Franklin thân yêu,
Em xin lỗi vì đã để anh phải chờ, nhưng em vẫn đang tìm cách để giải thích cho anh hiểu. Sáng nay khi đang lái xe đi làm, em bỗng nhiên hồi tưởng lại phiên tòa. Về lý thuyết thì em đã khai man. Em chỉ không nghĩ rằng mình nợ vị thẩm phán mắt tròn xoe đó (một chứng rối loạn bẩm sinh mà em chưa từng thấy, đồng tử nhỏ bất thường, khiến cô ấy có cái nhìn ngơ ngác, vô hồn như một nhân vật hoạt hình vừa bị một cái chảo đập vào đầu) thứ mà em đã giấu người chồng của mình cả một thập kỷ.
“Bà Khatchadourian, bà hay chồng bà đã bao giờ đánh con trai chưa?” Giọng luật sư của Mary như đang đe dọa người đứng trên bục nhân chứng.
“Bạo lực chỉ dạy một đứa trẻ rằng ép buộc thể chất là phương thức được chấp nhận,” em đã học thuộc lòng.
“Quan tòa đồng ý thưa bà Khatchadourian, nhưng chúng tôi cần làm rõ để ghi vào báo cáo: bà hay chồng bà có bao giờ bạo hành về mặt thể xác Kevin trong thời gian cậu ta nhận sự chăm sóc của ông bà không?”
“Chắc chắn là không,” em quả quyết, rồi lẩm bẩm lại lần nữa cho chắc, “chắc chắn là không.” Em hối hận vì đã lặp lại điều đó. Có cái gì đó không chân thành với một lời quả quyết buộc phải nhắc lại hai lần.
Khi rời bục, em vấp vào một cái đinh trên sàn, làm bung miếng cao su lót gót chiếc giày cao gót. Em dựa lại vào ghế, thà hỏng giày còn hơn là hỏng mũi.
Nhưng giữ bí mật là một sự hành xác. Em không nghĩ mình giỏi nói dối, nhưng sau vài lần tập luyện em đã nắm được bí kíp của một người nói dối chuyên nghiệp, kẻ không phải cố gắng bịa đặt một lời nói dối mà chỉ đơn giản là tin vào nó. Một lời nói dối thành công không được mang đến thế giới này rồi để rồi bị lãng quên, như bất cứ mối quan hệ ràng buộc nào, nó phải được duy trì với sự tận tâm nhiều hơn so với sự thật, thứ tự mình xác thực không cần cố gắng. Trái lại, lời nói dối của em cần em cũng nhiều như em cần nó, và đòi hỏi sự kiên định của hôn nhân: cho đến khi cái chết chia lìa đôi ta.
Em nhận ra rằng những cái bỉm của Kevin khiến anh xấu hổ, kể cả nếu nó hoàn toàn không làm con trai anh cảm thấy thế. Chúng ta đã dùng cỡ bỉm XL, lâu hơn nữa thì chắc chúng ta sẽ phải đặt hàng qua email loại bỉm y tế hỗ trợ sự không kiểm soát. Mặc cho bao nhiêu hướng dẫn nuôi dạy con cái mà anh đã nghiền ngẫm, anh có một sự nam tính bảo thủ mà em lại cảm thấy hấp dẫn một cách đáng ngạc nhiên. Anh không muốn con trai mình yếu đuối, trở thành mục tiêu cho bạn bè trêu chọc, hay bám vào một thứ bùa hộ mệnh của thủa thiếu thời thu hút khá nhiều ánh mắt tò mò, vì chỗ phồng lên ở quần nó là không thể nhầm lẫn được. “Chúa ơi,” anh từng có lần càu nhàu khi Kevin đã đi ngủ, “giá mà nó chỉ mút ngón tay thôi có phải tốt hơn không”.
Chính anh từng vướng phải một trận chiến với người mẹ khó tính về việc xả nước hồi còn nhỏ, bởi vì bồn cầu đã bị tràn một lần, và mỗi khi kéo cần gạt, anh luôn sợ rằng những cục phân sẽ tràn đầy ra sàn nhà tắm, giống như một phiên bản bẩn thỉu của bộ phim Phù thủy tập sự. Em đồng ý rằng thật kinh khủng khi trẻ con phải nhịn đái hay ị, điều đó khiến chúng lo lắng không cần thiết, nên em đã đi theo lý thuyết mới này về việc để trẻ con tự quyết định việc ngồi bô khi chúng “sẵn sàng”. Tuy nhiên, cả hai ta đều tuyệt vọng. Anh bắt đầu nhắc đi nhắc lại về việc liệu nó có nhìn thấy em đi vệ sinh vào bồn cầu hay không (ta vẫn không chắc rằng có nên để nó nhìn hay không) hoặc là em có thể đã nói gì đó khiến nó sợ hãi chiếc ngai của cuộc sống văn minh, so với những thứ như nói làm ơn hoặc cảm ơn lại bị bỏ qua. Anh buộc tội em vì đã làm quá mọi thứ, và rồi vì đã làm quá ít.
Chuyện em làm quá ít là không thể xảy ra, bởi vì giai đoạn phát triển mà dường như con trai ta đã bỏ qua đã hành hạ cuộc đời em. Anh chắc sẽ nhớ rằng nhờ có ý tưởng giáo dục mới về sự trung lập (không có thứ gì là tốt hơn hay tệ hơn, đó chỉ là sự khác biệt) cũng như nỗi sợ hãi đến tê liệt bởi những vụ kiện (trong sự kinh hoàng của việc người Mỹ ngày càng miễn cưỡng làm bất cứ thứ gì từ việc hà hơi thổi ngạt một người đang chết đuối đến đuổi việc những người bất tài đần độn) mà Kevin đã không bị quay lưng lại trong ngôi trường mẫu giáo đắt đỏ ở Nyack cho đến khi nó tự chỉnh đốn lại. Người giáo viên cũng không định thay đổi một cậu bé năm tuổi, kêu ca rằng cô ấy sẽ đẩy bản thân vào tình thế có thể bị buộc tội quấy rối tình dục. (Thực ra khi em thông báo với Carol Fabricant về tính tình có chút kỳ quặc của Kevin, cô ấy nhìn em đầy ngờ vực và bối rối nói rằng những hành động lạ đôi khi có thể là lời kêu cứu. Cô ấy không nói thẳng ra, nhưng cả tuần sau đó em sống trong nỗi sợ hãi cảnh sát sẽ đến gõ cửa hoặc chiếu một ánh sáng đèn flash xanh qua cửa sổ.) Vậy nên khi em vừa mới thả nó ở lớp Học-tập-và-Yêu-thương lúc chín giờ sáng và về nhà thì đã buộc phải quay lại lúc mười một rưỡi với một túi tã.
Nếu bỉm vẫn khô, em kiếm cớ chỉnh lại mái tóc bù xù của nó để lén nhìn xem nó vẽ gì, mặc dù đã có đủ các “tác phẩm nghệ thuật” của nó gắn trên tủ lạnh, em vẫn có những ý tưởng khá tuyệt. (Trong khi những đứa trẻ khác đã có thể vẽ người que và phong cảnh với những sọc xanh của bầu trời, Kevin vẫn cào những đường không hình thù, pha trộn linh tinh giữa màu sáp đen và màu sáp tím.) Mặc dù vậy, em thường xuyên phải quay lại vào giữa trưa vì một cuộc điện thoại: cô Fabricant báo với em là Kevin đã ướt nhẹp và những đứa trẻ khác bắt đầu kêu ca vì nó bốc mùi. Em có thể…? Em chẳng thể nói không. Vậy nên khi đón nó lúc hai giờ chiều, em đã đi lại bốn lần đến lớp học đó. Em đã tốn quá nhiều thời gian kể từ khi Kevin bắt đầu đi học. Trước đó em đã ảo tưởng rằng mình có thể lấy lại cuộc sống và sớm trở lại vị trí lãnh đạo AWAP.
