi đôi dép nhựa trên nền đất sét. Họ đứng yên, và sẵn sàng. Đó là năng lực sống còn, khả năng chỉ đơn giản là tồn tại mà em hiếm khi thấy được ở những người được giáo dục tốt.

Có một lúc cô ấy đứng dậy và đi đến chỗ máy bán kẹo ở góc phòng. Hẳn là đèn báo sai số tiền đã bật lên nên cô ấy quay lại và hỏi em đổi tiền lẻ. Em cúi xuống kiểm tra tất cả túi áo khoác, mọi ngăn trong túi xách của em, trong khi em đang gom tất cả những đồng xu của mình lại thì chắc cô ấy đang ước rằng chưa bao giờ hỏi em. Giờ em cũng ít gặp khó khăn khi giao tiếp với người lạ, em vẫn thích đặt vé máy bay ở phòng bên trong Travel R Us hơn, nhưng cuộc trò chuyện nhỏ đó khiến em phát hoảng. Có lẽ em đã quá thèm muốn việc có một chút ảnh hưởng tích cực lên cuộc đời ai đó, kể cả điều đó chỉ là một thanh kẹo Mars. Ít nhất thì việc đổi tiền kỳ quặc này cũng phá tan tảng băng, và có vẻ như việc trả cho những gì em đã làm quá rắc rối, cô ấy bắt đầu nói chuyện khi quay lại chỗ ngồi.

“Tôi đáng nhẽ nên mang trái cây cho thằng bé.” Cô ấy liếc nhìn đầy nuối tiếc thanh kẹo trên tay mình. “Nhưng trời ơi, chị biết đấy nó sẽ chẳng bao giờ ăn đâu.”

Bọn em nhìn nhau đồng cảm, cùng lấy làm ngạc nhiên là những người phạm tội khi trưởng thành vẫn hảo ngọt như những cậu bé.

“Con trai tôi bảo rằng đồ ăn ở Claverack như cám lợn.” Em thú nhận.

“Ôi, Marlon của tôi cũng phàn nàn suốt. Nó bảo những thứ đó không dành cho người. Chị có biết là họ cho diêm tiêu vào bánh mì cuộn không?” (Những lời đồn thổi trong cái trại hè tồi tệ này hẳn bắt nguồn từ sự phù phiếm của tuổi thiếu niên: một sự thôi thúc ham muốn tình dục mạnh mẽ của tuổi nổi loạn đến nỗi phải kìm hãm nó bằng những cách lén lút.)

“Không, ‘cám lợn’ là tất cả những gì nó nói với tôi,” em nói. “Nhưng Kevin chưa bao giờ hứng thú với đồ ăn. Khi nó còn nhỏ, tôi luôn lo sợ rằng con sẽ bị đói, cho đến khi tôi phát hiện ra là nó sẽ ăn miễn là tôi đừng để ý đến nó. Nó không thích bị nhìn thấy rằng mình cần ăn, như thể đói là dấu hiệu của sự yếu đuối. Vậy nên tôi để một miếng bánh kẹp ở nơi tôi chắc chắn rằng nó có thể nhìn thấy, và bỏ đi. Như cách cho một con chó ăn vậy. Tôi trốn trong góc nhà nhìn nó nhồi vào mồm hai hay ba miếng, ngó nghiêng xung quanh, đảm bảo rằng không có ai trông thấy. Nó bắt gặp tôi lén nhìn một lần, nó vứt cái bánh đi. Nó nhè miếng bánh lẫn phô-mai đang nhai dở và trét lên cửa kính. Miếng bánh dính luôn ở đó. Tôi mặc kệ miếng bánh ở đấy lâu nhất có thể. Tôi chẳng hiểu tại sao.”

Đôi mắt người bạn đồng hành của em, trước đó thì tỉnh táo, giờ đã mờ đi. Cô ấy chẳng có lý do gì để quan tâm đến việc ăn uống của con trai em và giờ nhìn cô ấy như thể đang hối hận vì đã bắt đầu cuộc trò chuyện. Em xin lỗi, Franklin, chỉ tại vì em đã có một chuỗi ngày gần như chẳng trò chuyện với ai, và khi em bắt đầu nói, nó cứ tuôn ra thôi, như bị nôn vậy.

“Dù sao đi nữa,” em tiếp tục với một chút tính toán hơn. “Tôi đã cảnh báo Kevin rằng khi nó chuyển đến cơ sở dành cho người trưởng thành thì thức ăn sẽ còn tệ hơn.”

Đôi mắt người phụ nữ chau lại. “Con trai chị không được thả khi nó mười tám ư? Thật đáng tiếc.” Xung quanh những chủ đề cấm kỵ trong phòng chờ, ý của cô ấy là: Nó chắc hẳn đã làm điều gì khủng khiếp lắm.

“New York khá là khoan dung với tội phạm dưới mười sáu tuổi.” Em nói. “Nhưng kể cả ở đây, trẻ con cũng phải ngồi tù ít nhất năm năm cho tội giết người, đặc biệt khi đó là bảy đứa học sinh trung học và một giáo viên tiếng Anh.” Em nói thêm khi cô ấy đang cố sắp xếp cảm xúc trên gương mặt. “Ồ và một nhân viên bếp ăn nữa, có lẽ Kevin có cảm xúc mạnh mẽ với đồ ăn hơn là tôi nghĩ.”

Cô ấy thì thào. “À... vâng... vâng.”

