Franklin thân yêu,
Chúa ơi, lại một vụ nữa. Đáng nhẽ em phải biết từ chiều hôm thứ Hai khi mà các đồng nghiệp bỗng nhiên bắt đầu xa lánh em.
Vấn đề muôn thuở. Ở một vùng ngoại ô San Diego, Charles “Andy” Williams mười lăm tuổi, một thằng nhóc da trắng gầy gò, không có gì nổi bật với môi mỏng và mái tóc xác xơ đã mang khẩu 5.6 li trong ba-lô đến trường Trung học Santana. Nó trốn trong phòng vệ sinh nam, nơi mà nó bắn hai người, tiến ra hành lang và bắn bất cứ thứ gì di chuyển. Hai học sinh bị giết, mười ba đứa khác bị thương. Khi nó quay lại phòng vệ sinh, cảnh sát tìm thấy nó nằm co quắp trên sàn nhà với khẩu súng trên đầu. Nó không ngừng thút thít, “Chỉ có mình tôi thôi”. Họ bắt giữ thằng bé mà chẳng phải vật lộn chút nào. Khá rõ ràng là khi đó nó vừa mới chia tay cô bạn gái, chỉ mới mười hai tuổi.
Thật kỳ lạ, trên bản tin tối thứ Hai, một vài bạn học đã mô tả những đặc trưng của kẻ xả súng, như mọi khi, là bị bắt nạt, bị gọi là “quái dị, thằng ngu, một kẻ thất bại”. Nhưng cả đám học sinh khác lại làm chứng rằng Andy có rất nhiều bạn bè, còn lâu mới bị coi là kém nổi bật hoặc là bị trêu chọc, ngược lại nó rất được yêu mến. Những lời mô tả sau đó hẳn đã khiến khán giả bối rối, vì khi Jim Lehrer kể lại câu chuyện cho những người khác tối nay, tất cả những câu hỏi tại sao, vì sao, sao thế, những mô tả xung quanh chuyện “được yêu mến” đều bị loại bỏ. Nếu Andy Williams không bị “bắt nạt”, cậu ta không đáp ứng được tiêu chuẩn lý giải cho những sự cố này là sự-trả-thù-của-mọt-sách đúng như xu hướng hiện nay. Và giờ chúng ta không phải chỉ cần thắt chặt việc sử dụng súng mà việc cần làm là quan tâm đến sự khổ sở của những đứa trẻ chưa trưởng thành bị ruồng bỏ.
Cho nên, khi Andy Williams giờ đây đã nổi tiếng ngang với những người hành động giống như mình, em không tin một người xem tin tức nào có thể nói được tên một trong hai học sinh bị bắn chết, hai đứa trẻ chẳng làm gì sai ngoài việc đi vào nhà vệ sinh trong một buổi sáng mà những bạn cùng lớp may mắn hơn đã quyết định giữ bàng quang của chúng qua tiết Địa lý: Brian Zuckor và Randy Gordon. Thực hiện những gì em chỉ có thể coi như là nghĩa vụ công dân, em ghi khắc tên chúng vào tim mình.
Suốt đời mình em đã nghe những bậc cha mẹ ám chỉ những tai nạn kinh hoàng đôi khi xảy đến với con cái họ: một lễ Thanh tẩy bị biến thành việc đầm mình trong một nồi gà tây hầm sôi sục hay việc cố kéo về một con mèo bướng bỉnh từ cửa sổ tầng ba đang mở. Trước năm 1998, em thường tự cho rằng mình biết họ đang nói về điều gì, hoặc đang tránh nói về điều gì, vì đôi khi có những hàng rào riêng tư quanh những câu chuyện như vậy, muốn thâm nhập vào đó thì chỉ có những đơn vị chăm sóc đặc biệt hoặc những người gần gũi trong gia đình được cho phép. Em luôn tôn trọng những hàng rào đó. Những tai họa riêng tư của người khác dù thế nào cũng là bất khả xâm phạm, và em biết ơn tấm bảng “Cấm vào” đó, đằng sau đó em có thể che giấu một sự giải thoát bí mật đau khổ mà chính người thương yêu của em được an toàn. Nhưng em vẫn nghĩ rằng mình biết sơ sơ phía bên kia hàng rào có gì. Có thể là một cô con gái hoặc một người ông, đau khổ vẫn là đau khổ. Xin lỗi vì những giả định của em. Em chẳng biết gì cả.
Khi chúng ta làm cha mẹ, bất kể tai nạn là gì, bất kể khi đó ta ở cách nơi đó bao xa và vô vọng để ngăn chặn nó thế nào, sự bất hạnh của con trẻ dường như luôn là lỗi của chúng ta. Chúng ta là tất cả những gì chúng có, và chúng tự nhủ rằng chúng ta luôn bảo vệ chúng. Vậy nếu anh cũng nghĩ vậy Franklin, rằng em chỉ đang chuẩn bị một lần nữa phủ nhận tội lỗi, thì trái lại. Nhìn rộng ra, vẫn có thể cảm thấy đó là lỗi của em, nhìn rộng ra, đó có thể là lỗi của em lúc đó.
