Franklin thân yêu,
Đồng nghiệp của em, Ricky, đã đến chỗ em cuối giờ làm hôm nay, dường như anh ấy chưa từng nghĩ rằng lời đề nghị của mình là quá khó nói: Anh ấy mời em góp mặt tại nhà thờ của anh ấy. Em đã lúng túng, cảm ơn anh ấy và nói một cách mơ hồ “Chắc tôi không đến được”. Anh ấy không để yên mà hỏi em tại sao. Em nên nói gì? “Bởi vì tôi là một mớ hỗn độn”? Em luôn cảm thấy hạ mình đôi chút với những người có tôn giáo, cũng như họ thường hạ mình với em. Vậy nên em nói, em mong mình đến được, đó là điều em có thể tin, và đôi khi rất cố gắng để tin, nhưng trong suốt những năm qua chẳng có một thứ gì đó tốt đẹp xảy đến với em. Sự đáp lại của Ricky về những cách bí mật không để lại mấy ấn tượng cho cả hai. Bí mật, em đã nói vậy. Giờ em có thể nhắc lại.
Em thường nghĩ lại ký ức đáng nhớ ở công viên Riverside trước khi chúng ta trở thành cha mẹ. “Ít nhất thì một đứa trẻ cũng là câu trả lời cho câu hỏi lớn.” Em đã băn khoăn khi cuộc sống của anh luôn đặt ra câu hỏi lớn với sự cố chấp đến vậy. Khoảng thời gian son rỗi của chúng ta cũng có những thâm hụt, em nhớ đã thêm vào cuộc trò chuyện đó rằng có lẽ chúng ta đã “quá hạnh phúc”, một sự rõ ràng dễ chấp nhận hơn sự thừa thãi những trống rỗng đầy đau khổ. Có thể em nông cạn, nhưng anh là đủ với em. Em thích việc nhìn chăm chú gương mặt anh bên ngoài cửa Hải quan sau những chuyến đi dài khó khăn với anh nhiều hơn là với em, và cuộn mình ngủ cạnh anh đến sáng hôm sau trong chiếc chăn ấm áp. Chỉ vậy là đủ. Nhưng chỉ hai ta dường như là không đủ với anh. Trong khi giữa chúng ta, điều đó làm anh càng cải thiện hơn về tinh thần, thì nó làm em càng tổn thương.
Nhưng nếu không có lý do gì để sống mà không có một đứa trẻ, thì lý do gì để phải có một đứa? Để trả lời cho một cuộc đời bằng một cuộc đời kế tiếp chỉ đơn giản là chuyển trách nhiệm cho thế hệ tiếp theo, sự dịch chuyển cộng dồn thành một sự trì hoãn hèn nhát vô hạn. Câu trả lời của con cái anh, đoán chừng, cũng chính là sự sinh đẻ, và việc đó giúp chúng tự đánh lạc hướng chính mình, để đẩy sự vô tâm đó cho con cháu chúng.
Em nói đến vấn đề này vì em nghĩ anh đã thực sự mong rằng Kevin sẽ trả lời cho câu hỏi lớn của anh, và rằng nó có thể cảm nhận được sự kỳ vọng đó từ những năm đầu đời. Bằng cách nào? Những thứ nhỏ nhặt. Sự tích cực trong giọng nói của anh, bên dưới đó ẩn chứa một sự tuyệt vọng rụt rè. Sự nhiệt thành trong cái ôm của anh có thể khiến nó thấy ngột ngạt. Sự quyết tâm của anh trong việc dọn dẹp hiên nhà mỗi cuối tuần để nó tùy ý sử dụng; trong khi đó em không tin lắm việc trẻ con muốn bố mẹ chúng bận rộn cả ngày chỉ để phục vụ cho những nhu cầu nhỏ nhặt của chúng. Trẻ con muốn được đảm bảo rằng bố mẹ luôn có những việc khác để làm, những việc quan trọng, đôi khi còn quan trọng hơn cả chúng.
Em không có ý là bỏ bê. Nhưng nó chỉ là một cậu bé con, và chỉ mình nó phải trả lời cho câu hỏi lớn khiến ngay cả người cha trưởng thành của nó còn lúng túng. Thực là một gánh nặng đặt lên vai một đứa trẻ chỉ vừa mới xuất hiện! Điều tệ hơn là trẻ con, cũng giống như người lớn, thay đổi mãnh liệt trong sự khao khát tín ngưỡng. Celia giống em nhiều hơn: một cái ôm, một cây bút màu, một chiếc bánh quy và con bé hài lòng. Mặc dù Kevin dường như không muốn bất cứ thứ gì, giờ em nhận ra là nó cồn cào thèm muốn về mặt tinh thần.