Em có thể nghe thấy tiếng cuộn băng trong đầu cô ấy đang tua lại, vì cô ấy đang cố gắng nắm bắt mọi thứ em nói mà nãy giờ cô ấy chỉ nghe bâng quơ. Giờ cô ấy có lý do để quan tâm đến khẩu vị bí mật của con trai em, về sở thích “âm nhạc” của nó với những âm thanh không có giai điệu kết hợp ngẫu nhiên bởi máy tính, về trò chơi tài tình mà nó đã thực hiện với bài tiểu luận ở trường với toàn bộ là những từ chỉ có ba chữ cái. Những gì em vừa làm, nó là một loại mánh khóe tiêu khiển. Đột nhiên cô ấy cạn lời để nói, không phải vì cô ấy chán câu chuyện của em mà là vì cô ấy ngại. Nếu cô ấy có thể gạt bỏ những chi tiết ít ỏi và đầy tổn thương trong câu chuyện của em, cô ấy có thể truyền đạt nó qua cuộc điện đàm với chị gái mình ngày hôm sau thay cho một giỏ quà Giáng sinh.

“Thật buồn cười cái cách mà ‘KK’ lại để chỉ ‘Krispy Kreme’.” “Chuyện đó hẳn là…” Cô ấy ngập ngừng. Em nhớ lại lần mình được miễn phí nâng lên khoang hạng nhất, em ngồi ngay cạnh Sean Connery47. Lưỡi xoắn lại, em chẳng thể nghĩ được điều gì khác để nói ngoài: “Anh là Sean Connery”, thứ mà anh ta chắc chắn đã biết rồi.

47 Một nam diễn viên nổi tiếng.

“Chuyện đó hẳn là khó khăn lắm,” cô ấy lắp bắp.

“Vâng.” Em nói. Em chưa từng gây được sự chú ý với cô ấy, giờ thì có rồi. Em có thể kiểm soát những câu chuyện phiếm tuôn trào đã khiến em xấu hổ vài phút trước. Em có thể ngồi thoải mái, thực sự thoải mái về mặt thể chất theo nghĩa đen trên chiếc ghế màu cam. Bổn phận phải bày tỏ sự quan tâm đến hoàn cảnh khốn khổ của con trai của người phụ nữ trẻ này dường như biến mất. Giờ thì em cảm thấy thanh thản, như chính mình mới là người được tán tỉnh. Em thấy mình gần như một nữ hoàng,

“Con trai chị?” Cô ấy bối rối. “Thằng bé ổn chứ?” “Ồ, Kevin yêu nơi này.”

“Sao mà thế được? Marlon luôn nguyền rủa nơi này.”

“Kevin có rất ít sở thích,” em nói. “Nó chẳng bao giờ biết phải làm gì với bản thân. Thời gian sau giờ học và những ngày cuối tuần trôi qua một cách nhàm chán và thừa thãi. Bùm! Giờ thì một ngày của nó đã được kiểm soát chặt chẽ đúng như ý muốn từ bữa sáng đến khi tắt đèn. Và giờ nó sống trong một thế giới mà bực tức cả ngày dài là điều bình thường. Tôi nghĩ thậm chí nó còn hiểu được ý nghĩa của cộng đồng,” em thừa nhận. “Có thể không phải là với những người bạn tù của nó mà là với sự hài hước rất phổ biến với chúng, sự ghê tởm, thù địch, dè bỉu, như những người bạn cũ.”

Những người thăm tù khác rõ ràng là đang nghe lén, vì họ liếc mắt về phía ghế của bọn em với chuyển động như lưỡi của một con thằn lằn phàm ăn, nhanh nhẹn. Có thể là em hạ thấp giọng, nhưng em thích việc có khán giả.

“Khi nhìn lại những việc đã làm, nó có cảm thấy... chị biết đấy?” “Ăn năn?” Em gợi ý một cách hài hước. “Nó có thể hình dung ra điều gì để hối tiếc? Giờ nó đã được người ta biết đến, chẳng phải vậy sao? Và nó đã tìm thấy chính mình như cái cách mà người ta hay nói thời tôi còn trẻ. Giờ nó không còn phải lo nghĩ xem mình là một kẻ gàn dở hay lập dị, một đứa học gạo hay một đứa ưa thể thao hay một tên mọt sách. Nó còn chẳng cần phải lo dù nó có đồng tính. Bởi vì nó là một kẻ sát nhân. Không có gì phải nghi ngờ nữa. Và hơn hết…” em hít một hơi dài, “nó có thể rời xa khỏi tôi”.

“Nghe có vẻ như trong cái rủi vẫn có cái may.” Cô ấy giữ mình cách em một hay hai xen-ti-mét, khoảng cách gần nhất mà một phụ nữ sốt sắng trò chuyện có thể có, nhìn em ở một góc mà chỉ lệch với đường thẳng khoảng ba mươi độ. Sự di chuyển tỉ mỉ này gần giống như là một thí nghiệm khoa học mà em là một mẫu vật. “Như là, chị cũng thoát khỏi nó.”

Em ra hiệu bất lực trong phòng chờ thăm tù. “Không hẳn.” Liếc nhìn chiếc đồng hồ của mình, cô ấy thể hiện rõ việc nhận thức rằng đây là cơ hội có một không hai, cô ấy phải hỏi câu hỏi vẫn luôn muốn hỏi mẹ của KK trước khi quá muộn. Và em có thể đoán trước được điều sắp xảy tới. “Chị có bao giờ nghĩ xem điều gì đã khiến nó... chị có bao giờ nghĩ tại sao không?”