Nếu Kevin là một cậu bé nhiệt tình, dễ bảo nhưng vô tình gặp phải vấn đề khó chịu này, cô giáo có thể cảm thấy tiếc cho nó. Nhưng mối quan hệ giữa cô Fabricant và Kevin không phát triển được vì những lý do khác.
Có lẽ chúng ta đã sai lầm khi gửi Kevin ở trường mẫu giáo Montessori, nơi mà triết lý về bản chất con người là luôn lạc quan. Đó là cách giáo dục giám sát chứ không tổ chức, trẻ em được đặt trong một môi trường “khơi gợi tiềm năng”, những khu đồ chơi với các khối chữ cái, hạt tập đếm và những cây đậu, họ cho rằng trẻ em có khả năng tự chơi. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của bản thân, em nhận thấy khi được để mặc với những dụng cụ, con người sẽ cảm thấy một trong hai thứ: không có gì nhiều hoặc không tốt lắm.
Một thông báo ban đầu về sự tiến bộ của Kevin vào tháng Mười một năm đó đã nói rằng nó “thiếu tính xã hội hóa” gì đó và “có thể cần hỗ trợ với việc phát triển hành vi”. Cô Fabricant đã miễn cưỡng phê bình bổn phận của mình, vì vậy rất khó để cạy miệng cô ấy nói ra rằng suốt hai tháng Kevin chỉ ngồi thõng trên ghế giữa phòng và nhìn chằm chằm các bạn cùng lớp lăng xăng với các hoạt động. Em biết cái nhìn đó, một ánh mắt lờ đờ, già trước tuổi thi thoảng lại ánh lên sự ngờ vực đầy khinh bỉ. Khi bị ép phải chơi với các bạn khác, nó trả lời rằng tất cả những thứ mà bọn trẻ đang làm đều “ngu ngốc” bằng giọng điệu mệt mỏi như thể một học sinh trung học cố thuyết phục giáo viên lịch sử của cậu ta tin rằng cậu ta đang say rượu. Tuy vậy, cô ấy đã thuyết phục được nó tạo ra những bức vẽ đen tối, giận dữ mà em không bao giờ biết được.
Với em, việc ngắm những cây bút sáp màu bị nghiền nát này thật sự căng thẳng cực độ. Em nhanh chóng cạn vốn từ để khen ngợi (Trông thật đầy năng lượng đó Kevin!) và những diễn giải giàu trí tưởng tượng (Đây là một cơn bão phải không con yêu? Hay đó là bức tranh vẽ đống tóc và xà phòng mà ta lôi lên từ lỗ cống nhà tắm!) Thật khó có thể liên tục ồ lên thích thú với sự lựa chọn màu sắc khi nó chỉ quanh quẩn với màu đen, tím và nâu. Em không thể không rụt rè gợi ý rằng chủ nghĩa trừu tượng này đã đi vào ngõ cụt từ những năm năm mươi, có lẽ nó nên thử tái hiện một con chim hay một cái cây thì tốt hơn. Nhưng với cô Fabricant, mớ rác từ lỗ cống của Kevin vẫn chứng minh một cách tích cực rằng phương pháp Montessori khiến một cái chặn cửa cũng có thể trở nên kỳ diệu.
Tuy vậy, ngay cả Kevin, người rất tài năng trong việc đó, cũng chỉ có thể chịu đựng trong một thời gian nhất định mà không làm điều gì để khiến cuộc sống có thêm chút thú vị, vì nó đã chứng minh điều đó một cách rất rõ ràng trong ngày thứ Năm. Khi năm học kết thúc, cô Fabricant hẳn đã chôn vùi hoài niệm về những ngày tháng mà Kevin Khatchadourian hoàn toàn không làm gì cả.
Trong khi đó em phát hiện ra mình mất một chai thuốc tẩy. Có những chuyện rất bí ẩn: Sau một ngày đặc biệt vào tháng Một, ngay khi mà em dắt Kevin vào lớp, một cô bé với mái tóc xoăn như Shirley Temple bắt đầu khóc, và sự khóc lóc của nó ngày càng tệ hơn cho đến một ngày tháng Hai, cô bé không bao giờ quay lại lớp nữa. Một cậu bé khác, hồi tháng Chín còn rất hung hăng và bướng bỉnh, kiểu xấu tính luôn đi đá vào chân người khác hoặc đẩy người ta ngã vào hộp cát ấy, bỗng nhiên trở nên yên lặng và hướng nội, xuất hiện một ca hen suyễn nặng và một nỗi sợ khó hiểu với chiếc tủ áo, chỉ cần đến gần hơn hai mươi xen-ti-mét là nó bắt đầu khò khè. Những việc đó thì liên quan gì đến Kevin? Em không chắc, có thể là không. Một vài sự cố khá là vô hại, như lần mà Jason nhỏ bé kẹt chân trong chiếc ủng màu đỏ, và rồi phát hiện ra đầy những miếng bánh táo ăn thừa từ bữa ăn nhẹ bị nhét bên trong. Trò chơi của trẻ con, đó chỉ đơn thuần là trò trẻ con, chúng ta đều đồng ý như vậy.
Điều khiến cô Fabricant khó chịu nhất, dĩ nhiên, chính là hết lần này đến lần khác trách nhiệm của cô ấy lại quay về với cái bô. Em và cô ấy đã cùng hy vọng rằng khi năm học bắt đầu, Kevin có thể sẽ noi theo các bạn trong giờ nghỉ đi vệ sinh, nhưng đến khi năm học kết thúc, không chỉ có Kevin là đứa sáu tuổi duy nhất mặc bỉm mà có đến ba, bốn đứa.
Mỗi lần trải qua một sự cố em càng trở nên bất ổn hơn. Một buổi sáng, đứa bé có biệt danh Muffet mang bộ đồ uống trà đến lớp để khoe. Đó không phải một bộ đồ uống trà bình thường, mà là một bộ tách được trang trí công phu mà mỗi chiếc đều được đặt trang trọng trong một chiếc hộp gỗ gụ lót nhung. Mẹ con bé sau đó đã gắt gỏng rằng đó là đồ gia truyền của gia đình mà Muffet chỉ được mang ra khi có dịp đặc biệt. Chắc chắn là bộ đồ này không bao giờ nên được mang đến trường mẫu giáo, nhưng cô bé đã rất tự hào vì đã học thuộc những bộ tách-đĩa nào đi với nhau và biết cách cẩn thận, nắn nót đặt tách lên đĩa với thìa sứ trước các bạn cùng lớp khi chúng đang ngồi xung quanh chiếc bàn ô-sin. Sau khi cô bé rót một vòng “trà” (nước ép dứa-bưởi thông thường), Kevin cầm vào phần tai tách bé xíu giơ lên như đang chúc tụng, và thả nó xuống sàn.
Để tiếp nối, tất cả mười một bạn uống trà của nó làm theo. Trước khi cô Fabricant có thể kiểm soát được tình hình, những chiếc đĩa và thìa đã nhanh chóng chịu chung số phận, vậy nên khi mẹ Muffet đón cô con gái đang nức nở chiều hôm đó, chẳng còn gì trong bộ đồ uống trà quý giá đó ngoài chiếc bình.