Chí ít thì em cũng ước rằng mình đã kiên quyết hơn về thỏa thuận sắp xếp việc chăm sóc con của chúng ta. Chúng ta đã thuê Robert, một sinh viên địa chấn học từ Đài Thiên văn Trái đất Lamont- Doherty, để đón Celia từ trường về nhà và ở lại đến khi một trong hai chúng ta về nhà, và đó là cách mà luật lệ nên được duy trì. Bất chấp mọi xung đột, chúng ta đã giữ được Robert, mặc dù cậu ta dọa sẽ nghỉ, khi chúng ta đảm bảo với cậu ta rằng Kevin giờ đã đủ lớn để tự lo cho bản thân và cậu ta chỉ cần để ý đến Celia. Nhưng anh đã đùn đẩy trách nhiệm. Kevin đã mười bốn tuổi, bằng tuổi nhiều người trông trẻ khác xung quanh khu nhà. Nếu Kevin có thể trở nên đáng tin, thì nó cần phải được tin tưởng trước đã; chắc chắn rồi, điều đó nghe thật hay. Vậy nên anh nói với người giữ trẻ của chúng ta rằng chừng nào Kevin đi học về và được nhận trách nhiệm trông nom Celia, Robert có thể đi. Việc này giải quyết vấn đề chúng ta luôn canh cánh trong lòng, anh có thể bị tắc đường và em làm việc trễ một chút, và (mặc dù được đền bù xứng đáng cho thời gian của mình) Robert bị mắc kẹt, khó chịu ở Palisades Parade trong khi có những nghiên cứu ở Lamont mà cậu ta cần về nhà để hoàn thành.
Khi em cố nhớ lại ngày thứ Hai đó, tâm trí em xáo động, như đang cố tránh một quả bóng gắn cột gây đau đớn. Rồi ký ức lại bay vòng nhờ lực ly tâm và một lần nữa, khi em đứng lên, nó đập vào đầu em.
Em một lần nữa phải ở lại làm muộn. Thỏa thuận mới với Robert khiến em cảm thấy bớt tội lỗi một chút mỗi khi phải làm thêm giờ, và sự vượt trội của AWAP trong lĩnh vực du lịch tiết kiệm đã bắt đầu trượt dốc. Bọn em có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn rất nhiều so với hồi mới bắt đầu, Hành tinh cô độc và Những chỉ dẫn cơ bản đã xuất hiện. Trong khi đó, với việc cả nước đang vơ vét tiền từ những thị trường chứng khoán lên giá, nhu cầu du lịch thực sự rẻ đã giảm. Trái với những nhận định của mình, em đang đề xuất một phiên bản hoàn toàn mới, Wing and a Prayer cho những người ở nhà, nhắm đến những độc giả kiếm tiền từ các doanh nghiệp khởi nghiệp trên Internet, có lẽ là hơi thừa cân, hoài niệm về chuyến đi đầu tiên tự mò mẫm ở châu Âu cùng với một cuốn W&P nhàu nát vào những năm sáu mươi, tin rằng mình vẫn là sinh viên về mặt tinh thần, dù đã quen với những chai rượu cabernet ba mươi đô nhưng bởi tính tự phụ, vẫn thích phiêu lưu, đó là khao khát sự thoải mái chừng nào nó không mang nghĩa là nỗi kinh hoàng phải nhờ cậy đến cuốn Blue Guide nặng nề như cha mẹ họ. Và đó là khi điện thoại đổ chuông.
Anh bảo em lái xe cẩn thận. Anh nói rằng con bé đã vào bệnh viện rồi và em chẳng thể làm gì lúc này. Anh nói con bé không bị nguy hiểm đến tính mạng. Anh nói vậy hơn một lần. Tất cả đều là sự thật. Rồi anh nói con bé sẽ “ổn” thôi, đó lại không phải sự thật, mặc dù đối với những người phải thông báo tin không vui, sự thôi thúc đưa ra một lời trấn an không có căn cứ dường như không thể cưỡng lại được.
Em chẳng có lựa chọn nào khác ngoài lái xe thật cẩn thận, bởi vì giao thông trên cầu George Washington gần như chẳng thể di chuyển. Cuối cùng, khi em nhìn thấy anh đau khổ ở phòng chờ, em nhận ra rằng rút cục anh cũng yêu con bé, và em đã trừng phạt chính mình vì từng nghi ngờ điều đó. Kevin không ở đó với anh, để em nhẹ nhõm hơn, bởi vì nếu không thì em đã móc mắt nó ra.
Vòng tay của anh hiếm khi nào mang lại ít sự an ủi đến vậy. Em cứ cố ôm anh chặt hơn như để tìm kiếm thứ gì đó, giống như có bóp tuýp kem dưỡng tay cho đến khi nó kêu khụt khụt.
