Franklin thân yêu,
Hôm nay khi em gặp Kevin, má trái của nó bị bầm, môi sưng lên, những khớp ngón tay thì đóng vảy. Em hỏi xem nó có ổn không và nó nói rằng nó tự cắt vào da khi cạo râu. Có lẽ sự gây chú ý dở tệ nhất đã trở thành trò cười khi bạn bị nhốt. Điều đó mang lại cho nó sự hài lòng hiện hữu khi từ chối em tiếp cận vào những khổ cực bên trong đó, và em là ai mà đòi can dự vào chút niềm vui của nó; em không nhấn vào vấn đề đó nữa. Sau đó, em đã có thể khiếu nại với những người quản lý nhà tù về sự thất bại của họ trong việc bảo vệ con trai em, nhưng nghĩ lại những gì mà chính Kevin đã làm với bạn bè mình, phản đối một vài vết xước dường như còn tệ hơn là hay hờn dỗi.
Em đã bỏ qua mọi sự mào đầu. Em ngày càng thờ ơ với việc giúp nó cảm thấy thoải mái với mỗi lần em đến thăm trong khi nó chỉ nỗ lực nhằm vào sự bất ổn của em.
“Điều này cứ ám ảnh mẹ,” em vào thẳng câu chuyện. “Mẹ gần như có thể hiểu được rằng đang diễn ra vài sự điên cuồng bừa bãi, trút sự thất vọng của bản thân lên bất cứ ai tình cờ gặp trên đường.
Giống như gã đàn ông Hawaii trầm tính, khiêm nhường một hay hai năm trước, người bỗng nhiên thay đổi…”
“Bryan Uyesugi,” Kevin thêm vào. “Hắn ta nuôi cá.” “Bảy đồng nghiệp?”
Kevin vỗ tay một cách mỉa mai. “Hai nghìn con cá. Đấy mới là thảm sát Xerox. Hắn ta chỉ là một thằng sửa máy photocopy. Khẩu súng ngắn chín li.”
“Mẹ rất hài lòng, trải nghiệm này đã giúp con trở thành chuyên gia đấy.”
“Hắn ta sống ở phố Bình Yên.” Kevin nói thêm. “Đó đúng là ngõ cụt.”
“Điều mẹ muốn nói là, Uyooghi…” “Yoo-soo-ghee!” Kevin chỉnh lại.
“Rõ ràng chẳng quan tâm là những công nhân nào đang ở…” “Thằng đó là thành viên của Liên hiệp Cá chép Hawaii62. Chắc hắn ta nghĩ điều đó có nghĩa là mình nên phàn nàn.”
62 Hawaiian Carp Association, trong đó Carp vừa có nghĩa là cá chép vừa có nghĩa là kêu ca, chê bai.
Kevin đang cố thể hiện, em chờ một lúc để chắc rằng màn trình diễn đã kết thúc.
“Nhưng buổi tụ tập của con trong phòng thể chất,” em tiếp tục, “chỉ dành cho những người được mời”.
“Đồng bọn của tôi không bừa bãi. Ví dụ Michael McDermott nhé, tháng Mười hai vừa rồi. Ở Wakefield, tàn sát, công ty công nghệ Edgewater, AK 47 và súng ngắn 18.5 li. Mục tiêu cụ thể. Những kế toán. Bất cứ ai chịu trách nhiệm cho việc cắt giảm hai ngàn đô tiền lương của hắn.”
“Mẹ không muốn nói về Michael McDermott, Kevin...” “Thằng đó rất béo.”
“ ... hoặc là về Eric Harris hay Dylan Klebold...”
“Lũ đần độn, đặt những cái tên ngu xuẩn cho những kẻ giết người hàng loạt.”
Em từng nói với anh, Franklin, nó bị ám ảnh bởi lũ trẻ ở Columbine, những đứa đã hạ thấp nó chỉ mười hai ngày sau với nhiều hơn sáu nạn nhân; em chắc chắn rằng mình lôi chúng ra chỉ để chọc tức Kevin.
“Ít nhất thì Harris và Klebold vẫn còn đủ lịch sự để tiết kiệm cho những người nộp thuế một chút tiền và tự tìm một lối thoát nhanh gọn,” em lạnh lùng nhận xét.
“Mấy thằng nhát chết chỉ cố thổi phồng con số thương vong.” “Sao con không làm thế?”
Nó chẳng có vẻ gì là bị xúc phạm. “Sao phải thoải mái với tất cả mọi người.”
“Tất cả mọi người như mẹ chẳng hạn.”
“Tính cả mẹ, chắc chắn rồi,” nó trả lời trôi chảy.
“Nhưng tại sao là Dana Rocco mà không phải những giáo viên khác, sao lại là những đứa trẻ đó? Có điều gì khiến chúng trở nên đặc biệt?”
“Ờ, vì tôi không thích chúng.”
“Con chẳng thích ai cả,” em vặn lại. “Sao? Bọn nó đánh con khi chơi bóng đá à? Hay là chỉ đơn giản là con ghét thứ Năm?”
Với sự chuyên nghiệp mới mẻ của Kevin, sự liên hệ gián tiếp với Brenda Spencer của em đủ tiêu chuẩn để được coi là một sự ám chỉ tuyệt vời. Brenda đã giết hai người lớn và làm bị thương chín học sinh khác ở trường tiểu học ở San Diego, California, chỉ bởi vì một bài hát của Boomtown Rats mà đã trở thành hit sau vụ việc đó, “I Don’t Like Mondays.” Thực tế là sự tàn bạo từ trong trứng nước này đã có từ năm 1979, nó khiến cho cô bé mười sáu tuổi nổi bật hẳn lên như là một người đi trước thời đại. Cái cúi đầu của em trước những vị thần khờ dại của Kevin hẳn chỉ là một nụ cười đối với những đứa trẻ khác.
“Nghe như một dự án nhỉ, cắt bớt danh sách.”
“Khổng lồ!” Nó hào hứng đồng ý. “Bắt đầu với... như là năm mươi hay sáu mươi ứng cử viên. Tham vọng,” nó vừa nói vừa lắc đầu “... nhưng không thực tế”.
“Được rồi, chúng ta còn bốn mươi lăm phút nữa. Tại sao là Denny Corbitt?”
“... Miếng thịt lợn!” Nó nói như thể đang kiểm tra danh sách đồ tạp hóa trước khi đến quầy thanh toán.
“Con nhớ được tên người sửa máy photocopy ở Hawaii nhưng lại không nhớ tên của những người con đã sát hại sao?”