Dù em từng mong rằng con trai mình có thể thể hiện tố chất lãnh đạo, nhưng đây hoàn toàn không phải thứ em nghĩ tới. Nhưng khi em nhắc đến chuyện này, cô Fabricant hoàn toàn không có tâm trạng đùa giỡn. Em cảm thấy rằng sự nhiệt huyết ở tuổi hai mươi của cô ấy trong việc uốn nắn bọn trẻ trở thành những người ăn chay ý thức được sự đa dạng văn hóa, có trách nhiệm với môi trường để khắc phục sự bất bình đẳng ở Thế giới thứ ba đã bắt đầu lung lay. Đây là năm đầu tiên mà cô ấy bị bắn màu vẽ lên lông mày, đi ngủ với vị mặn của hồ dán trong miệng, và phải phạt nhiều đứa trẻ hình phạt “cách ly” đến nỗi chẳng còn thời gian cho hoạt động nào nữa. Cô ấy đã nói trong lời giới thiệu hồi tháng Chín rằng cô ấy “chỉ đơn giản là yêu trẻ con”, một tuyên bố mà em không thể giải thích được. Khi nhìn những phụ nữ trẻ như cô Fabricant, với cái mũi tròn tẹt như khoai tây và hông thì như bang Idaho, tuyên bố khó hiểu đó dường như có thể được dịch ra là: “Tôi muốn kết hôn”. Bản thân em, sau khi sinh đứa con đặc biệt này, không phải đứa con bình thường nào khác, em không thể hiểu sao người ta có thể nói rằng họ yêu trẻ con một cách chung chung nữa, rằng ai đó có thể đủ tin tưởng để tuyên bố yêu con người trong một cảm xúc đủ bao la để bao gồm cả Pol Pot, Don Rickles52, và người hàng xóm lầu trên luôn thực hiện hai ngàn cú nhảy dây lúc ba giờ sáng.
52 Don Rickles là một diễn viên hài và diễn viên điện ảnh người Mỹ được biết đến với phong cách hài hước lăng nhục.
Sau khi kể câu chuyện của mình bằng lời thì thầm như hụt hơi, cô ấy rõ ràng muốn em đứng ra trả chi phí cho bộ đồ uống trà đó. Tất nhiên về mặt tài chính em đủ khả năng, dù nó có đáng giá bao nhiêu tiền, nhưng em không thể chấp nhận ý nghĩ họ đổ lỗi hoàn toàn cho mình. Thừa nhận đi Franklin, anh đã nổi cơn tam bành. Anh đã quá nhạy cảm sợ rằng con trai mình bị đối xử khác biệt, hay như anh nói, bị bức hại. Trên thực tế thì nó chỉ làm vỡ một cặp đĩa-tách, và đền bù một phần mười hai tổn thất là khoản bồi thường lớn nhất mà anh chấp nhận. Em cũng đã đề nghị nói chuyện với Kevin về việc “tôn trọng tài sản của người khác” mặc dù cô Fabricant cũng không mấy ấn tượng với sự đảm bảo này. Có lẽ cô ấy hiểu rằng những bài giảng này của em rồi sẽ dần biến thành những vần điệu nhạt nhẽo, mỉa mai như “một củ khoai, hai củ khoai” mà bọn con gái thường hát khi chơi nhảy dây.
“Làm vỡ tách trà của Muffet là không ngoan đâu Kevin,” em nói khi đang ngồi trong xe. Em không hiểu sao những bậc cha mẹ luôn cố chấp tin rằng con mình muốn trở nên tốt, bởi vì chính chúng ta khi nhận xét về một người quen nào đó rằng họ rất ngoan, ta thường có ý nói họ đần.
“Tên của nó thật ngu ngốc.”
“Không có nghĩa là cô bé đáng bị…” “Con trượt tay,” nó bào chữa.
“Đó không phải là điều mà cô Fabricant nói.”
“Sao cô ấy biết được.” Nó hét lên.
“Con sẽ cảm thấy thế nào, nhóc, nếu con có một món đồ con thích hơn tất cả mọi thứ, và con mang đến khoe với các bạn rồi ai đó đập nát nó?”
“Như là thứ gì ạ?” Nó hỏi, có một sự hồn nhiên nhuốm màu tự mãn.
Em lục lọi trong tâm trí mình để tìm kiếm một thứ mà Kevin đặc biệt trân trọng, nhưng không thể tìm được. Càng tìm kiếm em càng cảm thấy hoảng hốt tương tự như khi ta vỗ vào tất cả các ngăn túi áo khoác và nhận ra rằng chiếc ví mình luôn cất trong túi đã biến mất. Điều đó không bình thường. Trong tuổi thơ thiếu thốn của mình, em là một đứa thích giữ đồ kể cả những vật tầm thường nhất, từ con cừu sứ ba chân tên là Cloppity đến bộ bốn chai màu thực phẩm đã được rửa sạch.
Điều đó không có nghĩa là Kevin không có nhiều đồ, vì anh tắm nó trong đồ chơi. Em cảm thấy không hay lắm khi chỉ ra rằng nó phớt lờ những chiếc máy Junior Game Boys và những chiếc xe tải Tonka, cho thấy sự thái quá của anh là vì anh biết tất cả những món quà trước đó đều không được đón nhận. Có thể sự hào phóng của anh đã phản tác dụng, bằng việc trải đầy phòng chơi của nó bằng đống đồ nhựa, cũng có thể nó thấy rằng những món quà mua được bằng tiền quá đơn giản bởi chúng ta giàu có, và vì thế chúng cũng rẻ tiền, mặc dù giá của chúng rất đắt.
Nhưng từng có lần em dành hàng tuần liền để tự làm đồ thủ công bằng vải, một thứ đồ chơi của riêng em có thể mang một ý nghĩa nào đó. Em cũng đảm bảo rằng Kevin có nhìn em để nó biết được đó chính là sự bình yên trong lao động. Lần duy nhất em thấy nó thể hiện sự tò mò là khi nó hỏi một cách khó chịu rằng tại sao em không mua một cuốn sách truyện. Trong khi đó, quyển sách trẻ em do em vẽ tay, có bìa ép, được khoan lỗ và buộc bằng dây cói sáng màu, Kevin chỉ nhìn vô định ra cửa sổ khi em đọc to nó. Em thừa nhận là câu chuyện hơi nhàm, nó kể về một cậu bé bị mất chú cún yêu quý, Snippy, và trở nên đau buồn và tìm khắp nơi, dĩ nhiên cuối cùng Snippy xuất hiện. Chắc em mượn câu chuyện từ Lassie. Em không bao giờ giả vờ mình là một nhà văn tài năng, sáng tạo và những bức tranh màu nước thì loang lổ; em đã ảo tưởng rằng ý nghĩa mới là điều quan trọng. Nhưng bất kể em cố tình vẽ nên cậu bé với mái tóc sẫm màu và đôi mắt nâu giống với nó thế nào, em không thể khiến nó đồng cảm với cậu bé trong câu chuyện đã héo hon vì chú chó bị mất. (Nhớ khi anh muốn mua một chú chó cho Kevin chứ? Em đã xin anh đừng làm vậy. Em mừng vì anh không bắt em giải thích, vì chính em cũng chưa từng giải thích cho chính mình. Em chỉ biết rằng mỗi khi em mường tượng ra chú chó săn màu đen nhảy nhót hoặc một chú chó tai dài đáng tin cậy, em đều cảm thấy kinh hãi.) Sự thích thú đối với sách duy nhất mà Kevin có là khi em để nó một mình và đi chuẩn bị bữa tối, khi quay lại thì thấy nó đã viết nguệch ngoạc lên tất cả các trang sách bằng bút nhớ dòng Magic, một phiên bản tương tác, có lẽ vậy. Sau đó nó nhúng nước con gấu Teddy bằng tất nhồi bông với mắt bằng khuy áo, khéo léo như thể chuyện đó tự xảy ra ở hồ Gấu. Nó nhét những mảnh ghép hình màu đen trắng trong bộ ghép hình ngựa vằn của em xuống cống thoát nước.
Em nhắc lại một câu chuyện đã đi vào lịch sử. “Có nhớ khẩu súng phun nước của con không?”
Nó nhún vai.