Anh giải thích rằng con bé đang được phẫu thuật. Trong khi em lái xe đến, anh đã đưa Kevin về nhà vì chẳng có gì khác để làm ngoài chờ đợi, và cũng chẳng có ích gì khi khiến sự việc trở nên khó khăn hơn với anh trai con bé. Nhưng em tự hỏi liệu có phải anh đã xua nó ra khỏi phòng chờ để bảo vệ nó khỏi em hay không.
Chúng ta ngồi trên cùng những chiếc ghế kim loại màu xanh biển mà em từng ngồi vật vã nghĩ về những điều Kevin nói với bác sĩ khi em làm gãy tay nó. Có lẽ, em khổ sở cho rằng trong suốt tám năm qua, nó đang chờ thời cơ của mình. Em nói, “Em không hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra”. Em nói nhỏ, không làm ầm lên.
“Anh nghĩ mình đã nói với em rồi. Qua điện thoại.”
“Nhưng chẳng hợp lý chút nào.” Không muốn tranh cãi chút nào, em cố gắng kìm chế giọng mình. “Sao con bé lại… Nó làm gì với mấy thứ đó cơ chứ?”
“Trẻ con mà,” anh nhún vai. “Chắc là nghịch thôi.”
“Nhưng…” Tâm trí em cứ trống rỗng. Em phải suy đi nghĩ lại những gì mình muốn nói, tự lặp đi lặp lại cuộc hội thoại trong đầu, chúng ta đang nói đến đâu, điều gì tiếp theo... Phòng tắm, phải rồi.
Em tiếp tục, “Con bé có thể tự đi vào phòng tắm một mình rồi. Nhưng nó không thích ở trong đó. Chưa bao giờ. Nó sẽ không nghịch gì trong đó cả”. Một sự khăng khăng bắt đầu xuất hiện trong giọng em nghe có vẻ nguy hiểm, chúng ta sẽ phải lùi lại từ bờ vực. Celia vẫn đang trong phòng phẫu thuật. Chúng ta sẽ không cãi nhau và anh sẽ nắm tay em.
Dường như phải vài giờ trôi qua thì bác sĩ mới xuất hiện. Anh gọi về nhà bằng di động, hai lần, tránh ra xa để em không nghe thấy gì. Anh mua cà phê cho em từ chiếc máy cuối dãy hành lang, và giờ nó phủ một lớp da nhăn nheo. Khi một y tá chỉ chúng ta cho bác sĩ phẫu thuật, em bỗng nhiên hiểu tại sao có những người tôn sùng bác sĩ, và tại sao bác sĩ dễ cảm thấy mình thần thánh. Nhưng ngay khi nhìn vào mặt ông ấy, em có thể thấy rằng ông ấy không cảm thấy thần thánh cho lắm.
“Tôi rất tiếc,” ông ấy nói. “Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng có quá nhiều tổn thương. Chúng tôi sợ rằng không thể cứu được mắt cô bé.”
Họ động viên chúng ta nên về nhà. Celia được cho dùng thuốc an thần mà phải mất một thời gian nữa mới tỉnh lại. Chẳng thể giữ được lâu, em nghĩ vậy. Chúng ta lưỡng lự rời khỏi phòng chờ. Ít nhất thì anh cũng lặng người chỉ ra rằng bác sĩ nói mắt còn lại của con bé có thể vẫn ổn. Chỉ mới sáng hôm đó em vẫn nghiễm nhiên cho rằng con gái chúng ta luôn có hai mắt.
Ngoài bãi đậu xe, trời rất lạnh; khi vội vã ra về, em đã để quên áo khoác ở văn phòng. Chúng ta mỗi người lái một chiếc xe về nhà khiến em càng thấy lạnh lẽo hơn. Em cảm thấy chúng ta đang ở ngã ba của thứ gì đó và sợ rằng nếu mỗi người chọn rẽ sang một đường khác nhau, chúng ta cuối cùng sẽ cùng về một chỗ nhưng chỉ theo nghĩa địa lý cơ bản nhất. Anh chắc hẳn cũng cảm thấy cần phải xác nhận rằng chúng ta vẫn đồng lòng, giống như cách nhân viên của em gần đây luôn nhắc đến năm lần mỗi ngày cụm trên cùng một trang, bởi vì anh đã đề nghị em đi cùng xe với anh để trò chuyện và giúp em ấm hơn.
Em nhớ chiếc xe bán tải xanh lơ cũ của anh, nó gắn với thời gian hẹn hò của chúng ta, mạnh mẽ với tay xoay cửa sổ và hệ thống âm thanh dồn dập, giống như lời bài hát của Bruce Springsteen. Và chiếc xe này giống anh nhiều hơn, anh của trước đây: cổ điển, gần gũi và chân thành. Thậm chí là thuần khiết. Edward Hopper72 sẽ không bao giờ sơn chiếc xe kềnh càng bằng cái màu mà anh đã thay thế. Được nâng lên một cách kỳ lạ bằng bộ lốp xe quá khổ, thân xe có những đường viền lồi và tù giống như một chiếc thuyền bơm hơi. Cái chắn bùn hầm hố và tư thế căng phồng của nó khiến em nhớ đến những con thằn lằn tội nghiệp được trang bị vũ khí chỉ để trưng bày, và sự nam tính như biếm họa, bị cường điệu hóa của chiếc xe đã thôi thúc em nói những lời châm chọc. “Nếu anh tìm thật kỹ dưới khung xe, Franklin, em cá là anh sẽ tìm thấy một con cu bé tí.” Ít nhất thì anh cũng đã cười.