Đó là điều mà tất cả bọn họ muốn hỏi, anh trai em, bố mẹ anh, đồng nghiệp của em, người ghi chép tài liệu, người tư vấn tâm thần của Kevin, người thiết kế trang web Glastone_tàn_sát.com, mặc dù thật thú vị là mẹ em lại chưa bao giờ hỏi. Sau khi em tôi luyện mình để chấp nhận lời mời cà phê rất tử tế của Thelma Corbitt vài tuần sau đám tang con trai cô ấy (mặc dù cô ấy chưa bao giờ hỏi thẳng, cô ấy dành phần lớn thời gian để đọc cho em nghe những bài thơ của thằng bé và cho em xem hàng trăm bức hình chụp vở kịch ở trường của Denny), nó bật ra khỏi cô ấy trong từng nhịp thở, nó túm lấy em: sự khao khát muốn hiểu được lý do gần như khiến thần kinh trở nên cuồng loạn. Giống như tất cả những bậc cha mẹ khác, cô ấy đã tuyệt vọng bởi lo ngại rằng những mảnh vụn của toàn bộ mớ hỗn độn máu me mà cả hai bọn em sẽ cùng góp nhặt cho đến cuối đời là không cần thiết. Cũng có thể. Ngày thứ Năm là một môn tự chọn, cũng như lớp đồ họa in ấn hay lớp tiếng Tây Ban Nha. Nhưng sự quấy rầy không ngừng này, sự nài nỉ tại sao, tại sao, tại sao này thật cực kỳ không công bằng. Tại sao, sau tất cả những gì mà em đã phải trải qua, em còn phải chịu thêm trách nhiệm cho việc tạo ra sự hỗn loạn của họ ư? Việc em phải chịu đựng gánh nặng của sự thật mà không mang trên vai trách nhiệm vô lý cho những gì họ muốn nói là không đủ hay sao? Người phụ nữ trẻ ở Claverack không có ý xấu, em chắc chắn vậy, nhưng câu hỏi quá quen thuộc của cô ấy khiến em cảm thấy tức giận.

“Tôi nghĩ rằng đó là lỗi của mình,” em ngập ngừng nói. “Tôi không phải một bà mẹ tốt. Lạnh lùng, hay phán xét, ích kỷ. Cô có thể nghĩ rằng tôi vẫn chưa hoàn toàn trả giá.”

“Chà, vậy…” Cô ấy chậm rãi nói, sát hẳn lại và nhìn thẳng vào mắt em. “Chị có thể đổ lỗi cho mẹ chị, và bà ấy đổ lỗi cho mẹ của bà ấy. Sau cùng thì nó cũng sẽ trở thành lỗi của một ai đó, một người đã chết.”

Thản nhiên với tội lỗi của mình, nắm nó trong tay như một cô bé với con thỏ nhồi bông, em đã không làm theo cô ấy.

“Greenleaf?” Người cai ngục hét lên. Người bạn đồng hành của em nhét chiếc kẹo vào túi, rồi đứng dậy. Em có thể thấy cô ấy đang tính toán cho đủ thời gian để hỏi một câu và nghe câu trả lời hay chia sẻ một chút suy nghĩ trước khi chia tay. Với Sean Connery48, tình thế như vậy luôn cực kỳ khó xử, liệu nên hỏi thêm thông tin hay bày tỏ. Em có ấn tượng rằng cô ấy sẽ chọn vế sau.

48 Người đóng vai James Bond trong phim Never Say Never Again.

“Luôn luôn là lỗi của những bà mẹ, phải không?” Cô ấy nói nhỏ, nhặt áo khoác của mình lên. “Thằng bé đó hư hỏng vì mẹ nó suốt ngày say xỉn, hoặc cô ta nghiện ngập. Cô ta để cho nó tự tung tự tác, không dạy cho nó biết đúng sai. Cô ta chẳng bao giờ ở nhà khi nó tan học. Chẳng ai bảo là vì bố nó say xỉn, hay là bố nó không ở nhà khi nó tan học. Và chẳng bao giờ có ai nói rằng một vài đứa trẻ chỉ tự nó xấu xa. Chị không tin vào những thứ sáo rỗng cũ rích đó chứ. Chị không để họ trút lên đầu mình tất cả những chuyện giết chóc đó chứ.”

“Loretta Greenleaf!”

“Rất khó để làm một bà mẹ. Chẳng ai thông qua một bộ luật yêu cầu bạn có thai thì bạn phải trở nên hoàn hảo. Tôi chắc rằng chị đã làm tốt nhất có thể. Chị ở đây, trong cái bãi rác này, vào một buổi chiều thứ Bảy đẹp trời? Chị vẫn đang cố gắng. Giờ hãy chăm sóc bản thân đi chị gái. Và đừng nói những thứ vô nghĩa đó nữa.”

Loretta Greenleaf nắm tay em thật chặt. Mắt em ầng ậng nước. Em cũng siết tay cô ấy, chặt và lâu đến nỗi có thể khiến cô ấy sợ rằng em sẽ không bao giờ buông ra.

Ôi anh yêu, cà phê này nguội hết cả rồi.

(Chín giờ tối)

Giờ khi đã quay về căn hộ của mình, em cảm thấy xấu hổ về bản thân. Em không cần phải giới thiệu em là mẹ Kevin. Loretta Greenleaf và em đã có thể có một cuộc trò chuyện đơn giản về đồ ăn ở Claverack như là : Ai nói diêm tiêu ngăn chặn ham muốn tình dục? Mà thậm chí diêm tiêu49 là cái quái gì chứ?