“Uyesugi đã thực sự làm được điều gì đó. Corbitt? Nếu tôi nhớ không nhầm thì thằng đó chỉ ngồi dựa vào tường và trợn mắt như thể chờ đạo diễn của nó đến đóng khung hình vậy.”
“Ừ được rồi, Denny là miếng thịt. Vậy thì sao?”
“Thấy thằng đần đó đóng vai Stanley trong Streetcar63 chưa? Tôi có thể làm giọng miền Nam dưới nước còn tốt hơn thế.”
63 Stanley Kowalski là một nhân vật trong vở kịch A Streetcar Named Desire của Tennessee Williams.
“Con đang đóng vai nào thế? Kẻ hay cằn nhằn? Kẻ huênh hoang? Con học từ đâu? Brad Pitt? Con biết đấy, con thỉnh thoảng cũng bắt chước giọng miền Nam. Và nó chẳng hay lắm đâu.”
Bạn tù của nó có thừa sự đen tối, và cách nói chuyện của nó cũng bắt đầu lệch lạc theo. Nó luôn nói chuyện với sự chậm rãi dị thường, rất tốn sức, như thể nó đang phải phải xúc từ ngữ lên từ miệng mình bằng một cái xẻng. Vậy nên kiểu nói trễ hàm của dân da đen thành thị khi bỏ qua các phụ âm và động từ đó lây nhiễm một cách tự nhiên. Dù sao thì em cũng vẫn cảm thấy khá hài lòng, em có vẻ đã làm nó khó chịu.
“Tôi không đóng vai nào cả, tôi chính là vai đó. Brad Pitt nên đóng vai tôi.” Nó nóng nảy.
(Vậy có nghĩa là nó đã nghe nói về bộ phim sắp phát hành của Miramax.)
“Đừng ngớ ngẩn thế!” Em nói. “Brad Pitt đã quá già để đóng vai một một thằng nhãi học năm thứ hai trung học. Kể cả nếu anh ta đang ở đúng độ tuổi, cũng chẳng khán giả nào tin rằng một người trông thông minh lanh lợi như thế lại làm điều gì khờ khạo đến vậy. Mẹ đã đọc báo thấy người ta đang gặp khó khăn trong việc tuyển diễn viên đấy, con biết chứ. Chẳng có ai ở Hollywood muốn nhận cái vai bẩn thỉu của con hay thậm chí là đến gần nhân vật đó.”
“Miễn là không phải DiCaprio,” nó cằn nhằn. “Hắn là một thằng đần.”
“Nói tiếp nhé. Thế vấn đề của con với Ziggy Randolph là gì? Con khó có thể buộc tội nó đã trượt khỏi tiêu chuẩn nghệ thuật xuất chúng của con, như Denny. Thằng bé đã có thể trở thành một vũ công ba-lê chuyên nghiệp trong tương lai.”
“Cái mà có thể trở nên chuyên nghiệp trong tương lai… là cái lỗ đít nó ấy.”
“Thằng bé đã nhận được sự đón nhận lớn khi đưa ra bài phát biểu đó, giải thích rằng nó đồng tính và nó tự hào về điều đó. Con không chịu nổi, phải không? Khi tất cả lũ học sinh hò hét rằng nó mới can đảm làm sao.”
“Thế mẹ thấy chuyện đó thế nào? Tung hô để bợ đít?” “Nhưng mẹ thực sự không hiểu tại sao lại là Greer Ulanov,” em nói. “Cô bé tóc lơ thơ, hơi lùn, có hàm răng nổi bật.”
“Răng vẩu,” nó sửa lại. “Như một con ngựa.” “Ai mà con chẳng thấy ngứa mắt.”
“Bất cứ điều gì khiến cô ta ngậm miệng lại và ngưng nói về cái âm mưu to lớn phe cánh hữu của cô ta.”
“À ra là con bé đó,” em nói. “Cái bản kiến nghị.” (Không biết anh có nhớ không nhưng mà một bản kiến nghị với các nghị sĩ New York đã được truyền tay nhau trong trường Trung học Gladstone khi Clinton bị buộc tội.)
“Thừa nhận đi má, thương thầm tổng thống đúng là một trò hạ đẳng.”
“Mẹ nghĩ là…” Em đánh liều nói. “... con không thích mọi người thương nhớ ai đó theo bất kỳ kiểu nào.”
“Nhiều giả thuyết thế? Bởi vì tôi nghĩ là... mẹ nên đi mà lo cho chính cuộc sống của mình đi.”
“Mẹ từng có một cuộc sống. Và con đã lấy nó đi.”
Bọn em đối mặt nhau. “Giờ con là cuộc sống của mẹ,” em nói thêm. “Tất cả những gì mẹ còn.”
“Thật thảm hại.”
“Nhưng chẳng phải kế hoạch là vậy sao? Chỉ mẹ và con, cuối cùng cũng có cơ hội để hiểu nhau?”
“Lại đoán mò! Không có hứng thú.”
“Soweto Washington.” Em có một danh sách dài, và em phải tiếp tục. “Thằng bé sắp có thể đi lại, mẹ đã đọc trên báo, con thất vọng phải không?”
“Sao tôi phải quan tâm?”
“Thế tại sao con lại quan tâm đến nỗi cố giết nó?” “Tôi không định giết nó,” Kevin tiếp tục khẳng định.
“À mẹ hiểu rồi. Thế ra con cố tình để lại hai lỗ thủng trên đùi thằng bé. Thiên đàng cấm ngài Hoàn-Toàn-Loạn-Trí bắn trượt.”
Kevin giơ tay lên. “Này, này! Tôi đã phạm sai lầm! Để cho thằng nhãi mọt phim đó thoát là điều tôi không lường trước.”
“Joshua Lukronsky,” em nhắc lại, mặc dù cả hai đang rất tập trung không màng xung quanh. “Con có biết là bạn con, Joshua đã được mời đến Miramax để tư vấn kịch bản không? Bọn họ muốn lịch sử được tái hiện chính xác. Với một đứa ‘mọt phim’ thì đó như là giấc mơ thành hiện thực nhỉ.”
Mắt Kevin trợn ngược lên. Nó không thích khi những nhân vật có quan hệ hời hợt nhặt nhạnh những dấu ấn của nó. Nó cũng đã phẫn nộ không kém việc Leonard Pugh đăng tải lên trang web của mình, bạn_thân_của_KK.com, nơi đã thu hút được hàng ngàn lượt truy cập để tìm hiểu về những bí mật đen tối nhất của con trai chúng ta chỉ với một cú nhấp chuột. Bạn thân cái đéo gì! Kevin chửi bới khi trang web đó xuất hiện. Lenny chỉ chơi thân được với một con chuột lang.