72 Một họa sĩ người Mỹ.
Bộ sưởi làm việc rất tốt, quá tốt, vì khi chúng ta mới chạy chậm vài phút, buồng xe đã trở nên ngột ngạt. Dù chỉ to hơn chiếc Ford một chút, nhưng chiếc bán tải của anh không bao giờ gây cảm giác bị giam cầm này khi chỉ có hai chúng ta.
Cuối cùng, anh đập phía sau đầu mình vào miếng đệm ghế và nhìn lên trần. “Anh không thể tin là em lại để nó bên ngoài.”
Đông cứng người, em không phản ứng.
“Anh đã nghĩ sẽ không nói chuyện này,” anh tiếp tục. “Nếu anh cố nuốt chuyện này xuống, anh sẽ không nói, và sẽ không nói nhiều tuần tiếp theo, và nó có vẻ sẽ càng tồi tệ hơn.”
Em liếm môi, bắt đầu run rẩy. “Em không để nó bên ngoài.” Anh cúi đầu rồi thở dài. “Eva, đừng ép anh. Em đã dùng chai Liquid-Plumr hôm thứ Bảy vừa rồi. Anh vẫn nhớ bởi vì em không ngừng nói về việc đường cống bồn rửa trẻ con có mùi lạ hay gì đó, và rồi chiều hôm đó em đã cảnh báo mọi người không được xả chút nước nào vào bồn rửa trong vài giờ vì em đang đổ chất thông tắc cống vào đó.”
“Em đã cất nó đi,” em nói. “Trong ngăn tủ trên cao với khóa chống trẻ em, ngăn tủ mà Celia không thể nào với tới nếu không bắc ghế.”
“Thế sao nó lại ở ngoài?”
“Câu hỏi hay đấy,” em lạnh lùng nói.
“Nghe này, anh biết em luôn cẩn thận với những hóa chất nguy hiểm và luôn tự động khóa những thứ chết tiệt đó lại. Nhưng con người không phải máy móc…”
“Em nhớ mình đã cất nó đi, Franklin.”
“Em có nhớ mình đã đi giày sáng nay không? Em có nhớ mình đã đóng cửa sau khi rời khỏi nhà không? Đã bao nhiêu lần khi chúng ta đã vào xe rồi lại phải quay trở lại vào nhà để kiểm tra chắc chắn rằng bếp không bật? Tắt bếp chẳng phải đã trở thành bản năng rồi sao?”
“Nhưng bếp chẳng bao giờ đang bật, phải không? Nó gần như là quy luật cuộc sống, một cái… gì nhỉ… cách ngôn trong mấy cái bánh may mắn: Bếp không bao giờ bật.”
“Để anh nói cho em biết khi nào nó bật nhé Eva, chính là khi mà em chẳng thèm kiểm tra lại. Và đó chính là lúc nhà cháy hết.” “Tại sao chúng ta lại có cuộc nói chuyện ngớ ngẩn này? Trong khi con gái chúng ta thì đang nằm viện?”
“Anh muốn em thừa nhận. Anh không nói mình sẽ không tha thứ cho em. Anh biết em cũng cảm thấy rất tồi tệ. Nhưng muốn vượt qua chuyện này thì chúng ta phải đối mặt…”
“Janis đã đến lúc sáng, và có thể cô ấy đã để nó ở ngoài.” Thực lòng, em chẳng bao giờ nghĩ Janis cẩu thả đến vậy, nhưng em đã quá tuyệt vọng để giữ hình ảnh vừa bắt đầu hiện lên trong đầu khi em đưa ra một nghi phạm có khả năng hơn.
“Janis không cần phải làm sạch đường cống. Tất cả đường cống đều sạch rồi.”
“Được rồi,” em nói, tự gồng mình lại. “Vậy thì hỏi Kevin xem tại sao cái chai đó lại ở ngoài.”
“Anh đã biết là chúng ta sẽ lại luẩn quẩn với vấn đề này. Đầu tiên thì ôi, đúng là một bí ẩn, sau đó thì là lỗi của người dọn nhà, còn ai nữa? Và thật là ngạc nhiên, Eva, người chẳng bao giờ làm gì sai, lại chỉ tay về phía con trai chúng ta.”
“Nó phải trông nom con bé. Chính anh nói nó đã đủ lớn…” “Đúng, đó là nhiệm vụ của nó. Nhưng con bé đang ở trong nhà tắm, thằng bé nói cửa đã đóng, và chúng ta khó có thể cổ vũ đứa con trai mười bốn tuổi của mình phá cửa để vào phòng tắm cùng con bé.”