“Nhớ lúc mẹ mất bình tĩnh, dẫm lên nó và nó vỡ tan tành không?” Em có một thói quen kỳ lạ khi nói đến bản thân ở ngôi thứ ba, có thể em đã bắt đầu phân thân, và “Mẹ” giờ như là một bản ngã đức hạnh thay thế của em; một hình tượng đầy đặn, dễ chịu với đôi tay dính bột và một chiếc lò bùng lửa có thể giải quyết mọi rắc rối với đứa trẻ nhà hàng xóm bằng những câu chuyện hấp dẫn và bánh quy sô cô la. Trong khi đó, Kevin hoàn toàn không quan tâm đến “Mẹ”, biến việc thay đổi cách gọi trở thành một cái tên ngu ngốc cho chính em. Trong xe, em đã lo lắng khi nhận ra rằng Kevin không gọi em nữa. Điều đó dường như là không thể xảy ra, nhưng con cái thường gọi tên cha mẹ khi chúng muốn điều gì đó, hoặc chỉ để gây chú ý, còn Kevin thì không muốn cầu xin em dù chỉ là một cái quay đầu. “Con không thích việc đó, phải không?”
“Con không quan tâm.”
Hai tay em trượt trên vô-lăng từ vị trí mười-và-hai xuống vị trí bảy-và-năm. Trí nhớ của nó rất chính xác. Vì theo anh thì việc phá hoại những tấm bản đồ của em là vì nó chỉ đang muốn giúp em nên anh đã mua một khẩu súng phun nước khác để thay thế. Kevin vứt khẩu súng vào đống sắt vụn trong hộp đồ chơi của nó và chẳng bao giờ động đến. Khẩu súng phun nước đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thực ra, em có chút cảm giác kỳ quặc lúc dẫm nát khẩu súng xuống sàn nhà rằng từ khi nó bắt đầu gắn bó với khẩu súng, nó vui lòng nhìn khẩu súng đó ra đi.
Khi em kể cho anh chuyện về bộ đồ uống trà, anh đã định gạt nó đi nhưng em lườm anh cảnh cáo. Chúng ta đã nói về việc cần phải có những cuộc nói chuyện đi đến một sự thống nhất. “Này Kev!” Anh nhẹ nhàng nói. “Bố biết mấy cái tách trà là trò của con gái và khá là kiểu cách, nhưng đừng đập vỡ chúng, được chứ? Không ngầu đâu. Giờ muốn chơi ném đĩa không? Chúng ta vẫn còn chút thời gian trước giờ ăn tối đấy.”
“Có chứ bố!” Em nhớ lại cảnh Kevin đóng sầm cửa tủ quần áo để chạy đi lấy mấy chiếc đĩa ném Frisbee. Bàn tay nắm chặt, khuỷu tay tung tăng, nó sục sạo khắp nơi như một đứa trẻ bình thường, nghịch ngợm, hồ hởi chơi trong sân cùng bố. Ngoại trừ việc nó quá giống một đứa trẻ bình thường. Thậm chí “Có chứ bố!” như đã được tập luyện trước, cảm giác trò nhe-nhe của nó quay lại mà em không tài nào hiểu nổi. Em cũng có cảm giác nôn nao tương tự vào những cuối tuần khi mà Kevin cất lời, vâng, cất lời. “Ôi bố ơi, hôm nay là thứ Bảy rồi. Chúng ta có thể đi xem một chiến trường khác được không?” Anh đã bị mê hoặc đến nỗi em chẳng thể tự mình tin rằng nó đang kéo chân anh. Em nhìn qua cửa sổ phòng ăn và không thể tin nổi, bằng cách nào đó, Kevin dường như không thể ném nổi một cái đĩa sau chừng ấy thời gian. Nó vẫn cứ ném cái đĩa lệch về một phía, móc vành đĩa bằng ngón tay giữa của mình và ném nó bay cách chân anh mười mét. Anh là người kiên nhẫn, nhưng em sợ rằng anh quá kiên nhẫn để dụ dỗ nó thử trò chơi đó.
Ôi em còn chẳng thể nhớ nổi tất cả những sự cố xảy ra năm đó ngoại trừ việc chúng quá nhiều và anh luôn cho chúng là không quan trọng. “Eva à, thằng bé nào chẳng trêu chọc bạn bè.” Em đã bỏ qua trách nhiệm của anh vài lần, bởi vì nói về bất kỳ hành động sai trái nào của con trai chúng ta thì cũng đều như em đang nói xấu nó. Cuối cùng em lại cảm thấy người xấu không phải nó mà là mình. Nếu em là em gái nó thì còn có thể hiểu được. Nhưng một người mẹ có thể là một kẻ mách lẻo hay không? Quá rõ ràng rồi.
Dù sao thì cảnh tượng mà em nhìn thấy, em nghĩ lúc đó là tháng Ba, em không chắc tại sao mình lại mất tự tin đến vậy, nhưng em không thể giữ bí mật đó cho riêng mình. Em đã đến đón Kevin như mọi ngày, không ai biết nó đang ở đâu. Cô Fabricant trở nên dằn vặt, mặc dù lúc này, nếu Kevin có thể đã bị bắt cóc bởi những tên sát nhân ấu dâm mà chúng ta tin rằng lẩn khuất đâu đó sau những bụi cây, em ngờ rằng cô ấy đã thuê chúng. Đứa trẻ bị mất tích là con trai chúng ta, phải mất một lúc mới có người nghĩ đến việc kiểm tra nhà vệ sinh, gần như không phải nơi mà nó lựa chọn để trốn.
“Thằng bé đây rồi.” Cô giáo của nó hét lên ở cửa nhà vệ sinh nữ. Và rồi cô ấy há hốc miệng.
Em nghi ngờ kí ức của anh về câu chuyện này, nên cho phép em kể lại. Có một cô bé mẫu giáo nhỏ bé, tóc sẫm màu tên là Violetta, em hẳn đã nhắc đến với anh hồi đầu năm học vì cô bé đã làm em mủi lòng. Cô bé rất ít nói, xa cách, thường trốn sau váy của cô Fabricant, và em phải mất rất nhiều thời gian mới có thể khiến cô bé nói ra tên của mình. Cô bé khá xinh, thực sự, nhưng ta phải nhìn kỹ hơn thì mới có thể nhận ra điều đó, việc mà mọi người đã không làm, họ không vượt qua được bệnh chàm.
Thật khủng khiếp. Cô bé bị bao phủ bởi những mảng vảy lớn, đỏ và bong tróc, đôi khi nứt ra ở những chỗ bong vảy. Nó bao phủ cả cánh tay và đôi chân mảnh dẻ, tệ nhất là trên khuôn mặt cô bé. Da cô bé có kết cấu như da loài bò sát. Em được biết rằng tình trạng này có liên quan đến rối loạn cảm xúc, có lẽ chính em là người dễ bị ảnh hưởng bởi những giả định điên rồ nhất, vì em không thể ngừng tự hỏi liệu Violetta có đang chịu đựng sự ngược đãi nào đó hay bố mẹ cô bé có đang trong thời gian tiến hành ly dị hay không. Dù trong trường hợp nào, mỗi khi em bắt gặp ánh mắt cô bé, có thứ gì đó len lỏi trong em và khiến em chỉ muốn ôm cô bé vào lòng. Em không bao giờ mong những vết chàm đau khổ này xuất hiện trên người con trai chúng ta, nhưng đây là một kiểu tai nạn đau lòng mà em thèm muốn vì bác sĩ Foulke từng nói: một số đau đớn tạm thời có thể chữa lành và đồng thời sẽ khuấy động trong em một sự thương cảm vô bờ bến khi đối mặt với con trai mình tương tự như khi Violetta, một người lạ, xuất hiện một cách mạnh mẽ trước mặt em.
Em từng có duy nhất một lần bị chàm, ở gót chân, chỉ một chút nhưng cũng đủ để biết rằng nó ngứa như điên. Em tình cờ nghe thấy mẹ cô bé lầm bầm nhắc cô bé đừng gãi và cho rằng tuýp kem mà Violetta luôn mang theo, giữ chặt trong túi chiếc áo nỉ của mình là một loại thuốc mỡ chống ngứa, có thể là mỡ trăn. Em chẳng thấy bệnh chàm của Violetta có chút tiến triển gì. Nhưng thứ thuốc đó rất hiệu quả trong việc trị ngứa, và sự tự chủ của cô bé thật ấn tượng. Cô bé vạch một đường bằng móng tay lên cánh tay, rồi nắm lấy cánh tay bị bệnh bằng tay còn lại, như thể buộc cánh tay đó bằng một sợi dây xích.