“Nếu điều đó giúp con thấy khá hơn,” em chua chát nói. “Sự nghiệp bóng rổ của Soweto đã không còn là một cú úp rổ nữa rồi.”
“Chà, cứ làm như đưa ra một sự thật nào đó có thể khiến tôi thấy khá hơn. Thế giới không cần thêm một thằng da màu chạy quanh cái rổ ở NBA. Toàn tin cũ rích.”
“Nói chuyện cũ ư? Một cuộc xả súng trường học khác ư?”
Kevin lau móng tay của mình. “Tôi thích nghĩ về chuyện đó như là một truyền thống.”
“Truyền thông cho rằng con ngắm vào Soweto bởi vì cậu ta da đen.”
“Nghe hợp lý đấy,” Kevin khịt mũi. “Chín đứa bị nhốt trong phòng thể chất và một đứa trong số chúng là Mỹ đen, và chúc mừng, đây là một tội ác do thù ghét.”
“Ồ đó là một tội ác do thù ghét, được rồi,” em nói. Kevin cười nửa miệng. “Chuẩn luôn!”
“Người ta nói điều tương tự về Miguel Espinoza. Rằng con chọn cậu bé vì nó là người La-tinh.”
“Tôi tha cho cả một cộng đồng đa sắc tộc, thế mà chúng nó gọi tôi là phân biệt chủng tộc đấy.”
“Nhưng lý do thực sự là vì thằng bé là một ngôi sao sáng trong học tập, phải không? Học vượt một lớp. Tất cả những điểm số cao chóng mặt trong các bài thi quốc gia và các bài PSAT64.”
64 Kỳ thi chuẩn bị cho thi SAT - bài kiểm tra đánh giá năng lực chuẩn hóa được sử dụng rộng rãi cho xét tuyển đại học trong hệ thống giáo dục Mỹ.
“Mỗi khi nói chuyện với ai nó, hóa ra nó chỉ đều muốn nhét cái từ ‘ma trận bậc thang’ vào.”
“Nhưng con biết ‘ma trận bậc thang’ là gì. Con biết tất cả các từ khó. Thế nên con mới tỏ ra cóc cần khi viết tất cả những bài luận chỉ bằng những từ có ba chữ.”
“Được rồi. Vậy thì không phải là tôi ghen tị. Mà, tôi đang sắp chán đến mức độ ba rồi đấy, nếu đó là những gì mẹ định làm.”
Em nghĩ một lúc, anh biết đấy, trông Kevin thực sự chán. Những nhà làm phim tài liệu như Jack Marlin, những nhà tội phạm học nổi lên với những cuốn sách bán chạy, hiệu trưởng và giáo viên và những người đáng kính được phỏng vấn trên bản tin: bố mẹ anh, Thelma Corbitt, Loretta Greenleaf... tất cả đều bị ám ảnh bởi một câu hỏi Tại sao KK lại làm thế? với sự phản đối đặc biệt của con trai chúng ta. Có một chủ đề nữa mà Kevin không thích nói đến: bản thân nó.
“Người nhân viên căn-tin,” em cất lời. “Anh ta không hợp với bức tranh lắm phải không?” (Em luôn cảm thấy lúng túng khi không thể nhớ được tên của anh ta.) “Anh ta không nằm trong danh sách phải không?”
“Thiệt hại đi kèm,” Kevin trả lời với giọng buồn ngủ.
“Và…” Em tiếp tục, quyết tâm nói điều gì đó để khiến nó hứng thú hơn. “Mẹ biết bí mật của con với Laura Woolford. Con bé xinh thật, phải không?”
“Giúp cô ta thôi. Đằng nào khi thấy mấy cái nếp nhăn bắt đầu xuất hiện thì cô ta cũng tự kết liễu đời mình.”
“Rất, rất xinh.”
“Vâng, dám cá là tất cả gương trong nhà cô ta đều mòn cả.” “Và con thích con bé đó.”
Nếu em còn bất cứ nghi ngờ gì, thì tiếng cười khả ố của Kevin đã quét sạch. Nó không thường như vậy, nhưng lúc đó nó đã làm em tin. Những đứa trẻ luôn rất rõ ràng. “Tin tôi đi,” nó chế nhạo, “tôi có gu tốt hơn thế. Mấy con búp bê Barbie đó chỉ là đồ trang trí”.
‘Con xấu hổ phải không?” Em khích bác. “Kẻ mắt, đồ Calvin Klein, kiểu tóc cầu kỳ. Những đôi giày gót thấp trắng sữa bóng loáng đó. Không phải phong cách KK lạnh lùng, xa cách.”
“Cô ta trông chẳng hấp dẫn lắm khi tôi xong việc.”
“Đó là câu chuyện quá cũ,” em chọc tức nó. “Sau khi trút bầu những tối tăm trong lòng với bạn bè rằng ‘nếu tôi không có được cô ấy thì không ai có thể…’ Charlie Schmoe nổ súng… Phải chăng đó là những gì mà mớ hỗn độn đáng tiếc này đang che đậy? Một thiếu niên mặt mụn phải lòng nữ hoàng vũ hội ngoài tầm với và rồi phát điên?”
“Cứ mơ đi,” Kevin nói. “Muốn biến chuyện này thành mối tình lãng mạn của Harlequin thì cứ việc tự tưởng tượng, không phải chuyện của tôi.”
“Luke Woodham đã tương tư phải không? Ở Pearl? Con biết đấy, thằng nhóc khóc lóc ấy.”
“Thằng đó mới chỉ đi chơi với Christy Menefee ba lần, và tụi nó đã chia tay cả năm rồi.”
“Laura đã cự tuyệt con phải không?”
“Tôi không bao giờ đến gần con ngu đó quá một dặm. Còn với thằng khốn Woodham đó, mẹ có biết mẹ nó đi cùng nó mọi lần hẹn hò không? Chẳng trách mà nó băm bà ta bằng một con dao chặt xương.”
“Chuyện gì đã xảy ra? Có phải cuối cùng con đã lấy hết can đảm để dồn con bé vào góc tủ đồ trong giờ ăn trưa? Con bé có tát con không? Cười vào mặt con chẳng hạn?”
“Mẹ cứ tự nói câu chuyện mẹ nghĩ ra thôi.” Nó vừa nói vừa gãi phần cơ hoành để lộ ra của mình. “Tôi không cấm được.”