“Câu chuyện này thật không hợp lý. Cứ tạm thời đừng để ý tại sao cái chai đó lại ở bên ngoài, được chứ? Nhưng tại sao Celia lại đổ nước tẩy cống vào mắt chính mình?”
“Anh làm sao biết được! Có thể bởi vì trẻ con không chỉ ngu ngốc mà còn rất sáng tạo và đó là sự kết hợp chết chóc. Không thì tại sao chúng ta phải khóa mấy thứ chết tiệt đó lại? Quan trọng là Kevin đã làm mọi thứ có thể. Nó nói khi con bé bắt đầu hét lên nó đã chạy ngay đến, và khi hiểu ra sự việc nó đã ngay lập tức để nước chảy vào mặt con bé nhiều nhất có thể, rồi nó gọi cấp cứu, thậm chí trước khi gọi cho anh. Nó đã làm hoàn toàn đúng, trình tự hoàn toàn chính xác, nó quá giỏi.”
“Nó không gọi cho em.”
“Chà. Không hiểu tại sao nhỉ.”
“Những tổn thương…” Em hít một hơi. “Rất tệ phải không? Chắc hẳn là cực kỳ tồi tệ.” Em bắt đầu khóc, nhưng em ép mình dừng lại, bởi vì em phải làm rõ chuyện này. “Nếu con bé mất một mắt, và các bác sĩ cố gắng nhiều hơn so với những ca tương tự, vậy thì… Đó là một mớ hỗn độn. Phải mất, a... phải mất một khoảng thời gian.” Em dừng lại lần nữa, nghe những tiếng khóc bừng lên trong từng mạch máu. Không khí trở nên khô, nước bọt của em dính lại. “Phải mất một thời gian thứ đó mới hoạt động. Đó là lý do mà trên nhãn ghi là… là phải để nghỉ.”
Vật vã, em ấn đầu ngón tay vào mắt chính mình, chạm vào mí mắt mỏng manh, bao trùm nhãn cầu mềm mại, mịn màng.
“Em đang nói gì vậy? Bởi vì đã quá đủ tồi tệ khi trách Kevin đã bỏ mặc…”
“Bác sĩ nói nó đã thành sẹo! Con bé đã bị bỏng, tất cả bên mặt của nó! Thời gian, phải mất thời gian! Có thể Kevin đã rửa trôi đi, nhưng là khi nào? Khi nó đã xong ư?”
Anh tóm hai cánh tay em, kéo chúng lên hai bên đầu em, nhìn vào mắt em và nói. “Xong cái gì? Bài tập về nhà của nó? Buổi tập bắn cung?”
Em gào lên. “Xong với Celia.”
“Đừng bao giờ nhắc lại điều đó! Không một lần nào nữa! Kể cả với anh!”
“Nghĩ đi.” Em xoay người để giằng tay mình ra khỏi anh. “Celia, tự té axit lên mặt mình? Celia luôn sợ mọi thứ! Và con bé đã sáu tuổi, không phải hai. Em biết anh không nghĩ nó thông minh, nhưng nó không phải đứa thiểu năng! Con bé biết không được chạm vào bếp và con bé không uống thuốc tẩy. Trong khi đó, Kevin có thể chạm đến ngăn tủ, và nó nhắm mắt cũng mở được khóa. Nó không phải vị cứu tinh của con bé. Chính nó đã làm chuyện đó! Ôi Franklin, chính là nó…”
“Anh thất vọng về em, thất vọng!” Anh nói sau lưng em khi em cuộn mình dựa vào cánh cửa. “Biến chính con mình thành quỷ chỉ bởi vì em không thể thừa nhận sự bất cẩn của bản thân. Điều đó còn tệ hơn cả hèn nhát. Thật bệnh hoạn. Em đang loay hoanh ở đây với những lời buộc tội quá quắt, và như mọi khi em chẳng có bằng chứng. Vị bác sĩ đó, ông ta có nói gì về việc câu chuyện của Kevin không tương ứng với những tổn thương của con bé không? Không, không hề. Chỉ có mẹ nó mới phát hiện ra một tội ác nào đó bị che đậy bởi vì cô ấy là một chuyên gia y tế, một chuyên gia về chất ăn mòn bởi vì cô ấy thỉnh thoảng dọn dẹp nhà cửa.”
Như mọi khi, anh không thể cứ hét vào mặt em khi em đang khóc. “Nghe này,” anh van nài. “Em không biết mình đang nói gì bởi vì em đang rất buồn. Em đang không là chính mình. Chuyện này thật khó khăn và nó sẽ tiếp tục như vậy bởi vì em sẽ phải tiếp tục nhìn vào nó. Con bé sẽ rất đau đớn và có thể trông sẽ rất kinh khủng trong một thời gian. Điều duy nhất có thể khiến sự việc dễ dàng hơn là em phải đối mặt với chính trách nhiệm của mình trong chuyện này. Celia, ngay cả Celia với chuyện con chuột chù voi, cũng đã nhận lỗi của mình. Con bé đã để lồng mở! Và điều đó rất đau lòng, không phải chỉ là chuyện tồi tệ gì đã xảy ra mà là nếu con bé làm khác đi thì mọi chuyện đã không xảy ra. Con bé đã nhận trách nhiệm, và nó mới có sáu tuổi. Sao em lại không thể?”