Dù sao thì khi cô Fabricant đang há hốc miệng thảng thốt, em chạy đến cạnh cô ấy. Kevin đang quay lưng về phía em và nó đang thì thầm. Rồi em đẩy cửa mở ra thêm một chút, nó dừng lại và bước lùi một bước. Trước mặt em là Violetta đang đứng trước bồn rửa. Mặt cô bé đang ngửa lên với một biểu cảm như được ban phước lành. Mắt cô bé nhắm lại, hai tay bắt chéo như xác ướp, cơ thể thả lỏng như đang lịm đi. Em chắc rằng cả em và cô giáo đều không trách móc cô bé ngốc nghếch này về trạng thái ngây ngất mà cô bé xứng đáng, ngoại trừ thực tế là cô bé đang dính đầy máu.
Em không có ý cường điệu hóa. Chuyện nhanh chóng trở nên rõ ràng khi cô Fabricant hét lên và đẩy Kevin sang một bên để dùng khăn giấy lau những vết trầy của Violetta, nó không đến mức quá tệ. Em ngăn cô bé chạm vào cánh tay mình khi cô giáo đang thấm khăn ẩm vào chân tay và mặt cô bé, cố hết sức để lau sạch từng chút một trước khi mẹ cô bé đến. Em cũng cố gắng phủi những vảy trắng khỏi chiếc áo nỉ màu xanh tím than của cô bé, nhưng những vảy da dính vào đó như băng dính gai. Rõ ràng là không đủ thời gian để có thể lau sạch những vết máu ở mắt cá chân và xung quanh cổ tay cô bé. Phần lớn những vết xước đều nông nhưng nó bao phủ khắp cơ thể cô bé. Cô Fabricant sẽ không kịp che đậy những vết chàm đang chuyển từ màu tím cà ảm đạm sang màu đỏ choét khi chúng tiếp tục rỉ máu.
Nghe này: em không muốn lại phải tranh cãi với anh đâu. Em hoàn toàn đồng ý rằng có thể Kevin chưa từng chạm vào cô bé. Em có thể nói rằng chính cô bé đã tự cào mình mà không cần ai làm cùng. Nó ngứa ngáy và cô bé đã buông xuôi, và em dám nói rằng cảm giác khi cuối cùng cũng được cào móng tay vào những cái vảy đỏ ghê tởm đó hẳn là rất sung sướng. Em thậm chí còn cảm nhận được chút thỏa mãn của sự báo thù khi nhìn vào diện tích của những tổn thương, hoặc cũng có thể là một niềm tin sai lệch rằng việc đó có thể giúp cô bé loại bỏ những chiếc vảy độc hại này khỏi cuộc đời mình một lần và mãi mãi.
Tuy nhiên, em không bao giờ quên gương mặt cô bé khi em vừa tìm thấy chúng, nó thể hiện không chỉ là một sự thích thú đơn thuần mà còn toát ra một thứ gì đó hoang dã, nguyên thủy hơn, gần như một thứ tà giáo. Cô bé biết rằng sau đó nó sẽ đau hơn và cô bé biết mình chỉ khiến cho tình trạng da trở nên tồi tệ hơn và cô bé cũng biết là mẹ sẽ kè kè bên cạnh, và chính sự lo sợ này cùng với biểu cảm ngộp thở của cô bé khiến cho nó có một chút gì đó đồi trụy, thậm chí ở một cô bé năm tuổi. Cô bé sẽ hy sinh thân mình cho sự vinh quang này, hậu quả thì thật kinh khủng: sự chảy máu, những vết rách, sự vò đầu bứt tóc ở nhà, những vảy đen gớm ghiếc sẽ xuất hiện nhiều tuần sau đó, nhưng dường như thứ quan trọng nhất là sự thỏa mãn.
Tối đó anh đã nổi trận lôi đình.
“Vậy là một cô bé tự cào mình. Cái đó thì liên quan gì đến con trai anh?”
“Thằng bé ở đó. Cô bé tội nghiệp, tự lột sống mình, và nó chỉ đứng đó.”
“Thằng bé đâu có điều khiển tâm trí con bé, Eva, nó chỉ là một đứa trẻ!”
“Nó có thể gọi ai đó giúp phải không? Trước khi mọi chuyện đi quá xa ấy?”
“Cũng có thể, nhưng thậm chí tháng sau nó mới được sáu tuổi. Em không thể mong nó tháo vát như vậy hoặc thậm chí biết được khi nào là ‘đi quá xa’ khi mà con bé chỉ đang gãi. Chẳng có gì giải thích được cho việc em để Kevin ngồi xổm cả buổi chiều, dính đầy cứt!” Một lần lỡ miệng hiếm hoi. Anh đã quên mất không nói phân.
“Nhờ có Kevin mà bỉm của Kevin bốc mùi bởi vì nhờ có Kevin mà nó vẫn mặc bỉm suốt cả ngày.” Đã được tắm rửa sạch sẽ bởi người cha giận dữ của mình, Kevin lúc đó đang ở trong phòng, nhưng em nghĩ giọng của mình đủ lớn để nó nghe thấy. “Franklin, cái gì cũng có giới hạn thôi. Em đã mua hết tất cả mấy cuốn sách hướng dẫn đi vệ sinh rồi và giờ nó nghĩ rằng chúng ngu ngốc vì chúng dành cho bọn trẻ con hai tuổi. Chúng ta nên đợi đến khi nó tự muốn làm nhưng nó không muốn, Franklin! Sao nó phải thay đổi khi có mẹ luôn dọn dẹp? Đến khi nào ta mới để cho nó tự lo, đến khi nó vào đại học ư?”
“Được rồi. Anh công nhận việc chúng ta đang làm những vòng củng cố tích cực. Điều đó khiến con chú ý…”
“Không có vòng nào cả, đó là một cuộc chiến, Franklin! Và lực lượng của chúng ta đã suy tàn. Chúng ta đã hết đạn dược và biên giới thì đã bị tràn vào rồi.”
“Chúng ta có thể nói thẳng ra không? Đây là phương pháp đào tạo ngồi bô mới của em à? Để con loay hoay trong đống chất thải của nó và làm dây ra khắp chiếc ghế sô-pha trắng của chúng ta? Người ta hướng dẫn làm vậy à? Hay đây chỉ là một hình phạt? Bởi vì bằng một cách nào đó mà phương pháp mới này của em lại pha trộn với sự phẫn nộ điên rồ về một đứa trẻ nào đó bị ngứa.” “Nó đã nhử cô bé.”
“Ôi lạy thánh Pete.”
“Cô bé đã làm cực kỳ, cực kỳ tốt việc không động vào những vết chàm. Bỗng nhiên bọn em tìm thấy cô bé trong phòng vệ sinh với người bạn mới, thằng nhóc lượn qua lượn lại thúc giục cô bé... Chúa ơi, Franklin, anh phải nhìn thấy cô bé cơ! Cô bé khiến em nghĩ đến những câu chuyện kinh dị được lưu truyền vào những năm sáu mươi về một người đàn ông đổ a-xít lên khắp cánh tay mình vì anh ta nghĩ đang bị bọ chui vào người.”
“Vậy em có bao giờ nghĩ cảnh tượng kinh khủng đó cũng có thể khiến Kevin bé nhỏ bị tổn thương không? Và nó cần chút an ủi, chút lời khuyên và ai đó để nói về chuyện đó chứ không phải bị đuổi vào cái lỗ cống của nó? Chúa ơi, bọn trẻ con được người ta nuôi tạm thời còn không bị đối xử tệ như thế.”
“Chắc em nên cảm thấy may mắn,” em lầm bầm. “Eva.”
“Em chỉ đùa thôi.”
“Em bị làm sao vậy trời!” Anh chẳng còn gì để nói.