“Nói với cả những người khác nữa. Đã có một nhà làm phim liên hệ với mẹ không lâu trước đây. Mẹ cực kỳ túng lúng khi nghe thấy ông ta nói ‘muốn nghe câu chuyện từ phía mẹ’. Có lẽ mẹ nên gọi lại cho ông ta. Mẹ có thể kể với ông ta chuyện tình yêu bị chối bỏ như thế nào. Con trai tôi đã nổi điên với những người không thân thiện và lịch sự với nó. Sau cùng, chuyện gì đã xảy ra với Laura? Kevin có lẽ đã gây ra một mớ lộn xộn với những người còn lại nhưng nó bắn cô bé thẳng vào tim, giống như Cupid của trường Gladstone. Tất cả những kẻ khốn khổ khác chỉ là trò ngụy trang, chỉ là... nó đã nói là gì nhỉ? À. Thiệt hại đi kèm!”
Kevin nghiêng người về phía trước và hạ giọng. “Mẹ có từng quan tâm đứa con gái nào tôi thích hoặc không thích trước khi tôi hạ gục vài đứa không? Mẹ có từng quan tâm đến bất cứ thứ gì diễn ra trong đầu tôi trước khi nó lộ ra ngoài không?”
Em sợ rằng ở điểm này thì em hơi rối trí. “Con muốn mẹ thấy tiếc cho con sao?” Em nói bằng giọng khó khăn, người lính gác mặt nốt ruồi nhìn về phía em. “Chà, trước hết thì mẹ thấy tiếc cho Thelma Corbitt và Mary Woolford. Cho nhà Ferguson và nhà Randolph, cho nhà Ulanov và nhà Espinoza. Mẹ thương cho người giáo viên đã còng lưng để cố len lỏi được vào bộ não quý giá của con, thương cho cậu bé chơi bóng rổ giờ đi lại thôi cũng khó khăn và thậm chí cả người nhân viên căn-tin mẹ chưa từng gặp, rồi sau đó chúng ta sẽ xem lại xem còn chút thương hại nào cho con không. Có thể còn một chút, nhưng con chỉ xứng đáng với chút thừa thãi còn lại. Và con nên cảm thấy may mắn với chút thừa thãi đó.”
“Nhe nhe nhé nhè nhe nhe.”
Rồi nó cười lớn. Franklin à, bất cứ khi nào em nổi giận mất kiểm soát nó đều có vẻ rất thỏa mãn.
Em thừa nhận rằng hôm nay mình đã cố làm nó tức điên. Em định khiến nó cảm thấy nhỏ bé, không phải như là câu hỏi hóc búa không có câu trả lời của Xã hội Đương thời mà là tâm điểm của trò cười, bị bêu riếu bởi sự thiểu năng của chính mình. Bởi vì mỗi khi Kevin giương cây cung lên giống như hiện thân của quỷ dữ, nó to lớn thêm một chút. Mỗi lời phỉ báng ném vào nó, vô chính phủ, thiếu đạo đức, trụy lạc, suy đồi hay hèn hạ, nuôi lớn cơ thể gầy gò của nó tốt hơn cả những chiếc bánh kẹp của em. Chẳng trách nó đang to lớn dần. Nó ăn những lời lăng mạ nhiệt tình của cả thế giới như một món ăn sáng. Chà, em không muốn nó cảm thấy không ai thấu hiểu được mình, như là một sự phóng đại về sự bất mãn của thế hệ; em không muốn để nó che đậy bản chất bẩn thỉu của cơ thể bé nhỏ khô khan, tẻ nhạt, nhảm nhí của nó bằng vỏ bọc to lớn của “Sự mất kiểm soát của giới trẻ ngày nay”. Em muốn nó cảm thấy như một mảnh đau khổ, dễ đoán của một thằng nhóc nhạt nhẽo ngu si. Em muốn nó cảm thấy ngu ngốc và yếu đuối và không quan trọng, và điều cuối cùng trên thế giới này mà em muốn tiết lộ là mỗi ngày em dành ra bao nhiêu thời gian để tìm hiểu xem điều gì làm cho thằng bé đó khó chịu.
Sự châm chọc của em về việc nó ám ảnh với Laura chỉ là một sự phỏng đoán. Mặc dù bất cứ lời ám chỉ nào về việc sự tàn bạo khủng khiếp của nó được bắt nguồn từ một trái tim nhỏ tan vỡ chỉ chắn là để gây khó chịu, em cũng không chắc rằng việc Kevin phải lòng Laura có chút nào liên quan đến ngày thứ Năm hay không. Tất cả những gì em biết là nó đang cố gắng gây ấn tượng với con bé.
Nhưng em đã làm một nghiên cứu về những nạn nhân đó, mặc cho chính bản thân nó có quan tâm hay không. Nhìn qua thì đó là một nhóm khác biệt, pha tạp đến nỗi ta có thể thấy tên họ nổi bật hẳn lên: một cầu thủ bóng rổ, một người Tây Ban Nha chăm chỉ, một người mê phim ảnh, một nghệ sĩ ghi-ta cổ điển, một diễn viên sân khấu đầy xúc cảm, một hacker, một học sinh đồng tính múa ba-lê, một nhà hoạt động chính trị giản dị, một vẻ đẹp thiếu niên hào nhoáng, một nhân viên căn-tin bán thời gian, và một giáo viên tiếng Anh tận tụy. Nhìn một cách đời thường: đó là một tập hợp tùy ý mười một nhân vật được chọn bừa từ danh sách năm mươi người mà con trai chúng ta chỉ tự dưng không thích.
Nhưng sự không hài lòng của Kevin không phải là điểm chung duy nhất của các nạn nhân. Được rồi, tạm bỏ qua người nhân viên căn-tin, rõ ràng là ngoài dự tính. Kevin có một đầu óc ngăn nắp, nó hẳn sẽ muốn một nhóm tròn mười người. Bên cạnh đó, mỗi người trong số họ đều đam mê một thứ gì đó. Bất kể niềm đam mê đó có được theo đuổi chỉ vì phô trương hay không. Dù bố mẹ thằng bé có nói thế nào, em vẫn biết rằng Soweto Washington không có cơ hội chơi chuyên nghiệp, còn Denny (thứ lỗi cho tôi Thelma) là một diễn viên dở tệ, bản kiến nghị của Greer Ulanov đến những nghị sĩ New York, những người sẽ bỏ phiếu cho Clinton, chỉ tốn thời gian. Chưa bao giờ có nhiều người sẵn sàng thừa nhận đến vậy, rằng sự ám ảnh với phim ảnh của Joshua Lukronsky rõ ràng gây khó chịu với cả nhiều học sinh khác chứ không chỉ con trai chúng ta, nó lúc nào cũng trích dẫn toàn bộ các đoạn hội thoại trong kịch bản của Quentin Tarantino và dàn dựng các cuộc thi chán ngắt vào giờ ăn trưa để xem ai có thể kể được tên mười bộ phim của Robert DeNiro theo thứ tự thời gian, khi mà những người khác chỉ thích thương lượng trao đổi bánh kẹp thịt bò để lấy một lát bánh bông lan. Cứ cho là vậy đi, Joshua thực sự rất yêu phim ảnh, ngay cả sự phiền toái lộ liễu đó cũng không khiến Kevin thèm muốn sự say mê đó. Có vẻ như niềm đam mê không phải vấn đề. Soweto Washington yêu thể thao và ít nhất là có chút ảo tưởng về tương lai với đội Knicks; Miguel Espinoza thì chăm chỉ học tập (bằng mọi giá để vào được Harvard); Jeff Reeves mơ ước trở thành nhà soạn nhạc Telemann; Denny Corbitt thần tượng nhà biên kịch Tennessee Williams; Mouse Ferguson là bộ vi xử lý Pentium III; Ziggy Randolph, “Câu chuyện miền Tây”; Laura Woolford yêu chính bản thân; còn Dana Rocco, hoàn toàn không thể tha thứ được, yêu Kevin.