Cả hai chúng ta đều không còn đi lễ nhà thờ nữa, vậy nên việc không nuôi dạy những đứa con của chúng ta thành người A-me-ni-a Chính giáo hay người của Giáo hội Trưởng lão là có lý. Mặc dù em không muốn phản biện rằng giới trẻ ngày này chỉ cần mở Cựu Ước ra là được, nó trấn an em rằng nhờ chúng ta mà Kevin chưa bao giờ vào bên trong một nhà thờ. Sự thật là việc em và anh được nuôi dạy để tránh xa vài thứ có thể có lợi cho chúng ta mà ta biết rằng chúng chỉ ở ngay sau, và chúng ta không giống như vậy. Vậy nên em cũng băn khoăn liệu Kevin có khá hơn không nếu chúng ta thổ ra những thứ vô nghĩa và nó có thể phun lại vào mặt chúng ta: những tưởng tượng ngông cuồng về sự sinh nở đồng trinh và những điều răn trên đỉnh núi thực sự mắc kẹt trong cổ họng của những đứa trẻ. Em đang không thực tế: em đồ rằng ta có thể làm giả một niềm tin vì lợi ích của những đứa trẻ, và chúng biết chúng ta chỉ đang làm bộ làm tịch. Tuy nhiên, việc khước từ những thứ cặn bã hiển hiện cũng giống như hướng dẫn du lịch và quảng cáo Oldsmobile buộc phải gây ra sự không hài lòng.
Những giáo viên của Kevin, ngoại trừ Dana Rocco, không bao giờ phát hiện ra sự thèm khát của nó, ưu tiên chẩn đoán đứa bé chậm chạp của chúng ta như là một nạn nhân nữa của chứng rối loạn thiếu tập trung theo xu thế. Họ quyết tâm tìm một sai sót cơ học nào đó ở nó, vì một chiếc máy hỏng thì có thể sửa được. Giúp đỡ một người bất tài thụ động thì dễ hơn là giải quyết một vấn đề đáng sợ của một kẻ bất cần khó chịu. Rõ ràng khả năng tập trung của Kevin là có thật. Cứ nhìn vào cách nó cần mẫn chuẩn bị cho ngày thứ Năm hay sự thông thạo hoàn hảo ngay tức thì bảng vàng của những kẻ độc ác, và ngay cả số lượng cá cảnh của Uyesugi. Nó bỏ dở bài tập không phải vì không thể hoàn thành mà là vì nó có thể.
Sự thèm khát này có thể giải thích phần nào sự tàn nhẫn của nó, trong khi những thứ khác chắc hẳn thật lạc lõng khi xuất hiện trong đời nó. Chưa từng thấy một vấn đề nào của bất cứ thứ gì mà nó vô tình bỏ qua. Nhóm Spice Girls ngu ngốc, máy Sony Playstations ngu ngốc, phim Titanic ngu ngốc, tham quan trung tâm mua sắm ngu ngốc, làm sao chúng ta có thể phản đối? Tương tự, chụp ảnh ở bảo tàng Cloisters ngu ngốc và nhảy “Stairway to Heaven” vào cuối những năm chín mươi ngu ngốc. Khi Kevin gần mười sáu tuổi, những niềm tin này càng trở nên bạo lực hơn.
Nó không muốn phải trả lời câu hỏi lớn của anh, Franklin. Nó muốn một câu trả lời từ anh. Sự dông dài lê thê được ngụy trang như là sự sống đơm hoa kết trái hiện lên thật ngớ ngẩn trong mắt Kevin ngay từ khi nó còn trong cũi và điều nó nói hôm thứ Bảy vừa rồi rằng nó đã cho Laura Woolford “một ân huệ” vào ngày thứ Năm có lẽ là thật.
Nhưng em, em thật hời hợt. Ngay cả khi những chuyến đi không còn lấp lánh nữa, em vẫn có thể thử những món ăn, thời tiết của chính những đất nước cũ kỹ đó đến cuối đời, miễn là em vẫn có thể lao vào vòng tay anh ở sân bay Kennedy khi trở về. Em không muốn gì nhiều hơn. Kevin chính là người đặt ra câu hỏi lớn của em. Trước khi nó xuất hiện, em đã quá bận rộn với một doanh nghiệp phát đạt và một cuộc hôn nhân tuyệt vời để bận tâm nó rút cục có ý nghĩa gì. Chỉ đến khi em mắc kẹt với một đứa trẻ chán nản trong một ngôi nhà xấu xí ngày này qua ngày khác em mới tự hỏi lý do là gì.
Và từ ngày thứ Năm? Nó đã lấy mất câu trả lời đơn giản của em, cách em gian lận, tùy tiện tóm tắt ý nghĩa của cuộc đời.
Chúng ta cuối cùng cũng mặc kệ Kevin khi nó mười bốn tuổi và em đang dần trở nên bất ổn. Em có lẽ đã nhấn mạnh nhiều quá về thời thơ ấu của Kevin để tránh nhắc lại sự cố gần đây hơn khiến em và anh dằn vặt lẫn nhau. Rõ ràng là chúng ta đều sợ hãi việc ngược dòng qua những sự kiện mà ta thấy thật may vì chúng đã kết thúc. Nhưng chúng không kết thúc. Không phải với em.