“Thằng bé không ‘bị tổn thương’, nó tự mãn. Trên đường về nhà, mắt nó sáng lên. Em chưa từng thấy nó hài lòng như vậy kể từ lần nó moi ruột cái bánh sinh nhật.”
Anh ngồi phịch xuống chiếc ghế sô-pha màu trắng, hai tay ôm đầu. Em không thể ngồi cùng anh bởi vì đầu kia chiếc ghế vẫn còn màu nâu bẩn thỉu. “Anh cũng chạm đến giới hạn của mình rồi, Eva.” Anh day day thái dương của mình. “Nhưng không phải vì Kevin.”
“Đó là một lời đe dọa ư?”
“Đó không phải đe dọa.” “Anh đang nói cái gì thế!”
“Eva, bình tĩnh đi. Anh sẽ không bao giờ chia rẽ gia đình chúng ta.” Đã có lúc anh từng nói “Anh sẽ không bao giờ xa em”. Lời tuyên bố rõ ràng hơn của anh có một sự vững vàng nhất định, khiến cho lời thề tận tâm suốt đời với người yêu thương trở nên mỏng manh hơn. Nên em tự hỏi không biết tại sao lời cam kết với gia đình chúng ta của anh lại làm em buồn.
“Em mặc đồ cho nó. Em cho nó ăn khi nó để em làm việc đó, em đưa nó đi khắp nơi. Em làm đồ ăn nhẹ cho lớp mẫu giáo của nó. Em phục vụ nó từ sáng tới tối. Em thay tã cho nó sáu lần mỗi ngày. Vậy mà những gì em được nghe là về một buổi chiều nó khiến em phiền muộn, thậm chí là hoảng sợ đến nỗi không thể chịu nổi khi đến gần nó. Thực ra em không có ý phạt nó. Nhưng khi ở nhà vệ sinh đó, nó có vẻ rất…” Em đã lựa chọn và loại bỏ ba, bốn tính từ vì chúng có vẻ quá khiêu khích, rồi cuối cùng em cũng chịu thua. “Thay đồ cho nó cảm giác quá thân mật.”
“Xem em nói gì kìa. Anh chẳng hiểu em đang nói về đứa trẻ nào nữa. Chúng ta có một cậu bé khỏe mạnh, vui vẻ. Và anh bắt đầu nghĩ rằng nó cực kỳ sáng dạ.” (Em đã ngăn mình không xen vào, Đó chính là điều em sợ.) “Nếu thi thoảng nó không muốn nói chuyện, đó là vì nó thận trọng, biết suy nghĩ. Hơn nữa, nó chơi với anh, ôm anh chúc ngủ ngon, anh đọc truyện cho nó. Khi chỉ có anh và nó, nó kể cho anh mọi chuyện.”
“Nó kể cho anh những gì?”
Anh ngửa hai bàn tay lên. “Những gì nó vẽ, món ăn nhẹ ở trường có gì…”
“Và anh nghĩ đó là nó kể cho anh mọi thứ?”
“Em bị mất trí rồi à? Thằng bé mới năm tuổi, Eva, còn gì để kể nữa?”
“Để em bắt đầu nhé? Chuyện xảy ra năm ngoái trong nhóm chơi sau giờ học đó. Từng người từng người một, họ lần lượt cho con họ rút lui. Ồ dĩ nhiên là luôn có lý do: Jordan liên tục bị cảm lạnh, Tiffany không cảm thấy thoải mái khi là đứa nhỏ nhất. Cho đến khi chỉ còn em và nhà Lorna. Rồi cô ấy lầm bầm gì đó về việc chẳng giống một nhóm nữa và đề nghị giải tán. Vài tuần sau em ghé qua nhà Lorna mà không báo trước để tặng một ít quà Giáng sinh. Tất cả mọi người trong nhóm chơi cũ đang tụ tập trong phòng khách nhà cô ấy. Cô ấy ngại ngùng và bọn em cũng không gửi quà nữa. Nhưng vì Kevin kể cho anh mọi thứ, sao anh không bảo nó giải thích điều gì đã khiến tất cả những bà mẹ đó lén lút rút lui rồi tái tụ họp trong bí mật, tất cả chỉ để loại đứa con ‘khỏe mạnh, vui vẻ’ của chúng ta?”
“Anh không hỏi nó bởi vì đó là một chuyện không hay và có thể làm nó tổn thương. Và anh cũng chẳng thấy có gì bí ẩn ở đây: buôn chuyện, kết bè phái và rồi tan rã. Kiểu điển hình của những bà mẹ ở nhà thừa thời gian rảnh.”
“Em là một trong số những bà mẹ ở nhà đó đây, và với sự hy sinh đáng kể em nhắc cho anh nhớ, thời gian rảnh là thứ duy nhất mà em không có.”
“Vậy là thằng bé đã bị cô lập! Sao em không giận bọn họ? Sao em lại cho rằng nguyên nhân là do con trai chúng ta đã làm gì đó mà không phải là do một con gà mái thần kinh nào đó bị kiến đốt đít?”
“Bởi vì em biết quá rõ rằng Kevin không kể cho em mọi chuyện. À mà anh có thể hỏi nó tại sao chẳng có người trông trẻ nào quay lại sau ngày đầu tiên nhé.”
“Anh không cần hỏi. Hầu hết bọn thiếu niên quanh đây đều được cho 100 đô mỗi tuần nên 12 đô có vẻ chẳng hấp dẫn cho lắm.” “Vậy thì ít nhất anh có thể khiến con trai bé bỏng ngọt ngào, cả tin của anh nói với anh chính xác những gì nó đã nói với Violetta.”
Những chuyện này không có nghĩa là chúng ta suốt ngày cãi nhau. Trái lại, đó chỉ là lần cãi nhau mà em nhớ. Thật buồn cười, những ngày bình thường lại là ký ức đầu tiên bị phai nhạt. Em cũng không phải loại người sống nhờ vào sự ồn ào, đúng hơn là em cảm thấy tiếc khi nghĩ đến. Dù sao, có lẽ em hài lòng khi gãi vào bề mặt khô ráo của sự bình yên hằng ngày của chúng ta như cách mà Violetta gãi lớp vảy da sần sùi trên chân tay cô bé, bất kỳ điều gì để khiến cho thứ gì đó tươi sáng và trong trẻo đó tuôn ra qua chỗ hở và trượt giữa những ngón tay chúng ta. Có lẽ em sợ thứ nằm dưới lớp da đó. Em sợ rằng tận cùng tâm can, em ghét cuộc sống của mình, ghét việc làm mẹ và có những lúc ghét việc làm vợ anh, vì anh đã làm điều này với em, biến ngày của em thành một đống phân vô tận và nước bọt và bánh quy mà Kevin chẳng hề thích.
Trong khi đó, không lời la hét nào có thể giải quyết được cuộc khủng hoảng tã. Trong một lần hiếm hoi đảo ngược vai trò, anh bắt đầu để ý đến vấn đề đó như là một sự phức tạp từ bên trong. Với em thì nó rất đơn giản: Chúng ta muốn nó sử dụng bồn cầu thì nó không dùng. Từ khi chúng ta ngừng muốn nó dùng bồn cầu, em là người chịu thiệt thòi.
Anh chắc chắn việc em dùng từ cuộc chiến là không hợp lý. Nhưng khi túm Kevin lên bàn thay tã, giờ đã hơi nhỏ, hai chân nó dài chờm ra ngoài, đung đưa qua lại, em lại nghĩ đến những trận đánh du kích rời rạc mà ở đó, lực lượng phiến quân nghèo nàn, thiếu quân trang có thể gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho những quân đội hùng mạnh. Thiếu thốn một lượng lớn vũ khí hạng nặng, phiến quân sẽ phải dùng đến mưu mẹo. Các cuộc tấn công của họ nhỏ lẻ, thường xuyên, và sự bực tức tăng dần có thể làm mất tinh thần theo thời gian còn hơn cảnh mất một lượng lớn binh lính do thương vong. Ở tình thế bất lợi về vũ khí như vậy, những người du kích sử dụng bất cứ thứ gì có trong tay, đôi khi họ tìm thấy ngay trong những vật liệu hàng ngày. Em thấy rằng anh có thể tạo ra bom, ví dụ như là... từ phân chuồng. Về phần mình, Kevin cũng vậy, tiến hành một chiến dịch không lên kế hoạch trước, và nó cũng đã học được cách tạo ra vũ khí từ phân.