49 Kali nitrat hay còn gọi là diêm tiêu, là hợp chất hóa học được sử dụng để làm một số loại ngòi nổ trong quá khứ.

Em định viết “Em không biết chuyện gì đã xảy ra với mình,” nhưng em sợ là không phải vậy, Franklin à. Em đang khao khát một người bạn đồng hành, và em cảm thấy sự hứng thú với người phụ nữ da trắng lắm mồm của cô ấy đã giảm. Em có thể thu hút cô ấy nếu muốn, và em đã đạt được điều đó.

Ngay sau sự việc ngày thứ Năm, dĩ nhiên điều duy nhất em muốn làm là chui xuống cống và đậy nắp lại. Em ước rằng không ai để ý đến mình, như anh trai em, hoặc bị lãng quên, nếu nó chỉ đơn giản là mong rằng mình đã chết. Em chưa từng nghi ngờ giác quan đặc biệt của mình. Nhưng có một nghị lực kiên cường thật kinh khủng. Như em đã nói, em đang đói và thèm thứ gì đó hơn là thịt gà. Em ước mình có thể quay trở lại những ngày ngồi bên cạnh những người xa lạ và gây ấn tượng khó phai với họ vì em đã điều hành xuất sắc một công ty hoặc đã đi đến nhiều địa điểm ở Lào. Em luyến tiếc quãng thời gian mà Siobhan vỗ tay và thốt lên đầy thán phục rằng cô ấy đã dùng a Wing and a Prayer cho chuyến du ngoạn châu Âu của mình. Đó là sự nổi tiếng mà em đã chọn cho mình. Nhưng tất cả chúng ta đều phải xoay sở, và ta dùng những gì cuộc đời ném vào tay ta. Gạt bỏ công ty, sự giàu có, người chồng đẹp trai, em hạ mình xuống con đường rõ ràng khó khăn để trở thành một người nổi tiếng.

Mẹ của Kevin Khatchadourian hạ đẳng chính là em hiện tại, một thứ danh tiếng mà chung quy lại cũng chỉ là thêm một thành tích nhỏ cho con trai chúng ta. AWAP hay cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ còn là phần ghi chú, chỉ đáng quan tâm khi họ muốn làm sáng tỏ vai trò người mẹ của đứa trẻ mà ai cũng ghét. Sâu thẳm trong lòng, đánh mất bản chất con người mình có lẽ là thứ em hối hận nhất. Trong nửa đầu cuộc đời, em là tạo tác của chính mình. Từ một tuổi thơ khép kín, khắc khổ em hình thành nên một con người cởi mở, nhiệt huyết, một người có thể học cả tá ngôn ngữ và tiên phong khám phá những con đường xa lạ nhất ở bất cứ thành phố nước ngoài nào. Khái niệm chúng ta là sản phẩm nghệ thuật của chính mình là một thứ rất Mỹ mà anh sẽ hào hứng chỉ ra. Giờ viễn cảnh của em là một thứ gì đó rất Âu: em là một mẩu quá khứ của những người khác, một sinh vật trong một sự kiện lịch sử. Chính Kevin là người đã thực hiện nhiệm vụ Mỹ hung hăng, lạc quan này để thức tỉnh chính nó.

Có thể em bị ám ảnh bởi những câu hỏi tại sao, nhưng em tự hỏi liệu mình có thực sự cố gắng trả lời câu hỏi đó không. Em không chắc rằng mình muốn hiểu Kevin, để thấy một cái giếng đen tối đến mức từ sâu thẳm trong đó, những gì nó làm đều có lý do. Tuy nhiên từng chút từng chút, từ những cú đá và những tiếng gào hét, em đã biết rằng ngày thứ Năm sẽ xảy ra. Mark David Chapman50 giờ nhận được thư của người hâm mộ còn John Lennon thì không; Richard Ramirez, “sát thủ bóng đêm”, có thể hủy hoại cơ hội có một cuộc hôn nhân hạnh phúc của cả tá phụ nữ nhưng vẫn nhận được cả đống lời đề nghị kết hôn kể cả khi hắn ở trong tù. Ở một đất nước mà không thể phân biệt được sự khác biệt giữa danh tiếng và tai tiếng, cái sau còn có thể đạt được một cách dễ dàng hơn. Vì thế em không còn ngạc nhiên bởi tần suất của những vụ xả súng bằng súng tự động, nhưng sự thật không phải mọi công dân đầy tham vọng ở Mỹ đều đứng trên nóc trung tâm thương mại với những băng đạn trang bị sẵn. Những gì Kevin làm vào ngày thứ Năm và những gì em làm trong phòng chờ ở Claverack hôm nay chỉ khác nhau về quy mô. Thèm muốn cảm thấy mình đặc biệt, em đã rắp tâm tìm kiếm sự chú ý từ một ai đó, kể cả có phải dùng đến vụ sát hại chín người.

50 Hung thủ ám sát thành viên ban nhạc The Beatles, John Lennon.

Chẳng có bí ẩn nào về việc tại sao Kevin lại ở Claverack. Từ khi còn ở trường trung học nó đã luôn bất mãn và quá cạnh tranh; tranh giành vị trí tên rác rưởi cau có ở cuối lớp với những đứa khác. Giờ nó đã tìm được cho mình một chỗ thích hợp.

Và giờ nó có đồng bọn ở Littleton, Jonesboro, Springfield.