Trong suốt học kì I lớp 9 của Kevin năm 1997, có hai vụ xả súng trường học khác: ở Pearl, Mississippi và Paducah, Kentucky, cả hai thị trấn nhỏ em đều chưa từng nghe qua, và cả hai giờ đều vĩnh viễn được nhắc đến trong vốn từ vựng của người Mỹ như là từ đồng nghĩa với cơn thịnh nộ của thanh thiếu niên. Thật ra Luke Woodham ở Pearl không chỉ bắn mười đứa trẻ, đe dọa tính mạng ba người, mà còn giết mẹ mình, đâm bà ta bảy nhát và đập nát hàm bà ta bằng chiếc gậy bóng chày bằng nhôm, có lẽ nó đã khiến cá nhân em hơi chùn lại một chút. (Thực ra, em đã để ý khi những báo cáo đầu tiên bắt đầu tràn ngập khắp nơi: “Nhìn xem, tất cả bọn họ đều chỉ bàn luận về việc nó đã giết những đứa trẻ kia như thế nào. Và rồi, à mà nhân tiện, nó cũng giết cả mẹ mình nữa đấy. Rõ ràng tất cả vấn đề là do người mẹ”. Điều này, như một lẽ tất nhiên, là một nhận xét đủ điều kiện pháp lý như là thừa nhận chống lại lợi ích.) Tuy thế, em cũng không tự phụ đến nỗi tự đổ lỗi cho mình suốt quãng thời gian đó đã có một dự cảm sâu sắc, như thể em cảm nhận những bi kịch lặp đi lặp lại trên thời sự này như đang đếm ngược đến với những bất hạnh không thể tránh được của gia đình chúng ta. Không một chút nào. Giống như tất cả các bản tin, em coi chúng là những thứ chẳng liên quan gì đến mình. Dù muốn dù không, em đã biến đổi từ một kẻ lang thang vô lo vô nghĩ thành một bà mẹ ngoại ô da trắng giàu có, và em không thể không mất bình tĩnh trước những ý nghĩ điên cuồng từ chính sự non nớt của mình. Thế giới tội phạm giết người ở Detroit hay Los Angeles xảy ra ở một hành tinh khác; còn Pearl và Paducah thì trên hành tinh của em.
Em thực sự không thích chú ý đến những thằng nhóc này, chúng không thể quy phục cô bạn gái kỳ cục không đáng tin, người bạn cùng lớp hay châm chọc, hay sự xao nhãng của người cha/mẹ đơn thân chỉ suốt ngày làm việc, những người mà không thể sắp xếp số thời gian ít ỏi của họ cho ngôi trường công khốn khổ của con họ giống như tất cả chúng ta, mà không khắc sâu những vấn đề như cơm bữa của mình vào cuộc sống của những gia đình nào khác. Gần như cũng chính sự phù phiếm nhỏ nhặt này đã khiến cho những đứa trẻ ngang ngược như bạn bè đồng trang lứa đó khắc những cái tên nhỏ bé đáng sợ của mình thành các tượng đài quốc gia. Và sự tự than thân trách phận! Sinh vật cận thị tên Woodham đó đã chuyển một tờ ghi chú cho một người bạn trước khi nổi cơn thịnh nộ cùng cây súng trường của bố: “Suốt đời mình tôi đã bị chế nhạo. Luôn bị đánh, luôn bị ghét. Xã hội, các người có thể trách tôi vì những gì tôi làm ư?”. Và em có thể trả lời ngay trong một tích tắc, Có chứ thằng nhãi khốn khiếp!
Michael Carneal ở Paducah cũng là kiểu tương tự, thừa cân, bị trêu chọc, đầm mình trong sự đau khổ nhỏ bé của mình như cố ngâm mình trong một vũng nước. Nhưng nó chưa từng gặp vấn đề về kỷ luật nào trước đó, việc tồi tệ nhất mà nó từng bị bắt gặp là xem kênh chiếu các video Playboy. Carneal vang danh bởi nổ súng vào một nhóm người cầu nguyện. Nó đã giết được ba học sinh và làm bị thương năm, nhưng có thể thấy từ những lễ tưởng niệm tha tội và các biểu ngữ khoan dung trên cửa sổ lớp học, có cái không chỉ in hình những nạn nhân của Carneal mà cả hình của chính nó lồng trong một trái tim, sự tái sinh giúp họ có thể tha thứ cho nó cho tới chết.
Cái đêm tháng Mười khi mà tin tức về Pearl xuất hiện, em bật dậy khi em và anh đang cùng xem chương trình tin tức do Jim Lehrer dẫn: “Chúa ơi, một vài đứa nhóc gọi nó là thằng bóng và đẩy nó ở lối đi, và rồi bỗng nhiên nó trở thành ôi, ôi, tôi phải bắn cái trường này, tôi phải thoát khỏi tất cả những thứ áp lực khủng khiếp này! Từ bao giờ họ khiến cho trẻ con Mỹ yếu đuối đến vậy?”.
“Ừ, em thử nghĩ xem,” anh đồng ý, “có vấn đề gì khi lôi nhau ra sân chơi mà giải quyết với nhau chứ?”.
“Có lẽ chúng sợ tay sẽ bị bẩn.” Em gọi con trai chúng ta khi nó đang lướt vào bếp, nó đã nghe lén, đó là cách mà nó thích để tham gia vào chuyện gia đình. “Kevin, bọn con trai ở trường con giờ không giải quyết mâu thuẫn bằng nắm đấm như ngày xưa nữa à?”