Em nhận ra rằng Kevin không coi những ác cảm của nó như là sự ghen tị. Đối với Kevin, cả mười nạn nhân đều vô cùng lố bịch. Họ hào hứng với những thứ vặt vãnh, và sự nhiệt tình của họ thật nực cười. Nhưng cũng giống như bức tường đầy bản đồ của em, những đam mê mà nó không lĩnh hội được không bao giờ khiến nó cười. Ngay từ khi còn nhỏ, những đam mê đó đã khiến nó tức giận.
Chắc chắn rồi, trẻ con đứa nào chẳng phá phách đôi chút. Xé tan các thứ thì dễ hơn nhiều so với việc làm ra chúng, dù cho nó có phải chuẩn bị kỹ càng thế nào cho ngày thứ Năm thì việc giết những người đó cũng chẳng thể nào khó khăn bằng việc làm bạn với họ. Vậy nên sự hủy diệt như là một kiểu lười biếng vậy. Nhưng nó vẫn mang đến một sự thoả mãn tức thời: tôi đập phá nên tôi là như vậy. Mặt khác, đối với hầu hết mọi người, xây dựng là chặt chẽ, tập trung trong khi phá hoại mang đến sự giải thoát; bạn gần như phải là một nghệ sĩ để có thể thể hiện rõ ràng sự ruồng bỏ. Và muốn phá hoại thì cần phải sở hữu một sự thân mật, một sự chiếm đoạt. Bằng cách này, Kevin đã túm được Denny Corbitt và Laura Woolford vào trong ngực mình, hít lấy trái tim và sở thích của chúng. Sự tàn phá có lẽ được thúc đẩy bởi một thứ chẳng có gì phức tạp hơn là sự ham muốn lĩnh hội, một loại lòng tham lầm lạc, vụng về.
Em đã chứng kiến Kevin coi khinh sự vui vẻ của người khác cả cuộc đời nó. Em không thể đếm được số lần tìm thấy từ “yêu thích” trong những bài chỉ trích cực kỳ điên tiết của các bà mẹ: đôi ủng đỏ bị nhét đầy bánh ở lớp mẫu giáo chính là đôi giày yêu thích của Jason. Kevin có thể dễ dàng nghe lỏm được rằng chiếc kaftan trắng mà nó bắn đầy nước ép nho chính là chiếc váy dài chấm sàn yêu thích của em. Và quan trọng là mỗi mục tiêu thiếu niên di động trong phòng thể chất đó đều là những học sinh yêu thích của các giáo viên.
Nó dường như đặc biệt thích sỉ vả vào những thú vui mà em chỉ có thể nói là vô hại. Chẳng hạn, nó thường có thói quen cắt ngang bất cứ ai đang căn chỉnh để chụp một bức hình và cứ thế thong thả đi qua trước ống kính. Em đã bắt đầu khiếp sợ các chuyến đi của chúng ta đến các di tích quốc gia như chỉ để thay mặt người Nhật và các cuộn phim bị lãng phí của họ. Tại sao ư? Khắp trên thế giới đang rải rác hàng tá những bộ ảnh có lờ mờ mặt KK khét tiếng của chúng ta.
Những minh họa khác thì không đếm xuể, em chỉ trích dẫn một chi tiết thôi.
Khi Kevin vừa tròn mười bốn tuổi, em được yêu cầu tham gia buổi gặp mặt phụ huynh để giám sát buổi vũ hội mùa xuân của khối lớp tám. Em nhớ rằng mình đã có chút ngạc nhiên khi biết Kevin muốn tham gia, vì nó thường tẩy chay hầu hết các hoạt động của nhà trường. (Nghĩ lại, có lẽ điều thu hút là Laura Woolford, con bé có chiếc váy dạ hội ngắn lấp lánh hẳn đã tiêu tốn của Mary hàng trăm đô khi đó.) Bữa tiệc cuối năm đó là điểm sáng trong lịch hoạt động xã hội của trường, và hầu hết bạn cùng lớp của nó đã nhận thức từ trước về nghi lễ đặc biệt này từ năm lớp sáu. Ý nghĩa của việc đó là để cho bọn trẻ thực hành làm Thiếu niên Thực thụ và để cho chúng huênh hoang như những ông vua nhỏ trước khi bước chân vào trường trung học như những kẻ nô lệ dưới đáy của xã hội.
Dù sao thì em cũng đã đồng ý, không trông đợi gì việc tịch thu những chai nhỏ rượu Southern Comfort; em trân trọng những ký ức về những hớp rượu lén lút, nóng bỏng từ những bi-đông nhỏ đằng sau tấm màn sân khấu của trường Trung học William Horlick ở Racine. Em chưa từng muốn giữ nhiệm vụ Người-nhỏ-mọn-làm- mất-hứng và tự cho phép mình ngó lơ miễn là bọn trẻ vẫn kín đáo và không say bí tỉ.