Trong hầu hết trường hợp, sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi gặp những người có khả năng tương đương. Giống như một danh nhân, nó rất khó tính với bạn đồng trang lứa, đòi hỏi ở chúng những tiêu chuẩn khắt khe: Nó chế nhạo những đứa sướt mướt giống như Michael Carneal ở Paducah, kẻ đã chối tội, kẻ đã hạ thấp hành động của mình mà tỏ ra hối tiếc một cách tuyệt vọng. Nó ngưỡng mộ những kẻ có điểm nhấn, chẳng hạn như cái bẻ tay của Evan Ramsey khi hắn nhắm vào lớp toán của mình ở Bethyl, Alaska. “Điều này chắc hẳn sẽ đánh bại môn đại số chứ?” Nó đánh giá cao những kế hoạch liều lĩnh, Carneal đã dùng nút tai chống ồn trước khi ngắm bắn bằng khẩu Luger 5.6 ly; Barry Loukaitis ở Moses Lake được mẹ đưa đi những bảy cửa hàng mới tìm được chiếc áo khoác đen dài vừa đủ để giấu khẩu súng trường. Kevin cũng có tài châm biếm khá tinh tế, luôn trân trọng sự thật rằng người giáo viên mà Loukaitis bắn chỉ vừa mới viết trên bản báo cáo thành tích của học sinh xuất sắc này, “Thật là một niềm vinh hạnh khi có mặt trong lớp học này”. Như mọi chuyên gia khác, nó khinh miệt những kẻ bất tài điển hình như John Sirola, thằng nhóc mười bốn tuổi ở Redlands, California, người đã thổi tung mặt thầy hiệu trưởng năm 1995, rồi hụt chân khi chạy trốn khỏi hiện trường và tự bắn chết mình. Và theo cách giống như hầu hết những chuyên gia uy tín, Kevin tỏ ra đa nghi với những kẻ mới nổi cố gắng chen chân vào chuyên môn của nó với chỉ chút ít năng lực, cứ xem sự tức giận của nó với thằng nhóc mười ba tuổi đó. Rất khó để gây ấn tượng với nó.

Như cách John Updike hạ thấp Tom Wolfe chỉ là một kẻ viết văn thuê, Kevin giữ một sự khinh bỉ đặc biệt đối với Luke Woodham, “tên gàn dở” đến từ Pearl, Mississippi. Nó đánh giá cao sự tập trung tư tưởng nhưng coi thường những bài giảng đạo đức sáo rỗng. Cũng như những tên xả súng ở trường học muốn nổi tiếng khác, việc giữ bí mật hành động rất khó, và hiển nhiên là trước khi hạ gục cô bạn gái nhỏ bé bằng một khẩu súng ngắn, Woodham đã không thể tự ngăn mình đưa một mẩu giấy cho một người bạn cùng lớp mà trong đó ghi rằng (anh nên được nghe giọng con trai mình rú lên): “Tao giết bởi vì những người giống như tao bị ngược đãi mỗi ngày. Tao muốn cho xã hội này thấy rằng khi chúng muốn đẩy ngã bọn tao, bọn tao sẽ đáp trả”. Kevin phỉ báng màn khóc lóc giả tạo của Woodham, nước mũi ròng ròng chảy xuống bộ đồ liền màu cam khi đang lên sóng trực tiếp Tin nổi bật là chẳng ngầu chút nào: “Bản thân tôi, tôi không phải một kẻ ngỗ ngược! Tôi không xấu xa, tôi có trái tim và có cảm xúc!”. Woodham đã thừa nhận tự khởi động bằng việc túm lấy con chó của mình, Sparky, nhét nó trong một cái túi ni-lông, tra tấn nó với chất lỏng trong bật lửa và nghe nó rên rỉ trước khi ném nó xuống ao. Sau khi suy ngẫm một cách cẩn thận, Kevin kết luận rằng tra tấn động vật là một hành động sáo rỗng. Cuối cùng, nó đặc biệt lên án cách mà sinh vật hay khóc lóc này muốn rũ bỏ trách nhiệm bằng việc đổ lỗi cho một giáo phái sa- tăng. Bản thân câu chuyện đó đã là rất hoang đường, nhưng Kevin từ chối đứng chung với một kẻ tạo ra tác phẩm không chỉ thiếu phẩm giá mà còn phản bội lại bè lũ.

Em rất hiểu anh, anh yêu, anh rất thiếu kiên nhẫn. Không quan tâm đến phần mào đầu, anh chỉ muốn biết chuyến viếng thăm như thế nào: tâm trạng của con thế nào, trông nó ra sao, nó đã nói những gì. Được thôi. Nhưng đừng đổ lỗi cho em, là anh yêu cầu mà.

Nó trông đủ khỏe. Mặc dù vẫn còn chút tia màu xanh dương dưới da nó, những mạch máu khỏe mạnh ở thái dương truyền đạt một gợi ý đầy hứa hẹn về sự dễ bị tổn thương. Nếu nó cố tình cạo đầu thành những mảng không đều phát khiếp, em coi đó là sự thể hiện việc có quan tâm đến ngoại hình. Nụ cười nửa miệng thường trực trên khóe miệng bên phải của nó khắc một dấu phẩy vĩnh viễn lên má nó, vẫn hằn lên ngay cả khi nó chuyển sang một cái bĩu môi cau có. Không có dấu phẩy nào ở bên má trái, sự mất cân xứng gây khó chịu.