Nó dừng lại để nhìn về phía em, nó luôn phải cân nhắc xem những điều em hỏi có đáng để trả lời không. “Lựa chọn vũ khí…” cuối cùng nó cũng nói nốt “... chỉ là một nửa cuộc chiến”.
“Cái đó thì có nghĩa gì chứ?”
“Woodham yếu đuối, ủy mị, không nổi tiếng. Đấm nhau thì tỷ lệ thắng rất thấp. Một thằng béo sẽ có lợi thế hơn rất nhiều khi có một khẩu ba mươi li. Lựa chọn thông minh.”
“Không thông minh vậy đâu,” em vồn vã. “Nó đã mười sáu tuổi, nhiều bang có thể xử nó như người trưởng thành. Và khỏi mong ngày ra tù luôn.” (Thật vậy, Luke Woodham đã bị kết án vừa tròn một trăm bốn mươi năm.)
“Thì sao?” Kevin nói với nụ cười lạnh nhạt. “Cuộc đời thằng đó vốn đã kết thúc rồi. Vui chơi khi còn có thể hơn hầu hết chúng ta. Tốt cho nó.”
“Bình tĩnh đi Eva!” Anh can thiệp khi em bắt đầu lắp bắp. “Con nó đang giỡn em đấy.”
Hầu hết cuộc đời nó, và cả những rắc rối của nó nữa, đều xoay quanh sự đối lập. Nó sáng dạ nhưng ghét trường học, nó có ít bạn, và đứa mà chúng ta biết thì lúc nào cũng xum xoe; luôn có những tai nạn mơ hồ, như với Violetta và con bé tạm-gọi-là-Alice, chuông cảnh báo đặt ở mức âm lượng dường như chỉ đủ cho em nghe được. Tuy nhiên những tính cách tự bộc lộ ra qua những thứ không thay đổi đáng chú ý, dù là trên chiến trường hay là trong siêu thị. Với em, mọi thứ về Kevin là những mảnh ghép. Nếu những giả thuyết của em về cách sắp xếp sự tồn tại của Kevin dường như quá khoa trương, hãy giảm bớt xuống còn một từ: sự thù hận. Như một lẽ tất yếu, khi hai cảnh sát viên Orangetown xuất hiện ở cửa nhà chúng ta vào một tối tháng Mười hai năm 1997 cùng với Kevin và Leonard Pugh trên xe thùng, anh đã bị sốc, trong khi em coi chuyến viếng thăm của lực lượng hành pháp này là có phần hơi chậm trễ.
“Tôi có thể giúp gì cho các anh?” Em nghe thấy anh nói. “Ngài Khatchadourian?”
“Plaskett,” anh chỉnh lại, không phải lần đầu. “Nhưng tôi là bố của Kevin.”
Đang giúp đỡ Celia làm bài tập về nhà, em rón rén tiến đến lảng vảng sau lưng anh, vo ve với sự phấn khích như đang thị dâm.
“Chúng tôi nhận được một cuộc điện thoại phàn nàn từ một người lái xe, và chúng tôi e rằng đã tìm thấy con trai ông cùng bạn nó ở đây, trên cầu vượt cho người đi bộ. Chúng tôi phải lôi hai đứa xuống nhưng có vẻ khá rõ ràng rằng chúng chính là lũ trẻ đã vứt những thứ linh tinh xuống đường.”
“Vào những chiếc xe? Hay chỉ là những đoạn đường vắng?” Anh hỏi.
“Chẳng mấy giải trí với những đoạn đường vắng đâu,” sĩ quan cảnh sát thứ hai gầm gừ.
“Chủ yếu là bóng nước thôi bố!” Kevin nói từ sau lưng viên cảnh sát. Em biết là nó đang vỡ giọng, nhưng bất cứ khi nào nói chuyện với anh, Franklin, nó phải nâng lên một quãng tám.
“Người lái xe này không gọi đến vì bóng nước…” Viên cảnh sát thứ hai, mập và lùn hơn, người có vẻ hối hả hơn nói. “Đó là gạch đá. Và chúng tôi đã kiểm tra cả hai bên làn đường cao tốc. Rải rác những mẩu gạch vụn.”
Em vội vàng nói thêm. “Có ai bị thương không?”
“May mắn thay, không có cú va chạm trực tiếp nào,” người cảnh sát đầu tiên nói. “Cực kỳ may cho mấy đứa nhóc này đấy.”
“Cháu chẳng thấy có gì may…” Lenny sụt sùi, “khi bị cảnh sát tóm”.