Tất nhiên em đã quá ngây thơ, rượu Southern Comfort là thứ mà hội đồng ít lo ngại nhất. Trong cuộc họp mặt chuẩn bị một tuần trước đó, việc đầu tiên họ dạy những người giám sát là làm thế nào để phát hiện ra một ống co-ca-in. Các giáo viên vẫn còn đau đớn vì một vài sự cố quốc gia hồi đầu năm. Những đứa trẻ tốt nghiệp lớp tám mới chỉ mười bốn tuổi, nhưng Tronneal Mangum chỉ mới mười ba hồi tháng Một đó ở West Palm Beach, nó đã bắn chết một người bạn cùng học ngay trước cổng trường cấp hai vì thằng bé nợ nó bốn mươi đô. Ba tuần sau đó ở Bethel, Alaska (thật đáng xấu hổ Franklin à, em nhớ tất cả những thứ này bởi vì khi những cuộc trò chuyện ở Claverack trở nên nhạt nhẽo, Kevin thường tường thuật lại những câu chuyện này như những truyện kể trước khi đi ngủ yêu thích của nó), Evan Ramsey đã lấy khẩu súng săn 18.5 li từ nhà mình, sát hại một vận động viên học sinh nổi tiếng ngay trên bàn học, nổ súng trong trường rồi bám theo và thổi bay hiệu trưởng của trường. Thời của em, từ hiệu trưởng và nguyên tắc được phân biệt bằng cách ghi nhớ “Hiệu trưởng là BẠN của mình65”.
65 Từ nguyên tắc là Principle, hiệu trưởng là Principal, hai từ chỉ khác nhau phần đuôi. Trong câu “The Principal is your pal”, từ pal có nghĩa là bạn nhưng cũng để nhấn mạnh phần đuôi khác nhau.
Về mặt thống kê, dĩ nhiên ở một đất nước năm mươi triệu học sinh thì những vụ giết người đó là không đáng kể, và em vẫn nhớ mình trở về từ cuộc họp mặt và phàn nàn với anh về phản ứng thái quá của giáo viên. Họ than vãn về việc ngân sách không còn đủ để mua máy dò kim loại trong khi huấn luyện cả một đội ngũ giám sát soát người từng đứa trẻ. Và em đã thích thú một chút về sự phẫn nộ đòi tự do (điều này luôn làm anh bị kích động).
“Từ bao lâu nay lũ trẻ da đen và mấy đứa Tây Ban Nha vẫn nã súng lẫn nhau ở mấy cái trường trung học cơ sở như hố phân ở Detroit,” em bày tỏ quan điểm của mình vào bữa tối muộn ngày hôm đó. “Và tất cả đều rất ngẫu nhiên. Một vài đứa da trắng, một vài đứa trung lưu, những đứa trẻ ngoại ô hay nóng giận, có đường dây điện thoại riêng, có tivi riêng, được bao bọc, và bỗng nhiên nó trở thành vấn nạn quốc gia. Mà hơn nữa Franklin, anh nên thấy đám giáo viên và phụ huynh ngấu nghiến đống thông tin đó.” Miếng ức gà nhồi của em đang nguội dần. “Anh hẳn là chưa từng thấy nhiều sự tự phụ đến vậy, và khi em nói đùa một câu thì tất cả bọn họ quay ra nhìn em với biểu cảm chuyện này chả có gì vui cả, giống như mấy người an ninh sân bay khi người ta nói đùa về bom ấy. Tất cả bọn họ đều thích chuyện được làm việc ở tuyến đầu, làm một điều gì đó có vẻ nguy hiểm thay vì giám sát một buổi nhảy nhót của bọn trẻ, ôi Chúa ơi, là một phần của tâm điểm quốc gia nên họ nghĩ có thể đóng góp vào những sự kiện khủng hoảng chính trị. Em thề rằng ở một mức độ nào đó họ đều ghen tị, Moses Lake và Palm Beach và Bethel đều đã có một vụ, với Gladstone thì sao, sao chúng ta không thể có một vụ cơ chứ. Như thể tất cả bọn họ đều thầm hy vọng rằng miễn là Junior hay Baby Jane của họ có thể lẻn ra ngoài không một vết trầy xước thì sẽ thật tốt nếu buổi dạ vũ của lớp tám biến thành cuộc hỗn chiến và tất cả chúng ta đều có thể lên tivi trước khi những con số khô khan trở nên lỗi thời…”
Em khiến mình nghe có vẻ hơi bệnh hoạn, em sợ rằng mình đã phun ra những lời như vậy, và Kevin cũng có thể nghe thấy. Nhưng em không tin có một quy luật trong mỗi gia đình Mỹ là không được nói về những vụ nổ súng dù cách này hay cách khác. Như thể em đã bỉ bôi “khủng hoảng chính trị” và khiến họ khó chịu.
Em chắc rằng buổi dạ vũ này hiện lên trong tâm trí mình nhẹ nhàng đến vậy là bởi địa điểm tổ chức của nó. Sau cùng, đó chỉ là một ký ức không đáng để kể dù nó có khiến những bậc cha mẹ đó thất vọng hay không, bữa tiệc trôi qua mà không gặp chút trở ngại nào, và chỉ có một học sinh coi đó là thảm họa. Em còn chẳng nhớ nổi tên cô bé.
Đó là phòng thể chất, bữa tiệc được tổ chức ở phòng thể chất. Bởi vì trường cấp hai và trường cấp ba được xây trên cùng một khu nên một vài cơ sở vật chất được sử dụng chung. Và cơ sở vật chất cũng rất tốt, ngôi trường tốt này cũng là một phần lý do khiến anh quyết định mua nhà gần đó. Vì, với sự thất vọng của anh, Kevin không tham gia vào mọi môn thể thao ở trường. Chúng ta chưa bao giờ phải đến những trận đấu bóng rổ nên việc ngồi trông trẻ này là cơ hội duy nhất em được trải nghiệm nhà thể chất từ bên trong. Đứng một mình, nó giống như một cái hang lớn, cao hai tầng, bóng loáng và đắt tiền. Em nghĩ thậm chí nó còn có thể biến thành một sân khúc côn cầu trên băng. (Thật phí phạm làm sao, em đã đọc được rằng hội đồng trường Nyack đã quyết định phá dỡ tất cả. Rõ ràng là đám học sinh tránh né các môn học giáo dục thể chất bằng việc kêu ca rằng nơi đó bị ám.) Tối đó, căn phòng trở thành một buồng vang khá bùng nổ cho DJ. Mọi dụng cụ thể dục được dọn dẹp sạch sẽ, và mặc dù sự mong đợi của em về những quả bóng bay và những dải ruy băng rõ ràng là một sự phê pha bởi chính điệu nhảy xoắn của mình từ năm 1961, họ chỉ treo một quả cầu vũ hội lớn ở giữa.