“Em ước mình có thể nhận trách nhiệm.” Em thì thào, phả hơi vào cánh cửa kính bên cạnh. “Em sẽ nói ‘Ôi, em có thể tự kết liễu đời mình vì đã để chai thông cống đó trong tầm tay của con bé’. Anh không thấy như vậy sẽ dễ dàng hơn nhiều sao? Sao em lại đau khổ đến vậy? Nếu đó là lỗi của em, chỉ mình em? Nếu như thế, nó đã không đáng sợ đến vậy. Franklin, đây là chuyện nghiêm trọng, không phải chỉ là một cô bé gái những vết chàm nữa. Em không biết vì sao Kevin trở nên như vậy, nhưng nó là một nỗi kinh hoàng và nó ghét con bé…”
“Đủ rồi.” Lời thông báo của anh như một nghi thức chung cuộc, trầm và vang như tiếng kêu Amen từ một người cầu nguyện được ban phúc. “Anh không thường đặt ra luật. Nhưng Kevin vừa trải qua một tổn thương khủng khiếp. Em gái nó sẽ không còn như trước nữa. Nó đã giữ vững tâm trí mình trong cơn khủng hoảng, và anh muốn nó tự hào về điều đó. Nhưng nó chính là người trông trẻ, và nó chắc chắn sẽ lo sợ rằng đó là lỗi của mình. Vậy nên em phải hứa với anh, ngay bây giờ, em sẽ làm hết sức có thể để đảm bảo rằng đó không phải là lỗi của nó.”
Em kéo tay nắm cửa, mở hé ra vài xen-ti-mét. Em đã nghĩ, mình phải ra khỏi đây, mình phải chạy trốn.
“Đừng đi vội,” anh kéo tay em lại. “Anh muốn em hứa đã.” “Hứa sẽ câm miệng hay hứa sẽ tin vào câu chuyện vớ vẩn này? Em phải nói là lại một câu chuyện vớ vẩn nữa.”
“Anh không thể ép em phải tin chính con trai mình. Mặc dù anh chắc rằng mình đã cố hết sức.”
Anh đã đúng một ý: Em không có bằng chứng. Chỉ có khuôn mặt của Celia. Nếu em đúng. Con bé sẽ không bao giờ có thể trở nên xinh đẹp, phải thế không?
Em trèo xuống xe và nhìn anh qua cánh cửa đang mở. Một cơn gió lạnh thổi bay tóc em, em đứng nghiêm mình, nhớ đến những cuộc đình chiến mong manh giữa các vị tướng đa nghi diễn ra giữa chiến trường cằn cỗi.
“Được rồi,” em nói. “Chúng ta sẽ coi đây là một tai nạn. Anh thậm chí có thể nói với nó ‘Bố sợ rằng mẹ con đã quên cất chai Liquid- Plumr đi hôm thứ Bảy’. Sau cùng thì nó biết em đã thông tắc đường cống. Nhưng đổi lại anh phải hứa với em rằng chúng ta sẽ không bao giờ để Kevin ở một mình với Celia nữa, dù chỉ là năm phút.”
“Được thôi. Anh nghĩ đằng nào thì bây giờ Kevin cũng chẳng mấy hứng thú với việc trông trẻ nữa.”
Em nói chúng ta sẽ gặp nhau ở nhà.
“Eva!” Anh gọi với lại. “Em biết anh không thường xuyên chuyện bé xé ra to. Nhưng có lẽ em nên nói chuyện với ai đó. Anh nghĩ là em cần giúp đỡ. Đây không phải lời buộc tội đâu. Chỉ là, em đã nói đúng một điều. Chuyện này ngày càng nghiêm trọng và anh sợ rằng nó nằm ngoài khả năng của mình.”
Nó thực sự như vậy.
Vài tuần sau đó cả ngôi nhà yên lặng một cách kỳ quái, Celia vẫn đang hồi phục dần trong bệnh viện. Em và anh ít nói chuyện với nhau. Em sẽ hỏi anh muốn ăn gì cho bữa tối, anh sẽ trả lời gì cũng được. Liên quan đến Celia, chúng ta chủ yếu chỉ đề cập đến những công việc hậu cần khi một trong hai ta chuẩn bị vào thăm.