“Cần chút may mắn để thúc đẩy chứ nhóc,” người cảnh sát nóng nảy hơn nói. “Ron, chúng ta vẫn nên…”
“Nghe này ông Plastic,” người cảnh sát đầu tiên gạt đi. “Chúng tôi đã kiểm tra con trai ông trên dữ liệu máy tính và lịch sử của nó trong sạch. Tôi có thể thấy rằng nó lớn lên trong một gia đình tốt.” (vâng dĩ nhiên, tốt ở đây có nghĩa là giàu.) “Vậy nên chúng tôi sẽ thả những chàng trai trẻ này ra cùng với một lời cảnh cáo. Nhưng chúng tôi thực sự coi việc này là nghiêm trọng…”
Người cảnh sát thứ hai chen ngang. “Chết tiệt! Vài năm trước có tên dị hợm ném một phần tư viên gạch ngay trước một người phụ nữ khoảng ngoài bảy mươi, làm vỡ kính chắn gió và đập thẳng vào đầu khiến bà ấy qua đời.”
Ron nhìn sang người bạn của mình đoán chừng giục anh ta mau đến Dunkin’ Donuts. “Mong rằng ông bà sẽ nói chuyện lại với chàng trai trẻ này.”
“Như thế nào?” Em nói.
“Tôi cho rằng thằng bé không biết điều mình làm có thể gây nguy hiểm đến thế nào đâu,” anh ta nói.
“Vâng,” cớm số hai nói. “Đó là điều hấp dẫn chúng ném gạch đá từ cầu vượt đi bộ: có vẻ vô hại.”
“Cảm ơn vì sự khoan hồng, thưa ngài,” Kevin nói. “Cháu đã học được một bài học cho bản thân, thưa ngài. Chuyện này sẽ không lặp lại, thưa ngài.”
Chắc hẳn mấy tay cảnh sát này thường xuyên nhận được mấy thứ thưa ngài như vậy nên trông họ chẳng có gì bối rối. “Sự khoan hồng không đến lần nữa đâu anh bạn. Chắc chắn luôn đấy!”
Kevin quay ra nhìn người cảnh sát nóng tính hơn, bắt gặp ánh mắt của anh ta, hai người họ dường như đã hiểu nhau. Mặc dù được đưa về bởi cảnh sát lần đầu tiên trong đời (theo như những gì em được biết), nó hoàn toàn điềm tĩnh. “Và cũng rất cảm ơn vì đã đưa bọn cháu về nhà, cháu luôn muốn được thử ngồi trên xe cảnh sát một lần, thưa ngài.”
“Mừng là cậu cảm thấy như vậy,” viên cảnh vui vẻ sát trả lời, như thể đang nổ bóng kẹo cao su. “Nhưng để phân định rõ trắng đen thì đó không phải là một chuyến dạo chơi đâu anh bạn.”
Sau chút lòng biết ơn xum xoe nữa từ hai chúng ta, họ rời đi, và ngay khi họ rời sân trước, em nghe thấy Lenny rên rỉ: “Bọn tôi suýt chút nữa đã chạy thoát được rồi các ông biết chưa, bởi vì các ông béo ị...”.
Anh có vẻ đã rất điềm tĩnh và lịch sự suốt cuộc trao đổi đến nỗi khi anh quay vào nhà, em ngạc nhiên thấy mặt anh tái đi vì giận dữ. Anh túm vai con trai mình và hét lên: “Con đã có thể gây ra một thảm họa hàng hoạt chết tiệt rồi đấy!”.
Phấn khích bởi chút hài lòng bệnh hoạn, em lùi lại để anh xử trí. Chửi bới, không ít. Cứ cho là một trong số những mẩu gạch đã làm vỡ kính chắn gió của một ai đó, em thà từ bỏ sự vui mừng nhỏ nhặt này cho sự đau khổ mà sau này em phải đối mặt quá thường xuyên. Nhưng lúc đó, em thoải mái hát theo bọn trẻ ở sân chơi: Chết mày chưa! Bởi vì em đã quá đau khổ! Chuỗi những trắc trở không hồi kết kéo theo sau sự xuất hiện của Kevin chẳng bao giờ có vẻ gì là liên quan đến nó, như chính anh luôn khẳng định. Cuối cùng thì cũng có một kẻ mách lẻo đứng về phía em mà quý ngài Reagan67 của đảng Cộng hòa không thể không tin, cảnh sát, những người đã bắt được kẻ tay vấy máu ngây thơ của chúng ta, và em đang tận hưởng điều đó. Hơn thế nữa, em cũng mừng cho anh vì anh đã được trải nghiệm cảm giác bất lực lạ kỳ khi làm một bậc phụ huynh được cho là toàn năng đến vậy mà hoàn toàn lúng túng không biết làm thế nào để áp dụng một hình phạt ít làm nhụt chí nhất. Em muốn anh tự hiểu ra sự khốn khổ của việc phạt một đứa con bốn tuổi “úp mặt vào tường”, có thể đoán trước sự vô nghĩa của việc “đứng một chỗ” khi mà chẳng có nơi nào nó muốn đi, và hết hồn khi nhận ra rằng, nếu nó phóng một mũi tên cho mục đích là để thách thức việc anh cấm đoán hoạt động duy nhất mà nó dường như thực sự yêu thích, anh sẽ phải quyết định xem có nên lao đến và vật nó xuống đất hay không. Chào mừng đến với cuộc sống của em, Franklin, em đã nghĩ thế. Vui vẻ nhé.