Có lẽ em là một bà mẹ đồi bại, cứ nghe em nói, đó là sự thật, nhưng em không thảm hại đến nỗi bám theo đứa con trai mười bốn tuổi trong buổi dạ vũ của nó. Vậy nên em lui về bên kia phòng thể chất, tận hưởng một góc nhìn tốt của một bên mặt nó đang dựa vào bức tường bê tông khối. Em đã rất tò mò. Em hiếm khi nhìn thấy Kevin trong hoàn cảnh xã hội lớn. Đứa học sinh duy nhất bên cạnh nó là Leonard Pugh không gì lay chuyển, với khuôn mặt chồn cười hi hi, và thậm chí ở khoảng cách một trăm thước cũng toát ra những lời nịnh bợ chảy mỡ, một tiếng cười xum xoe dường như luôn có chút mùi nhạt nhẽo của miếng cá để lâu ngày. Lenny mới xỏ khuyên mũi, và chỗ xung quanh cái khuyên đã bị nhiễm trùng, một bên lỗ mũi có màu đỏ tươi và to gần gấp rưỡi lỗ mũi còn lại, vài đốm kem bôi kháng sinh của nó còn bắt sáng. Có điều gì đó ở đứa trẻ này luôn khiến em nghĩ đến những vết bẩn màu nâu trong quần lót.
Kevin lúc này đã bắt đầu thể hiện phong cách thời trang với quần áo tí hon của nó và Lenny cũng bắt chước (hiển nhiên rồi). Cái quần bò màu đen của Kevin có lẽ vừa vặn với nó hơn khi nó mười một tuổi. Gấu quần chỉ dài đến giữa bắp chân, để lộ vài sợi lông sẫm màu mọc trên cẳng chân, khóa quần còn gần như không thể kéo lên hết. Những cái quần lửng màu mè của Lenny hẳn trông sẽ rất gớm ghiếc kể cả khi nó vừa vặn. Cả hai đứa đều mặc áo phông Fruit of the Loom màu trắng bị kéo căng hết cỡ, để lại hai xen-ti-mét hở dưới gấu như thường lệ.
Cũng có thể là do em tưởng tượng ra, nhưng dường như mỗi khi có đứa bạn học nào đi qua, chúng đều cố tránh hai đứa nó càng xa càng tốt. Em có lẽ đã nhận ra rằng con trai chúng ta xuất hiện như một vật cần phải tránh, hơn nữa, bọn trẻ không hề cười khúc khích khi thấy Kevin như thể nó bị xã hội ruồng rẫy. Thậm chí, nếu bọn trẻ đang cười đùa chuyện gì đó, chúng bỗng im bặt. Thực tế, khi đi ngang qua bộ đôi đó, đám học sinh ngưng nói chuyện với nhau và chỉ tiếp tục khi thoát hẳn khỏi tầm nghe của hai đứa nó. Những cô gái căng thẳng bất thường, như thể chúng nín thở. Thay vì liếc nhìn hiệp hội quần áo tí hon, ngay cả những đứa tập bóng bầu dục cũng chỉ nhìn thẳng, chỉ ném ngược lại một cái nhìn bực bội về phía Kevin và con chuột lang của nó từ một vùng ném an toàn. Khi những đứa trẻ lớp tám tạm rời sàn nhảy và đứng tản mát quanh các bức tường thì khoảng cách phía hai bên con trai ta và bạn nó vẫn bị bỏ trống đến mười mét. Không một đứa bạn học nào của nó gật đầu, hay mỉm cười, hoặc mạo hiểm bằng một vài trò đùa vô hại, như thể chúng ngần ngại trước rủi ro. Là gì?
Em đã nghĩ rằng âm nhạc sẽ khiến mình cảm thấy già nua, vì một đống những bài hát em chưa từng nghe qua, những âm thanh dồn dập sẽ vượt quá sức chịu đựng già nua. Nhưng khi âm thanh bắt đầu phát ra, giữa một loạt các sự lựa chọn những ca khúc vui tươi vượt thời gian, vẫn những “nghệ sĩ” đó, như cách chúng ta từng giả vờ gọi họ ngày ấy, những ca khúc chúng ta vẫn lắc lư theo ngày chúng ta ngoài hai mươi: The Stones, Credence, The Who; Hendrix, Joplin, và The Band; Franklin, Pink Floyd! Chẳng có việc gì làm và chuếnh choáng sau vài ly rượu pân ngọt, em tự hỏi liệu bạn bè đồng trang lứa với Kevin vẫn gật gù theo Crosby, Stills, Nash, & Young, The Grateful Dead, và kể cả The Beatles vì họ đã khiến cho thế hệ của chúng ta thật đặc biệt, hay do thế hệ của chúng nó quá thiếu thốn. Khi “Stairway to Heaven” cất lên, con ngựa chiến già nua đó, em phải cố nín cười.
Em không bao giờ nghĩ rằng sẽ nhìn thấy Kevin nhảy, việc đó hẳn là rất ngu ngốc, và với một sự kiên quyết, thằng bé không hề thay đổi từ năm bốn tuổi. Đám nhóc còn lại miễn cưỡng ùa ra sàn nhảy như một phép lịch sự tối thiểu. Chúng ta cũng từng như vậy, không ai muốn làm người đầu tiên để thu hút quá mức sự chú ý. Ngày xưa, bọn em thường không ngừng thách đố nhau, mượn chút can đảm của người Hà Lan sau khi cạn vài ly rượu, rồi cuối cùng đẩy nhau lộn xộn bước ra sân khấu cho đến khi số-người-an-toàn tối thiểu đạt ít nhất là mười người. Vì vậy em đã bị ấn tượng, trong khi giữa sàn chẳng có gì khác ngoài những đốm tròn sáng từ quả cầu vũ hội, một linh hồn cô độc bước vào. Cô bé không nhận lấy cho mình một góc tối mà chọn vị trí trung tâm.
Với làn da tái nhợt, cô bé không chỉ có mái tóc vàng mà cả lông mày và lông mi cũng vàng khiến cho tổng thể các đặc điểm đều nhạt nhòa. Có một điểm yếu ở chiếc cằm của cô bé, nhỏ và lẹm, và gần như vì chính đặc điểm này khiến cho cô bé có chút kém xinh. Một vấn đề khác là trang phục. Hầu hết những đứa con gái khác trong buổi vũ hội lựa chọn giải pháp an toàn với quần bò, và em chỉ thấy vài chiếc váy hoặc là bằng da màu đen hoặc là đính kim sa và nổi bật hẳn lên như Laura Woolford. Nhưng cô bé mười bốn tuổi này, để tóm tắt thì hãy gọi cô bé là Alice, mặc một chiếc váy kẻ màu be, có phần tay bồng, dài gần đến đầu gối và sau lưng buộc một chiếc nơ. Cô bé cài nơ trên tóc và đi đôi giày da nổi bật. Cô bé rõ ràng đã được một bà mẹ bị ảnh hưởng ghê gớm bởi ý tưởng nghèo nàn về những gì một cô gái nên mặc đến một “bữa tiệc”, không quan tâm đang là thời đại nào.