Mặc dù có vẻ hợp lý khi chúng ta đi riêng vì con bé sẽ có người bầu bạn nhiều hơn trong ngày, nhưng thực tế là chẳng ai trong chúng ta muốn ngồi chung chiếc xe quá nóng của anh thêm một lần nào nữa. Về nhà, chúng ta thảo luận về tình trạng của con bé mặc dù những chi tiết đó gây nhiều phiền muộn: một vết nhiễm trùng sau phẫu thuật khoét nhãn cầu của con bé làm tổn thương thêm dây thần kinh thị giác và sẽ đào thải cấy ghép. Tìm kiếm một bác sĩ mắt để tiếp tục theo dõi con bé, em túm được một bác sĩ tên là Krikor Sahatjian ở Upper East Side. Người A-me-ni-a sẽ chăm sóc lẫn nhau, em đã đảm bảo với anh. “Thì bác sĩ Kevorkian cũng vậy,” anh càu nhàu, nhận thức rõ ràng rằng người hỗ trợ tự sát đó là một người A-me-ni-a mà cộng đồng bảo thủ của em đã từ chối tiếp nhận. Tuy thế, em vẫn vui vì sự trao đổi gần như là một lời chế nhạo này, trong hoàn cảnh khan hiếm hiển nhiên như vậy.
Em nhớ mình đã hành xử tốt nhất từ trước tới giờ, không bao giờ cao giọng, không bao giờ phản đối khi anh chẳng buồn chạm vào đồ ăn mà em đã vất vả chuẩn bị. Khi nấu ăn, em cố gắng không tạo ra quá nhiều tiếng ồn, giảm bớt tiếng động của những chiếc nồi va vào nhau. Tôn trọng sự vui vẻ phi thường của Celia trong bệnh viện Nyack, em đã nuốt xuống những lời trầm trồ nhận xét dường như không phải phép theo cách nào đó, như thể bản chất tử tế của con bé là một sự sỉ nhục với những người khác, những người có lý do chính đáng để rên rỉ vì đau và trở nên nóng nảy trong quá trình bình phục. Trong gia đình, những lời khen ngợi của em dành cho con gái chúng ta dường như luôn bị nhầm lẫn với việc em tự khoe khoang về bản thân. Trong suốt thời gian đó, em đã nỗ lực phối hợp để hành xử bình thường, cùng với việc cố gắng vui vẻ và làm một bà mẹ tốt, giờ đây chúng ta có thể ghi thêm vào danh sách những dự án vốn đã hoàn toàn thất bại.
Nhận xét của anh về “sự giúp đỡ cần thiết” của em chứng minh rằng anh không an tâm. Em đã tua đi tua lại ký ức về việc cất chai Liquid-Plumr đó đi nhiều đến nỗi cuộn băng mòn cả đi và em gần như chẳng thể tin vào nó nữa. Em nhìn lại những mối nghi ngờ của mình và đôi khi chúng không… chà, chẳng có vẻ gì rõ ràng. Em đã cất cái chai đó hay chưa? Có phải những tổn thương là quá khủng khiếp so với câu chuyện mà Kevin đã kể? Liệu em có thể chỉ ra một mảnh vụn bằng chứng rõ ràng được đưa ra trước tòa? Em không muốn “nói chuyện với ai đó”, nhưng em sẽ đánh đổi để có thể được nói chuyện với anh.
Vài ngày sau tai nạn, anh triệu tập ba người chúng ta. Chúng ta vừa ăn tối xong, đang nói chuyện hờ hững. Kevin đã xúc đồ ăn của mình trực tiếp từ bếp. Để chiều lòng anh, nó giả bộ đi chậm chạp, ủ rũ đến bàn ăn. Cũng cảm thấy bất đắc dĩ khi được triệu tập, em thấy chính mình như một đứa trẻ, một lần nữa buộc phải quay lại tuổi lên chín để xin lỗi ông Wintergreen vì đã ăn cắp những hạt óc chó từ sân nhà ông ta. Lén liếc nhìn Kevin, em đã muốn nói, Bỏ cái điệu cười đó đi, đây không phải trò đùa, em gái con đang trong bệnh viện đấy. Em đã muốn nói, Hãy mặc cái áo phông mà không nhỏ hơn mình năm cỡ đi, nhìn kiểu ăn mặc đó khiến mẹ khó chịu. Nhưng em không thể. Trong văn hóa của gia đình ta, những lời khuyên răn phổ biến từ cha mẹ như vậy, nhất là từ em, là không thể chấp nhận được.
“Nếu con có lo lắng, Kev,” anh bắt đầu, (mặc dù trông nó chẳng lo lắng chút nào) “đây không phải là một buổi thẩm vấn. Bố mẹ chủ yếu muốn nói cho con biết bố mẹ đã ấn tượng thế nào với sự nhanh trí của con. Ai mà biết nếu con không gọi cấp cứu ngay lúc đó thì chuyện còn có thể tệ tới mức nào”. (Thế nào nữa? Em nghĩ. Trừ khi con bé tắm trong thứ dung dịch đó.) “Và mẹ con có vài điều muốn nói.”
“Mẹ muốn cảm ơn con,” em nói, cố tránh ánh mắt của Kevin, “... vì đã đưa em gái con đến bệnh viện”.