67 Tức Ronald Reagan, cựu Tổng thống Hoa Kỳ.
Celia không quen với việc anh xử lý anh trai nó, và nó bắt đầu khóc lóc. Em vội vàng kéo nó từ chiếu nghỉ vào bàn ăn nơi nó đang làm bài tập, an ủi rằng những người cảnh sát là bạn của chúng ta và họ chỉ muốn đảm bảo rằng chúng ta an toàn, trong khi anh kéo đứa con trai khắc kỷ của chúng ta dọc hành lang về đến phòng nó.
Trong trạng thái kích động như vậy, em khó mà tập trung dỗ Celia quay lại với cuốn sách vỡ lòng về các loài động vật ở nông trại. Tiếng la hét giảm xuống nhanh một cách đáng ngạc nhiên, chắc chắn anh không nguôi ngoai nhanh như vậy khi bực mình với em. Đoán rằng anh đã chuyển sang sự thất vọng sầu não có thể gây tổn thương nhiều hơn là sự nóng nảy đối với nhiều đứa trẻ, mặc dù em đã thử giữ sự nghiêm nghị đến phát chán với đứa con đầu lòng của chúng ta, em vẫn rất vui lòng khi anh thử cảm nhận sự bất lực đó. Đó là tất cả những gì em có thể làm để ngăn mình không lén lút đi dọc hành lang và nghe trộm qua khe cửa.
Khi cuối cùng thì anh cũng xuất hiện, anh đóng cánh cửa phòng Kevin sau lưng mình bằng sự trang trọng của một vị bộ trưởng, và biểu cảm khi anh bước vào khu phòng ăn là vẻ bình yên rất gây tò mò. Em tự hiểu rằng tất cả những nỗi xấu hổ và chán ghét vượt ra ngoài hệ thống của anh phải được dọn dẹp, và khi anh ra hiệu cho em đi vào bếp, em đã nghĩ rằng chúng ta sẽ trao đổi loại hình phạt nào anh đã dùng để hăm dọa rồi chúng ta có thể thực hiện chính xác như một đội. Em đã tưởng rằng anh sẽ đưa ra một số hình phạt mới sẵn sàng được thực thi mà sẽ khiến con trai ta bị tổn thương, em vẫn chưa bao giờ tìm được cái đó. Em chẳng tin rằng đến giờ nó hối hận về chính chuyện ném gạch đá đó, nhưng có lẽ khi ấy anh đã thuyết phục được nó rằng nhà tù trẻ vị thành niên là một lỗi chiến lược.
“Nghe này,” anh thì thầm. “Toàn bộ trò nghịch ngợm này do Lenny bày ra, và Kevin nghe theo vì ban đầu tất cả những gì Lenny nói chỉ là những quả bóng nước. Thằng bé đã nghĩ những quả bóng chỉ tạo ra mấy vũng nước. Em biết rồi đấy, trẻ con nghĩ rằng mấy thứ đó khá là vui. Anh đã bảo con rằng kể cả mấy quả bóng nhỏ khi nổ cũng có thể làm những người lái xe giật mình và điều đó rất nguy hiểm, nó nói giờ nó đã nhận ra điều đó.”
“Cái gì cơ? Thế còn những viên gạch thì sao?”
“Chà, thì tại bọn nó hết bóng nước. Kevin nói rằng trước khi nó kịp nhận ra thì Lenny đã ném một cục đá, cũng có thể là một mẩu gạch khi một chiếc xe đang đi đến. Kevin đã ngay lập tức bảo Lenny đừng làm thế vì ai đó có thể bị thương.”
“Vâng,” em nặng nề nói. “Nghe có vẻ giống Kevin.”
“Anh đoán rằng Lenny đã ném thêm được vài miếng gạch xuống đường trước khi Kevin có thể đẩy nó và bảo nó ngừng. Đó hẳn là khi có người gọi cho cảnh sát. Rõ ràng là bọn trẻ vẫn ở trên đó, đi loăng quăng hay gì đó, khi cảnh sát tiến đến và túm bọn nó. Việc đó là quá ngu ngốc, thằng bé cũng đã thừa nhận điều đó, nhưng với một đứa trẻ chưa từng gặp rắc rối với pháp luật thì đèn vàng nhấp nháy cũng khá là đáng sợ đấy…”
“Kevin là một đứa sáng dạ, anh luôn nói vậy.” Mọi điều phát ra từ miệng em đều thật nặng nề và lắp bắp. “Em cho rằng nó đã suy nghĩ nhiều hơn.”
“Mami?”
“Con yêu, quay lại làm bài tập tiếp đi nhé, được chứ? Papa
đang kể cho Mami một câu chuyện hay và Mami không thể chờ để biết kết thúc của nó thế nào.”