À, nó chấp nhận nằm im để thay tã. Nó dường như đắm chìm trong một thứ nghi lễ và có thể suy ra từ sự bối rối vừa đủ trước hành động nhanh nhẹn của em khi lau tinh hoàn nhỏ bé của nó khi nó mới sáu tuổi là nó bắt đầu cảm thấy không an toàn.
Có thể Kevin thích những buổi tối hẹn hò của chúng ta, em thì không. Em chưa bao giờ tin rằng chất thải của trẻ con có mùi “ngọt ngào”, chẳng đứa trẻ nào muốn có danh tiếng kiểu đó. Kevin ngày càng cứng đầu và khó tính hơn, và nhà trẻ giờ có mùi mốc như đường hầm xe lửa, nơi mà những kẻ vô gia cư trú ngụ. Em cảm thấy áy náy vì những ụ Pampers không thể tự phân hủy mà chúng ta đóng góp cho bãi rác địa phương. Tệ nhất là có những ngày Kevin dường như cố tình giữ ruột của mình cho một lần tấn công gấp đôi. Nếu không phải Leonardo của thế giới màu sáp, thì nó hẳn được nhận lệnh từ một nghệ nhân điều khiển cơ thắt điêu luyện.
Em đang cố tìm lời để nói với anh, nhưng khó có thể bào chữa cho những gì đã xảy ra vào tháng Bảy năm đó. Em nghĩ anh chắc chắn sẽ bàng hoàng. Em thậm chí không mong anh tha thứ, đã quá muộn rồi. Nhưng em thực sự rất cần anh hiểu.
Kevin tốt nghiệp mẫu giáo vào tháng Sáu, vậy là bọn em lại mắc kẹt với một mùa hè nữa. (Nghe này, em khiến Kevin lo lắng cũng nhiều như nó làm với em thôi.) Mặc dù cô Fabricant đã có một thành công khiêm tốn với những ví dụ minh họa Drano, phương pháp Montessori không mấy hiệu quả ở nhà chúng ta. Kevin vẫn chưa học được cách chơi. Để cho nó tự tìm trò chơi thì nó sẽ ngồi trên sàn nhà như một cục thịt với cảm xúc thờ ơ với mọi thứ khiến cho bầu không khí trong nhà trở nên ngột ngạt. Vậy nên em cố gắng kéo nó vào các kế hoạch, thu gom len, khuy, keo dán và những mảnh vải vụn nhiều màu sắc trong phòng chơi để làm những con rối. Em ngồi trên thảm cùng nó và đã có một khoảng thời gian vui vẻ thật sự, trừ việc đến cuối cùng thì em sẽ tạo ra một con thỏ với cái miệng bằng vải nỉ đỏ, đôi tai màu xanh xụ xuống và ria mép bằng ống hút, còn cánh tay Kevin buông thõng chán chường. Em không mong con chúng ta nhất thiết phải trở thành đứa trẻ giỏi làm đồ thủ công, nhưng ít nhất thì nó cũng nên thử.
Em cũng thử cho nó nhảy cóc lên lớp một bằng cách dạy trước những thứ cơ bản. “Chúng ta cùng học số nhé,” em gợi ý.
“Để làm gì.”
“Thì khi con đi học con sẽ giỏi tính toán hơn tất cả các bạn.” “Tính toán thì có gì hay.”
“À thế con nhớ hôm qua không? Lúc mẹ phải thanh toán hóa đơn ấy? Con phải biết cộng và trừ để biết mình phải trả bao nhiêu và mình còn lại bao nhiêu.”
“Mẹ dùng máy tính mà.”
“Ừ con vẫn cần biết tính toán để chắc rằng cái máy tính đã làm đúng.”
“Thế thì mẹ dùng nó làm gì nếu không phải lúc nào nó cũng tính đúng.”
“Nó luôn tính đúng,” em trả lời miễn cưỡng. “Thế mẹ đâu cần học toán.”
“Để dùng máy tính,” em bối rối. “Dù sao con vẫn phải biết số năm trông thế nào, đúng không? Nào, giờ mình thử tập đếm nhé! Sau ba là mấy nào?”
“Bảy.” Kevin nói.
Bọn em cứ tiếp tục theo cách đó cho đến một lần hỏi ngẫu nhiên (“Sau chín là mấy?” - “Năm mươi ba.”) thì bỗng nó nhìn một cách vô hồn vào mắt em và sổ một tràng, “Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười mười một mười hai…” chỉ ngưng lại hai hay ba lần để lấy hơi nhưng đồng thời đếm không sai số nào cho đến tận một trăm. “Giờ chúng ta kết thúc được chưa?” Em cảm thấy mình thật ngu ngốc.
Em mất luôn hứng thú với việc học chữ. Em ngăn chặn trước khi nó kịp vẽ ra viễn cảnh về việc học chữ. “Đừng nói với mẹ ‘để làm gì’. Mẹ sẽ nói cho con biết. Đôi khi con sẽ cảm thấy chán và chẳng có gì để làm ngoại trừ việc con luôn có một cuốn sách để đọc. Thậm chí là trên tàu điện ngầm hay khi chờ xe buýt.”
“Nếu mà cuốn sách cũng chán thì sao.”
“Thì con có thể tìm một cuốn khác. Có rất nhiều sách trên thế giới này mà con không bao giờ có thể đọc hết được.”
“Nếu tất cả chúng đều chán.”
“Mẹ nghĩ điều đó là không thể đâu Kevin,” em quả quyết. “Con nghĩ là có thể,” nó không tán thành.
“Hơn nữa, khi con lớn, con sẽ cần một công việc, và con phải đọc viết thành thạo nếu không sẽ chẳng ai thuê con.” Em chỉ nghĩ trong lòng, dĩ nhiên, nếu điều này là sự thật thì hẳn nhiều người ở đất nước sẽ thất nghiệp.
“Bố không viết. Bố lái xe loanh quanh và chụp ảnh.” “Có nhiều những công việc khác…”
“Nếu con không muốn một công việc thì sao.”
“Vậy thì con sẽ phải nhờ đến phúc lợi xã hội. Chính phủ sẽ cho con một ít tiền để con không chết đói nhưng chẳng đủ để làm gì đó vui vẻ.”
“Nếu con chẳng muốn gì thì sao.”
“Mẹ cá là con sẽ muốn. Nếu con tự làm ra tiền, con có thể đi xem phim và đến nhà hàng, thậm chí là đến những quốc gia khác, như mẹ từng làm.” Em nhấn mạnh từng làm.
“Con nghĩ mình sẽ nhận phúc lợi xã hội.” Đó là kiểu đối thoại mà em sẽ nghe thấy từ những bậc cha mẹ lặp đi lặp lại cùng với những tiếng cười trong bữa tối, còn em thì cố gắng để nó nghe thật buồn cười.
Em không biết những gia đình cho con học ở nhà làm thế nào. Kevin chẳng bao giờ tập trung chú ý, và việc lắng nghe với nó như thể một việc hèn hạ. Tuy nhiên, khi em không để ý, nó nhặt nhạnh những gì nó muốn biết. Cách nó học giống như cách nó ăn: lén lút, trong bí mật, ngấu nghiến thông tin như một miếng bánh kẹp phô- mai khi không ai để ý. Nó ghét phải thừa nhận rằng mình không biết điều gì đó, và trò lừa gạt giả ngu thường xuyên của nó là một cách khéo léo để che giấu những khoảng trống thực sự trong kiến thức của nó. Đối với Kevin, giả vờ dốt nát không đáng xấu hổ, và em chẳng bao giờ có thể phân biệt được khi nào là giả và khi nào là thật. Vì vậy, khi ngồi ở bàn ăn tối, nếu em chê bai vai trò của Robin William trong Hội cố thi nhân là thật tầm thường, em cảm thấy mình cần có trách nhiệm giải thích cho Kevin rằng từ đó có nghĩa là “một việc mà nhiều người khác đã làm trước đó rồi”. Nhưng nó hẳn đã biết định nghĩa này với cái ậm ừ từ khi còn nhỏ. Có phải nó đã học từ tầm thường ở tuổi lên ba, khi nó giả vờ không biết nói không? Anh nói xem.