Giờ không còn xuất hiện những bộ đồ liền màu cam phổ biến ở Claverack. Vậy nên Kevin thoải mái theo đuổi phong cách ăn mặc khó hiểu mà nó đã bắt đầu ở tuổi mười bốn, có lẽ được sáng tạo ra để đối nghịch với phong cách thời trang quá khổ đang thịnh hành: những chiếc khăn tam giác của du côn phố Harlem, quần lót lộ ra ngoài, đi lững thững trên phố khi thắt lưng của chiếc quần bò như có thể dựng một chiếc buồm nhỏ rung rinh trước đầu gối. Nhìn vào cách Kevin ăn mặc, em có thể đoán liều ý nghĩa của chúng.

Lần đầu nó phô trương kiểu thời trang này hồi năm lớp tám, em đã nghĩ rằng chiếc áo phông đang siết vào nách nó và hằn lên ngực nó là chiếc áo cũ yêu thích mà nó không đành lòng vứt đi, và em đã đi ra ngoài để tìm đúng mẫu áo đó với cỡ lớn hơn. Nó chẳng bao giờ động vào. Giờ thì em hiểu vì sao những chiếc quần yếm có khóa kéo không chặt được lựa chọn cẩn thận. Tương tự như những chiếc áo gió mà cổ tay bị kéo cao lên, những chiếc cà-vạt lủng lẳng năm xen-ti-mét trên thắt lưng khi chúng ta ép nó phải ăn mặc “đẹp”, và cả những chiếc sơ mi hở giữa các nút khuy căng phồng.

Có thể nói rằng, những bộ quần áo bé tí của nó cũng khá thuyết phục. Khi mới thoạt nhìn, trông nó thật nghèo khổ, và em đã nhiều lần ngăn mình nhận xét rằng “người ta sẽ nghĩ” chúng ta không đủ tiền để mua cho con trai một chiếc quần bò mới; thanh thiếu niên thường hay đưa ra tín hiệu cảnh báo rằng bố mẹ chúng đã bị địa vị xã hội nuốt chửng. Nhưng khi quan sát thật kỹ, những món đồ chật ních của nó toàn là những nhãn hiệu thiết kế, khiến cho việc giả vờ nghèo khổ giống như một cái nháy mắt giễu cợt. Ý nghĩ về một đống quần áo bị co lại vì giặt ở nhiệt độ cao có vẻ vô lý một cách hài hước, và chiếc áo khoác cỡ trẻ em dính chặt vào người thi thoảng kéo hai cánh tay nó lên như một con khỉ đầu chó ngu ngốc. (Nó gần như nhét mình vào cái khuôn của một tên hề, nhưng chẳng có ai em từng nói chuyện thấy con trai chúng ta buồn cười.) Cách mà gấu quần bò của nó tớn lên trông như một tên nhà quê ngớ ngẩn, phù hợp với trò giả ngu yêu thích của nó. Những thứ đó không chỉ là ảnh hưởng từ phong cách Peter Pan, một kẻ từ chối trưởng thành, mặc dù em không hiểu tại sao nó lại cứ bám lấy việc làm một đứa trẻ trong khi suốt tuổi thơ nó dường như lạc lối, lang thang giống như cách em bị bối rối bởi căn nhà khổng lồ của chúng ta.

Chính sách thử nghiệm của Claverack cho phép các tù nhân mặc quần áo bình thường đã giúp Kevin được tự do tái hiện gu thời trang của mình. Trong khi những thằng nhóc đường phố của New York lượt thượt trong những bộ đồ ngoại cỡ nhìn từ xa trông như trẻ tập đi, thì cách ăn mặc ấn tượng của Kevin tạo một cảm giác đối nghịch khiến nó trông to lớn hơn, trưởng thành, nổi bật. Một trong số những nhân viên tư vấn tâm thần của Kevin đã buộc tội em khi chọn cho nó một phong cách làm suy nhược sự phát triển tính dục mạnh mẽ của nó: đũng quần Kevin bó chặt khiến tinh hoàn nó hằn lên, và hình in trên áo phông khiến núm vú nó lồ lộ ra. Cũng có thể lắm. Chắc chắn rằng ống tay áo bó chặt, cổ áo căng hết cỡ, và thắt lưng buộc chặt lấy cơ thể nó khiến em nghĩ đến trò trói nô lệ.

Trông nó không thoải mái, nhưng trong bộ trang phục như vậy thì việc đó là hợp lý. Kevin đang khó chịu, quần áo nhỏ xíu thể hiện đúng sự gò bó mà nó đang cảm nhận. Nhìn bộ trang phục nghẹt thở của nó với chiếc áo vải thô bị kéo căng nhưng phần thắt lưng thì bó chặt còn cổ áo thì cứa vào da thịt. Sự khó chịu này dẫn đến sự khó chịu khác, dĩ nhiên, và điều đó cũng là một phần trong kế hoạch. Thi thoảng em nhận ra mình chỉnh lại quần áo khi ở cạnh nó, kín đáo kéo lại đường may kẹt giữa hai mông hay thả thêm một chiếc khuy áo.

Đưa mắt liếc nhanh qua những bàn bên cạnh, em phát hiện ra một số bạn tù của nó đã bắt đầu bắt chước phong cách ăn mặc lệch lạc của Kevin. Em nghĩ rằng những chiếc áo phông có kích cỡ nhỏ bất thường đã trở thành một món đồ quý giá, và chính Kevin cũng đã tự mãn nói rằng lũ con gái đang bị cướp quần áo. Nó có thể chế giễu những đứa bắt chước, nhưng nó có vẻ hài lòng khi đã khởi đầu một xu hướng mới. Nếu nó bận tâm đến phong cách riêng như vậy hai năm về trước, thì bảy học sinh mà nó nhắm vào chắc hẳn đang chuẩn bị nộp đơn vào đại học theo đúng nguyện vọng của chúng.