“Dù sao thì…” Anh tiếp tục. “Bọn nó đã chạy. Không mất nhiều thời gian để Kevin nhận ra rằng việc chạy đúng là điên rồ, và nó kéo áo Lenny để phanh lại. Và chuyện là thế này: Có vẻ như anh bạn Lenny Pugh của chúng ta từng gây chuyện trong quá khứ, trò bỏ đường vào bình xăng cũ rích gì đó. Lenny đã bị cảnh cáo rằng nếu nó gây chuyện nữa thì người ta sẽ bắt nó chịu tội. Kev đã nghĩ rằng với lịch sử trong sạch của nó, người ta có thể sẽ thả nó với chỉ vài lời cảnh cáo. Vậy nên Kevin nói với cảnh sát rằng nó là đứa đầu trò, chỉ có nó là người ném đá. Phải nói rằng, khi mọi chuyện đã rõ ràng, anh thấy khá là ngại khi đã trách mắng nó như vậy.”
Em nhìn anh bằng sự ngưỡng mộ điếng cả người. “Anh có xin lỗi nó không?”
“Chắc chắn rồi,” anh nhún vai. “Bất cứ bậc cha mẹ nào cũng phải nhận sai khi mình gây ra lỗi.”
Em bám vào một chiếc ghế trong bếp, em phải ngồi xuống. Anh tự rót cho mình một cốc nước táo, trong khi em từ chối. (Anh nghĩ cái quái gì mà lại không thể đưa cho em một cốc rượu?) Anh kéo ghế của mình ra, cúi xuống thân thiện như thể chuyện hiểu lầm này sẽ khiến chúng ta thậm chí trở nên giống một gia đình nhớ-vụ- ngớ-ngẩn trên-cầu-vượt khăng khít, ủng hộ lẫn nhau hơn.
“Anh nói em nghe,” anh nói và uống một ngụm nước quả. “Bọn anh vừa có một cuộc trò chuyện tuyệt vời về sự phức tạp của lòng trung thành, em biết không? Khi nào thì gắn bó với bạn của mình, nên vạch ra giới hạn ở đâu khi chúng làm những việc mà ta cho rằng đã vượt quá mức cho phép, và nên hy sinh cho bạn bè ở mức độ nào. Bởi vì anh cảnh cáo nó, nó có thể đã tính toán sai khi nhận tội thay như vậy. Nó có thể bị gài. Anh trân trọng hành động của nó, nhưng anh đã bảo, anh không chắc Lenny Pugh có xứng đáng với điều đó hay không.”
“Chúa ơi, không thể tin được,” em nói.
Anh xoay đầu lại. “Đó có phải lời mỉa mai không?”
Được rồi, nếu anh không định làm như là một tình huống y tế khẩn cấp, em sẽ rót cho mình một ly rượu. Em quay lại chỗ ngồi của mình rồi uống hai ngụm hết một nửa ly. “Đó là một câu chuyện rất chi tiết. Vậy anh sẽ không phiền nếu em làm rõ một số điều chứ?”
“Nói đi.”
“Lenny…” Em bắt đầu. “Lenny chỉ là loại tép riu. Lenny là đứa đần độn thực sự. Mất một thời gian em mới hiểu sự hấp dẫn của nó là gì, ý em là đối với Kevin. Và rồi em hiểu ra, đó chính là sự hấp dẫn. Rằng nó là một con sâu đần, dễ bảo, thích tự nhục.”
“Gượm đã, anh cũng chẳng ưa gì thằng nhóc đó, nhưng mà tự nhục…?”
“Em đã kể với anh rằng em bắt gặp chúng trong phòng, và quần Lenny thì đang tụt xuống chưa?”
“Eva, em nên hiểu chúng đang dậy thì. Có thể em cảm thấy không thoải mái nhưng chúng đôi khi chỉ muốn thử nghiệm…”
“Kevin không hề tụt quần xuống, nó vẫn đầy đủ quần áo.” “Ừ thì điều đó cũng có nói lên cái gì đâu chứ?”
“Rằng Lenny không phải bạn của nó, Franklin! Lenny là nô lệ của nó! Lenny làm mọi thứ mà Kevin bảo nó làm, càng hèn hạ càng tốt! Vậy nên viễn cảnh một thằng nhóc hèn kém, khốn khổ, nịnh hót có thể nghĩ ra bất cứ thứ gì như là ‘đầu sỏ’ của một trò chơi khăm nguy hiểm, mất dạy, kéo Kevin tiết hạnh đi theo một cách bất đắc dĩ là hoàn toàn phi lý!”
“Em bé mồm thôi được không? Anh nghĩ em không cần thêm ly rượu nào đâu.”
“Anh nói đúng. Thứ em thực sự cần là cốc gin thứ năm, nhưng Merlot cũng tạm được.”
“Nghe này, có thể nó đã gây ra những chuyện đáng ngờ, anh và con đã nói về chuyện đó. Nhưng nhận tội thì cũng cần phải có gan, và anh khá là tự hào…”
“Gạch,” em ngắt lời. “Chúng to và nặng. Những công nhân xây dựng không để gạch trên cầu vượt cho người đi bộ. Làm sao mà chúng lại xuất hiện trên đó?”
“Những mẩu gạch, anh nói là mẩu.”
“Vâng.” Vai em chùng xuống. “Em cá rằng đó cũng là những gì Kevin nói.”
“Nó là con trai chúng ta, Eva. Có nghĩa chúng ta nên có chút niềm tin.”