Thậm chí em cũng nhận ra rằng Alice thật nhà quê, một từ đã được lưu truyền từ thế hệ chúng ta sang những thế hệ tiếp theo minh chứng cho ý nghĩa bất diệt của nó. Vậy sành điệu thì khác gì? Đó là một thứ không thể thay đổi được. Vào thời hoàng kim của chúng ta, dù sao thì những đứa mọt sách bình thường vẫn có lợi hơn đôi chút vì thái độ sợ sệt và hối lỗi, chỉ luôn nhìn chằm chằm xuống giày. Nhưng em sợ rằng cô bé cằm lẹm đáng thương này không có đủ sự nhanh nhạy xã hội để hối hận về chiếc váy tay bồng, kẻ sọc màu be và buộc nơ của mình. Khi mẹ cô bé mang nó về nhà, chẳng nghi ngờ gì việc nó sẽ vòng tay ôm chầm lấy bà với lòng biết ơn ngốc nghếch.
Chính “Stairway to Heaven” đã lôi kéo Alice sải bước xuống sàn. Tuy rằng chúng ta đều có thể giữ một vị trí ấm áp trong tim mình cho bài hát cũ của Led Zeppelin đó, nhưng nó chậm kinh khủng và cá nhân em nhớ rằng giai điệu của nó khó mà nhảy theo được. Điều đó cũng chẳng ngăn được Alice. Cô bé mở rộng cánh tay và xoay những vòng tròn lớn với đôi mắt nhắm nghiền. Cô bé đã hoàn toàn thoát xác, quên mất rằng cú xoay nhiệt tình đó có thể làm lộ quần lót của mình. Và khi cô bé bị cuốn theo tiếng đàn ghita bass, động tác của nó lạc khỏi những giai điệu rock-and-roll mà ngả nghiêng giữa điệu ba-lê vụng về với điệu nhảy chiêu thần của những người Hồi giáo mật tông.
Nghe có vẻ em đang hơi cay độc, nhưng thực ra em đã bị Alice mê hoặc. Cô vũ công Isadora Duncan bé nhỏ chưa được đào tạo của chúng ta đã hoàn toàn tự do, cực kỳ hồ hởi! Em thậm chí còn hơi ghen tị với cô bé. Em đau khổ nhớ lại lúc mình nhảy nhót trong căn gác xép ở Tribeca với những ca khúc của Talking Heads khi đang mang bầu Kevin, và nó khiến em buồn vì giờ mình đã không còn làm việc đó nữa. Mặc dù lớn hơn Celia tám tuổi, nhưng có điều gì đó ở Alice khi nó xoay tròn trên đầu ngón chân từ đầu này đến đầu kia của phòng thể chất khiến em nhớ đến con gái chúng ta. Không giống như một người thích phô trương, cô bé dường như xuống sàn chỉ vì đây là bài hát yêu thích của nó, và cũng vì những khoảng trống giúp cho việc xoay tròn trở nên dễ dàng hơn. Có lẽ cô bé từng thể hiện cảm xúc trong phòng khách nhà mình với chính bài hát đó và thấy rằng chẳng có lý do gì mà không thể nhảy chính xác cùng một điệu nhảy khoa trương đó chỉ bởi vì hai trăm đứa thiếu niên xấu tính đang lảng vảng xung quanh.
Nó dường như không bao giờ dừng lại, nhưng “Stairway to Heaven” đã gần kết thúc, Kevin đáng ra nên chờ thêm hai phút nữa. Nhưng không. Em cảm thấy một nỗi sợ hãi kỳ lạ ập đến khi nó bắt đầu tách khỏi bức tường bê tông và chậm rãi đi thẳng chính xác về hướng Alice, bám theo cô bé như một tên lửa tầm nhiệt. Rồi nó dừng lại, ngay dưới quả cầu vũ hội, tính toán chính xác cú xoay tiếp theo của Alice sẽ đáp tai trái của cô bé ngay trước miệng nó. Ở đó. Chạm. Nó cúi người, chỉ một chút xíu, và thì thầm.
Em sẽ không giả vờ rằng mình biết nó nói gì. Nhưng hình ảnh đó đã thông báo cho em về sự tái hiện sau đó của ngày thứ Năm. Alice đông cứng người. Mặt cô bé tràn ngập sự tự thức tỉnh mà không hề có trước đó. Nó đảo mắt sang trái rồi sang phải, không thể tìm thấy một nơi nào an toàn để nghỉ ngơi. Bỗng nhiên nhận thức quá rõ những người đang nhìn mình, cô bé dường như cảm thấy mình có nghĩa vụ phải hoàn thành điều mà mình đã dại dột khơi mào. Bài hát vẫn chưa kết thúc nên Alice buộc lòng phải giữ thể diện bằng cách nhún nhảy thêm một vài nhịp nữa. Khoảng bốn mươi giây tiếp theo, cô bé loạng choạng trong một điệu nhảy ma quỷ chậm chạp đến chết chóc, giống như Faye Dunaway trong đoạn kết của phim Bonnie và Clyde66.
66 Bộ phim có thật về hai tội phạm giết người, cướp của khét tiếng một thời ở Mỹ. Bonnie do Faye Dunaway thủ vai đã bị cảnh sát bắn chết ở cuối phim.
DJ đã khéo léo chuyển sang bài “White Rabbit” của Jefferson Airplane, Alice tóm lấy chiếc váy sọc của mình và kẹp vào giữa hai chân. Lao vào một góc tối, cô bé ép chặt hai khuỷu tay vào eo như thể mỗi bàn tay đều đang cố trốn dưới tay còn lại. Em có thể cảm nhận được rằng, bằng một cách bệnh hoạn nào đó, chỉ trong vài phút vừa qua, cô bé đã trưởng thành. Giờ con bé biết rằng chiếc váy của mình thật dị hợm, rằng cái cằm của mình thật xấu xí. Rằng mẹ cô bé đã phản bội con gái mình. Rằng cô bé thật nhà quê. Rằng cô bé sẽ không bao giờ xinh đẹp. Và hơn hết, Alice đã học được rằng không bao giờ được nhảy trên một cái sàn nhảy trống trơn, và có lẽ là bất kỳ sàn nhảy nào, suốt phần đời còn lại của mình.
Em không có mặt ở đó vào ngày thứ Năm. Nhưng hai năm trước đó, em đã chứng kiến một điềm báo cho ngày đó ở chính căn phòng đó, khi một học sinh cô độc của trường cấp hai Gladstone bị ám sát.