Sau khi cùng vật lộn chắp vá bảng chữ cái hàng tuần (“Sau R là gì?” – “Lờmờnờ”) nó ngắt lời khi em đang phê bình việc nó cứ ngồi đó và mong rằng kiến thức sẽ tự rót vào tai bằng cách hát bài hát chữ cái hoàn hảo từ đầu đến cuối, mặc dù với giọng hung hăng không giai điệu mà thậm chí người có tai nhôm cũng khó mà nghe được và mang chút sắc thái khiến cho âm thanh từ phổi trẻ con nghe như bài kinh cầu. Em nghĩ rằng người ta đã dạy bài hát đó ở lớp mẫu giáo. Sau khi nó kết thúc bài hát một cách chế nhạo “Giờ tôi đã hát bài ABC của mình, nói xem bạn nghĩ gì về tôi”, em cáu kỉnh nói: “Mẹ nghĩ con là một cậu bé gian xảo thích lãng phí thời gian của mẹ”. Và nó cười, một cách quái gở, kéo cả hai bên miệng lên.
Nó không hoàn toàn không vâng lời như những chi tiết mà tạp chí Chủ nhật đã công bố. Thực ra nó có thể lần theo những chữ cái trong bài tập của mình một cách chính xác. Sau khoảng thời gian bị ép buộc bắt chước một cách bất lực: đầu chữ P không nối kín vào mà héo rũ xuống như thể vừa bị đập tơi tả, nó ngồi xuống như yêu cầu và viết một cách hoàn hảo giữa các dòng trong sách bài tập của mình, “Nhìn, Sally, nhìn. Đi. Đi. Đi. Chạy. Chạy. Chạy, Sally, chạy”. Em không cách nào diễn tả được tại sao việc đó khá là kinh khủng, ngoại trừ việc nó đã để lộ tư tưởng đoạn diệt xảo quyệt đối với sách giáo khoa tiểu học. Thậm chí cách nó viết những chữ cái đó cũng khiến em thấy bứt rứt. Chúng không có cá tính nào cả. Ý em là nó đã không thực sự học viết như cách chúng ta nghĩ, theo nghĩa bóng thì đó là ghi dấu ấn cá nhân trên giấy tờ. Kể từ lúc nó thừa nhận rằng mình biết cách, nó sao chép chính xác những ví dụ có trong sách, không thừa không thiếu một nét nào. Chữ T được vạch thẳng và I có dấu chấm, và phần bụng tròn của chữ B, chữ O hay chữ D không bao giờ bị quá lớn.
Cái chính em muốn nói là, mặc dù cơ bản thì nó vâng lời, nhưng dạy nó học khiến người ta phát điên. Anh có thể tận hưởng sự tiến bộ vượt bậc của nó khi anh trở về nhà, nhưng em chẳng bao giờ được trải qua cảm giác Eureka! của một khoảnh khắc đột phá là phần thưởng cho hàng giờ liền kiên nhẫn nịnh nọt và nhắc đi nhắc lại. Dạy cho một đứa trẻ từ chối học cũng chẳng hơn việc cho nó ăn bằng cách để lại một đĩa đồ ăn sau tủ bếp. Rõ ràng nó cố tình không muốn em hài lòng. Nó muốn em cảm thấy vô dụng và không cần thiết. Mặc dù có lẽ em không cảm thấy bị thuyết phục như anh rằng con trai chúng ta là thiên tài, phải thừa nhận nó rất thông minh. Ừ thì em nghĩ nó vẫn sáng dạ như vậy, nếu đó là điều có thể nói về một thằng nhóc dính dáng đến một hành động ngu ngốc sau này. Nhưng kinh nghiệm ngày qua ngày của em khi làm gia sư cho nó là việc dạy một đứa trẻ cá biệt bằng phương pháp truyền thống dường như làm sai lệch cách gọi kẻ đần độn. Em sẽ xoáy vào câu hỏi hai-cộng-ba- bằng-mấy hết lần này đến lần khác, cho đến khi nó kiên quyết từ chối trả lời năm một lần nữa. Em sẽ ngồi xuống, viết nguệch ngoạc:
12,387
6,945
138,964
3,987,234
Sau đó gạch một đường bên dưới và nói: “Đây! Vậy thì cộng các số này đi! Và nhân nó với 25 nếu con nghĩ mình thông minh”.
Em nhớ anh suốt cả ngày, và em nhớ cuộc sống trước đây của mình khi mà em bận rộn đến nỗi chẳng còn thời gian mà nhớ anh. Em đã trở nên thông thạo lịch sử Bồ Đào Nha dưới chế độ quân chủ và bao nhiêu người Do Thái đã bị sát hại ở Tòa án dị giáo Roma, và giờ thì em đang đọc thuộc lòng bảng chữ cái. Không phải bảng chữ Kirin, cũng không phải ngôn ngữ Do Thái, là bảng chữ cái. Ngay cả nếu như Kevin thể hiện mình là một học sinh hăng hái, thì với em điều đó chỉ giống như rơi xuống một loại dốc đứng chỉ có trong những giấc mơ: Đột nhiên em ngồi ở cuối lớp, làm bài kiểm tra với một chiếc bút chì gãy mà không chuẩn bị gì. Mặc dù vậy, em có thể chịu đựng vai trò giản dị này nếu như nó không phải là thêm một sự sỉ nhục vào cuộc đời em, trong hơn sáu năm nay, những thứ tồi tệ hẳn đã phải ngập đến quá nửa người.
Được rồi, bỏ qua chuyện đó.
Có một buổi chiều tháng Bảy, như mọi khi, Kevin đã làm bẩn tã của mình một lần và được rửa sạch sẽ cùng với thủ tục kem và phấn rôm quen thuộc. Rồi nó lại tiếp tục dọn ruột của mình hai mươi phút sau. Em lại đảm đương nhiệm vụ của mình. Nhưng lần này nó đã vượt qua chính mình. Cùng trong buổi chiều đó, sau khi em nài nó viết một câu gì đó có ý nghĩa về cuộc sống mà không phải một câu cợt nhả về Sally, nó viết vào vở: “Ở trừn mẫu giáo mọi ngời đều nói mẹ tôi nhìn rát già”. Mặt em đỏ như gấc, và đó là khi em ngửi thấy một báo hiệu khác thoảng trong gió. Sau khi em vừa thay tã cho nó hai lần. Nó đang ngồi bắt chéo chân trên sàn, em nâng nó lên, kéo chiếc Pamper ra để kiểm tra. Em đã mất bình tĩnh. “Sao con có thể làm thế?” Em gào lên. “Con gần như chẳng ăn uống gì, đống này từ đâu ra chứ?”
Cơn giận sôi lên trong máu, em đã không để ý rằng Kevin lúc này đang đung đưa chân ra khỏi thảm. Nó còi dí, như thể cơ thể nhỏ bé đần độn đó chứa một lượng phân vô tận. Không có cách nào khác để diễn tả việc này. Em ném nó sang bên kia phòng. Nó đáp xuống với một tiếng vang tẻ nhạt vào góc của chiếc bàn thay tã bằng thép không gỉ. Đầu nó ngoẹo một cách khó hiểu, như thể cuối cùng thì nó cũng thích thú điều gì đó, nó trượt, thật chậm, xuống sàn nhà.