“Nhưng cảnh sát nói rằng…” Em để mặc những suy nghĩ chênh vênh, em đã mất hứng với chủ đề này. Em cảm thấy mình như một luật sư lì lợm biết rằng sự đồng tình của bồi thẩm đoàn đã mất rồi nhưng vẫn phải tiếp tục công việc của mình.
“Hầu hết cha mẹ đều mong được thấu hiểu con cái họ, chứ không phải bới móc từng chi tiết nhỏ…”
“Em đang cố để hiểu nó đây.” Em hẳn đã quá giận dữ. Từ phía bên kia vách ngăn, Celia bắt đầu thút thít: “Con mong mẹ có thể…”
“Đúng rồi đó, lại dỗ Celia đi,” anh càu nhàu khi em đang đứng dậy. “Lau nước mắt cho Celia và vuốt mái tóc vàng của Celia rồi làm giúp bài tập cho Celia đi, vì trộm vía con bé nên học cách tự làm những bài tập đó. Con trai chúng ta vừa bị cảnh sát bắt vì một việc mà nó không làm, và nó khá là bất ổn, nhưng đừng lo, bởi vì Celia còn cần ăn bánh quy và uống sữa.”
“Đúng vậy,” em quay người lại. “Bởi vì một đứa thì đang đánh vần tên các con vật trong trang trại, trong khi đứa còn lại đang ném gạch vào những chiếc xe đang chạy. Đã đến lúc anh hiểu ra sự khác biệt rồi đó.”
Em đã thực sự tức giận về chuyện tối hôm đó, và em đã phí phạm phần lớn ngày làm việc tiếp theo ở AWAP để tự lẩm bẩm về việc làm sao mà mình lại đi lấy một tên ngu ngốc. Em xin lỗi. Và điều này thật đáng khinh bỉ với em, nhưng em chưa từng kể với anh điều mà em biết được cuối chiều hôm đó. Có lẽ em đã quá xấu hổ, hoặc quá tự cao.
Với sự bực bội và khó chịu em chẳng thể làm cho xong việc gì, em dùng đặc quyền của CEO để ra về sớm. Khi em trở về và chăm sóc Celia thay cho người trông trẻ, Robert, em nghe thấy những giọng nói ở cuối hành lang. Có vẻ như con sâu đần, dễ bảo, thích tự nhục thậm chí còn chẳng biết điều mà sợ sệt tránh đi vài ngày sau khi xuất hiện ở cửa nhà chúng ta cùng với cảnh sát, vì em nhận ra âm thanh nhèo nhẽo, rên rỉ, giọng mũi phát ra từ phòng ngủ gọn gàng đến phát sợ của Kevin. Không giống như thường ngày, cửa phòng chỉ khép hờ, chắc bọn nó nghĩ rằng phải hai tiếng nữa em mới về nhà. Khi đi đến phòng tắm, em không hẳn có ý nghe trộm, nhưng ồ, em nghĩ rằng mình đã nghe trộm. Sự thôi thúc nghe lén sau cánh cửa đó đã theo em từ tối hôm trước và vẫn còn nán lại.
“Này, mày thấy cái mông xệ của thằng cớm béo ị đấy không?” Lenny đang hồi tưởng. “Tao cá là thằng đó phải nghỉ lấy hơi và kéo lại đai lưng khi chạy đuổi bọn mình.”
Kevin không có vẻ gì là đang tham gia vào chuyện ba toác của Lenny. “Ừ. Chà, may cho mày là tao đã khiến ngài Plastic thôi kêu ca. Nhưng mày đáng nhẽ nên thấy cảnh đã diễn ra ở đây, Pugh ạ. Chẳng khác nào Dawson’s Creek68. Buồn nôn muốn chết. Tao tưởng mình phải bật khóc trước phần nghỉ quảng cáo từ những nhà tài trợ của chúng ta cơ.”
68 Tên một bộ phim truyền hình Mỹ.
“Này, tao tin mày mà! Như kiểu, với hai thằng cớm đó, mày quá mượt luôn bạn ạ. Tao đã nghĩ thằng béo đần độn đó sẽ lôi mày vào một cái phòng nhỏ rồi đập cho mày một trận, tại vì mày cò quay lão ta phát điên! Thưa ngài, cháu cảm thấy thật tồi tệ, thưa ngài, chính cháu là người…”
“Nhớ lấy thằng thộn, mày nợ tao một lần này.”
“Chắc chắn rồi người anh em. Tao nợ mày vụ lớn này. Mày đã nhận tất cả như kiểu siêu anh hùng, như là… Chúa Giêsu vậy.”
“Tao nghiêm túc đấy! Vụ này sẽ khiến mày phải trả giá,” Kevin nói. “Bởi vì trò phô trương rẻ tiền của mày có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của tao. Tao có tiêu chuẩn nhất định. Mọi người đều biết điều đó. Tao cứu mày lần này nhưng đừng mong có lần tiếp theo như là ‘Cứu bồ phần II’ đâu. Tao không muốn liên quan đến những thứ nhảm cứt này. Ném đá từ trên cầu vượt. Quá là nhàm chán. Chả có tí đẳng cấp nào, nhàm!”