Dù sao thì... ngày hôm nay ư? Nó lững thững đi vào phòng thăm nuôi trong một chiếc quần vải chắc hẳn là của bọn con gái, vì em không nhận ra nó trong số những đồ em đã mua. Chiếc áo kẻ ca- rô chỉ được cài hai khuy giữa, phô ra cả xương sườn của nó. Ngay đến đôi giày của nó cũng quá nhỏ, nó phải dẫm vào gót giày dưới chân. Nó có thể không muốn nghe em nói điều này, nhưng nó rất có duyên. Có chút uể oải trong cách nó di chuyển, hay cách nó nói chuyện. Và nó cũng luôn có kiểu đi xiên đó: nó đi theo chiều ngang, như một con cua. Hướng phần hông bên trái lên trước như thể một siêu mẫu trên sàn catwalk. Nếu nó nhận ra rằng em thấy nó có chút ẻo lả, nó hẳn sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Nó đánh giá cao sự mơ hồ, nó thích để người ta phải đoán.

“Thật là ngạc nhiên,” nó nói trôi chảy, kéo ghế ra. Chân phía sau của chiếc ghế đã bị mất phần nhựa bọc và phần nhôm kéo lê trên sàn xi-măng, tiếng động khó chịu chẳng khác nào tiếng móng tay cào trên mặt bảng đen mà Kevin cố kéo dài ra. Nó trượt khuỷu tay trên mặt bàn, đặt hai thái dương giữa hai nắm đấm tay, làm như có thể che đi tính cách của mình, mỉa mai với toàn bộ cơ thể nó. Em đã cố ngăn bản thân, nhưng mỗi khi nó xuất hiện trước mặt, em lại vươn thẳng lưng lên.

Em cảm thấy khó chịu khi mình luôn phải là người nghĩ ra chuyện để nói. Nó đã đủ lớn để đảm đương một cuộc trò chuyện. Và vì nó cầm tù em trong cuộc đời chính em cũng như cầm tù nó trong cuộc đời nó, em và nó đều quá nghèo nàn những chủ đề mới. Thường thì bọn em chạy qua cùng một kịch bản. “Con thế nào?” Em hỏi đơn giản nhất có thể. “Mẹ muốn tôi nói ổn?” “Mẹ muốn con nói gì đó,” em đáp đại. “Mẹ là người muốn gặp tôi mà.” Nó nhắc em. Nó có thể và sẽ ngồi đó, suốt cả một giờ. Đây đâu phải cuộc thi xem ai chịu khoan nhượng hơn. Nó từng dành cả buổi chiều thứ Bảy đứng chống nạnh trước kênh Thời tiết51.

51 The Weather Channel là một kênh truyền hình cáp phát sóng chương trình dự báo thời tiết và tin tức liên quan đến thời tiết.

Vậy nên hôm nay em bỏ qua kể cả những câu hỏi chiếu lệ, với một giả thuyết rằng những người lảng tránh những cuộc trò chuyện nhỏ dù biết nó có thể giúp cuộc nói chuyện trở nên dễ dàng hơn đã học được cách cứ để người kia làm hết mọi việc. Và em vẫn còn hơi bị kích động bởi cuộc trò chuyện với Loretta Greenleaf. Có lẽ việc khiến cho mẹ mình kể lể về mối liên hệ của bà ta với sự tàn ác bẩn thỉu của mình sẽ khiến nó hài lòng. Nhưng rõ ràng sự thôi thúc như cứu rỗi khi em nhận trách nhiệm về ngày thứ Năm đối với Kevin là một hình thức chiếm đoạt.

“Được rồi…” em nói, không vòng vo. “Mẹ cần phải biết điều này. Con có trách mẹ không? Con có thể nói có nếu con nghĩ vậy. Có phải đó là điều mà con đã nói với người tư vấn tâm thần? Hay là người ta nói với con vậy? Tất cả đều là do mẹ?”

Nó ngắt lời. “Mẹ lấy cái ý nghĩ đó ở đâu vậy?”

Cuộc trò chuyện em dự định sẽ tốn cả tiếng đồng hồ giờ kết thúc trong chín mươi giây. Bọn em chỉ ngồi.

“Con có nhớ hồi con còn bé không Kevin?” Em đã đọc được ở đâu đó rằng những người có tuổi thơ đau buồn thường có những khiếm khuyết.

“Có gì để nhớ chứ?”

“Chà, chẳng hạn như việc con mặc bỉm đến tận sáu tuổi.” “Thì sao.” Nếu em có ý nghĩ làm nó xấu hổ, em đã làm sai. “Hẳn là phải khó chịu lắm.”

“Với mẹ thôi.”

“Với con cũng vậy.”

“Tại sao?” Nó dè dặt. “Nó ấm mà.” “Không được lâu.”

“Tôi đâu phải mặc nó lâu, mẹ đã rất chăm chỉ mà.”

“Bọn trẻ ở lớp mẫu giáo có trêu chọc con không? Khi đó mẹ đã rất lo.”

“Ồ chắc phải mất ngủ luôn ấy nhỉ.” “Mẹ đã rất lo.” Em khẳng định.

Nó nhún một vai. “Sao chúng phải làm thế? Tôi không chịu hậu quả gì còn chúng thì có.”

“Mẹ chỉ tự hỏi nếu con có thể, bây giờ, nói cho mẹ biết vì sao con lại trì hoãn như vậy. Bố con đã hướng dẫn rất kỹ.”

“Kevy-Kevy!” Giọng nó the thé. “Bé yêu! Nhìn xem bố tè-tè vào bồn cầu thế nào chưa? Con cũng muốn thế phải không Kevy-bé-bi? Giống bố thật là vui đúng không? Cho chim-chim tè vào bồn cầu này nhé. Tôi chỉ muốn hai người tự chịu đựng sự thiểu năng của chính hai người.”

Em thích thú việc nó để bản thân thể hiện sự thông minh qua lời nói, nó thường cẩn thận để người ta không biết rằng nó cũng có não. “Được rồi. Vậy là con không dùng nhà vệ sinh vì chính con, con và mẹ… con không làm thế vì mẹ. Nhưng tại sao không phải là vì bố?”

“Con đã là một cậu bé!” Nó õng ẹo. “Con là cậu bé của bố! Con là chàng trai nhỏ của bố! Chúa ơi, đúng là một thằng ngu.”

Em đứng dậy. “Con không được phép nói thế. Đừng bao giờ nói như vậy, dù chỉ là một lần hay thêm lần nào nữa. Không bao giờ!”

“Không thì sao?” Nó hỏi nhẹ, mắt nó nhún nhảy.

Em ngồi xuống. Em không nên để nó điều khiển mình như vậy, em thường không như vậy. Nhưng mỗi khi nhắc về anh…

Ồ có lẽ em nên thấy mình may mắn khi Kevin không thường xuyên nhấn chiếc nút này. Giờ thì nó thường xuyên nhấn vào đó theo một cách nào đó. Phần lớn tuổi thơ của nó, những đường nét góc cạnh của nó đã chế nhạo em bằng hình ảnh phản chiếu của chính mình. Nhưng những năm sau đó, mặt nó bắt đầu đầy đặn hơn, và em bắt đầu nhận ra khung xương to lớn của anh. Thực sự từng có lần em thèm khát tìm kiếm hình ảnh của anh trên gương mặt Kevin, nhưng giờ em phải chiến đấu với cảm giác khó chịu rằng nó cố tình làm thế để khiến em đau khổ. Em không muốn thấy sự giống nhau giữa anh và nó. Em không muốn nhận thấy những thói quen tương tự, cái cách vung một tay xuống rất riêng biệt khi anh bác bỏ một thứ gì đó không đáng kể, như chuyện người hàng xóm cách một nhà không cho con họ chơi với con trai anh. Nhìn thấy chiếc cằm mạnh mẽ của anh vặn vẹo thành một thứ cáu kỉnh, nụ cười chất phác của anh bị bẻ cong thành cái nhếch mép xảo quyệt, cảm giác như chứng kiến chồng mình đang bị chiếm đoạt.

“Vậy con sẽ làm gì?” Em nói. “Với một đứa trẻ nhất quyết ị ra bỉm của mình trong khi đã đủ tuổi học tiểu học?”

Nó tì hai khuỷu tay rồi vươn người, bắp tay dưới của nó sát với mặt bàn. “Mẹ biết người ta làm thế nào với lũ mèo mà, phải không? Chúng đi bậy trong nhà, rồi mẹ dí mặt chúng vào đống cứt của chính chúng. Chúng không thích điều đó. Chúng sẽ đi vào hộp.” Nó ngồi tựa vào ghế, thỏa mãn.

“Điều đó cũng không khác lắm với những gì mẹ đã làm, phải không?” Em nói một cách nặng nề. “Con còn nhớ không? Con đã khiến mẹ trở thành người như thế nào? Làm thế nào mà cuối cùng mẹ bắt con phải vào nhà tắm?”

Nó lần theo vết sẹo trắng mờ ở gần khuỷu tay bằng một vẻ chiếm hữu, như thể vuốt ve một con sâu kiểng. “Chắc chắn rồi.” Sự khẳng định này của nó rất khác, em cảm giác rằng nó thực sự nhớ chuyện đó, trong khi những chuyện khác chỉ là thử nghiệm.

“Tôi rất tự hào về mẹ,” nó gầm gừ.

“Con tự hào về bản thân con,” em nói. “Như mọi khi.”

“Ô!” Nó rướn người về phía trước. “Đó là điều thành thật nhất mà mẹ từng làm.”

Em đứng dậy, nhặt túi của mình lên. Có thể em từng mong nó ngưỡng mộ mình, nhưng không phải vì chuyện đó, bất cứ thứ gì ngoài chuyện đó.

“Chờ đã. Tôi đã trả lời câu hỏi của mẹ. Giờ tôi muốn hỏi mẹ một câu.”

Điều này khá là mới. “Được thôi. Nói đi!” “Đống bản đồ đó,” nó nói.

“Chúng làm sao?”

“Tại sao mẹ giữ chúng trên tường?”

Đó chỉ là vì em đã không xé những tấm bản đồ bị vấy bẩn khỏi phòng làm việc của mình hay cho phép anh sơn đè lên vì anh đã rất lo lắng rằng Kevin sẽ “không quên được” tai nạn đó. Khi đó nó vẫn còn quá nhỏ, anh đã liên tục nhắc nhở em.

“Mẹ giữ chúng để nhắc mình tỉnh táo. Mẹ cần phải nhìn thấy thứ con đã làm với mẹ, vươn tay ra và chạm vào nó. Để chứng minh rằng mẹ không giữ trong đầu ác tâm của con với mẹ.”

“Vâng, tôi hiểu ý mẹ.” Nó vừa nói vừa chạm vào vết sẹo trên cánh tay.

Em hứa sẽ giải thích tất cả với anh, Franklin. Chỉ là không phải bây giờ.