“Nói với con điều em nói với anh đi,” anh thúc giục. “Nhớ chứ, em nói mình lo rằng con có thể cảm thấy… em biết đấy.”
Phần này thì dễ. Em nhìn thẳng vào mặt nó và nói. “Mẹ nghĩ con có thể sẽ cảm thấy đây là trách nhiệm của mình.”
Chẳng hề nao núng, nó nheo mắt lại, và em đối diện với chính cái mũi rộng của mình, quai hàm nhỏ của mình, cái trán nghiêng và nước da xỉn của mình. Em đang nhìn vào một cái gương, nhưng em không biết hình phản chiếu của mình đang nghĩ gì. “Tại sao lại thế?”
“Bởi vì đáng nhẽ con phải trông nom con bé.”
“Nhưng em muốn nhắc con rằng chúng ta biết con không thể để mắt tới em gái mọi phút mọi giây, và tai nạn thường xảy ra, và đó không phải lỗi của con. Những gì em đã nói với anh trong xe ấy,” anh nói.
Giống hệt như khi em phải xin lỗi ông Wintergreen. Khi em chín tuổi, em đã muốn thốt ra rằng, Phần lớn mấy quả óc chó ngu ngốc đấy toàn bị sâu hoặc hỏng, ông già khó tính ạ, nhưng thay vào đó, em hứa sẽ nhặt một thùng đầy thứ hạt rẻ tiền đó và mang trả lại những hạt đã được bóc vỏ.
“Bố mẹ không muốn con tự trách mình.” Giọng em giống hệt giọng Kevin khi nó nói chuyện với cảnh sát thưa ngài thế nọ, thưa ngài thế kia. “Lỗi là của mẹ. Mẹ không nên để chai Liquid-Plumr đó ngoài ngăn tủ.”
Kevin nhún vai, “Chưa bao giờ con tự trách mình”. Nó đứng dậy. “Con đi được chưa?”
“Một chuyện nữa,” anh nói. “Em gái con sẽ cần sự giúp đỡ của con.”
“Tại sao?” Nó vừa nói vừa đi vào bếp. “Chỉ một mắt thôi phải không? Đâu phải con bé cần một con chó dẫn đường hay một cái gậy dò đường chứ?”
“Đúng,” em nói. “Thật may cho nó.”
“Con bé sẽ cần sự ủng hộ của con, con bé sẽ phải đeo một miếng bịt mắt,” anh nói.
“Tốt thôi,” nó quay lại với một túi quả vải từ tủ lạnh. Đang là tháng Hai, vào mùa vải.
“Con bé sẽ phải đeo mắt giả, bố muốn con ở bên cạnh em nếu bọn trẻ con hàng xóm trêu em,” anh nói.
“Như thế nào?” Nó vừa nói vừa tỉ mẩn bóc lớp vỏ màu vàng cam, để lộ ra phần cùi trắng hồng. “Celia sẽ không giống như một đứa dở hơi chứ?” Khi quả cầu trong suốt nhợt nhạt đã được bóc vỏ, nó nhét vào miệng, mút rồi lại lôi ra.
“Chà, tuy thế con vẫn…”
“Ý con là... bố à.” Theo trình tự, nó tách phần thịt trơn của quả vải khỏi phần hạt nâu mịn. “Không chắc bố có nhớ không, nhưng là trẻ con…” Nó nhét miếng cùi vào miệng. “... Celia phải tự chấp nhận.”
Em có thể cảm thấy anh đang hài lòng từ bên trong. Đây là cậu thiếu niên của anh đang phô trương hình mẫu cứng cỏi, che giấu cảm xúc bối rối, mâu thuẫn của mình về tai nạn bi kịch của em gái. Nó chỉ diễn thôi Franklin, một sự man rợ bọc đường. Nó có bối rối và mâu thuẫn, nhưng nếu anh nhìn vào đồng tử của nó, chúng đen thẫm và dính như nhựa đường. Cảm giác tội lỗi tuổi thiếu niên của nó, chúng không dễ thương chút nào.
“Này ngài Plastic,” Kevin mời, “muốn ăn một trái không?”. Anh từ chối.
“Mẹ không biết là con thích ăn vải đấy,” em nói khi nó bắt đầu lấy quả thứ hai.
“À vâng,” nó nói, lột trần quả vải và lăn quả cầu mềm trên bàn bằng ngón tay trỏ. Một màu sắc ma quái, màu trắng nhờ của đôi mắt mắc bệnh đục thủy tinh thể.
“Chỉ là, chúng rất thanh cảnh,” em nói, băn khoăn.
Nó cắn quả vải bằng răng cửa. “Vâng, bất kể mẹ gọi nó là gì. Một mùi vị không tự nhiên mà có.” Nó mút chùn chụt.
Nó rõ ràng là định ăn hết cả túi đó. Em lao ra khỏi phòng, và nó cười.
Vào những hôm mà buổi chiều phải vào viện với Celia, em sẽ làm việc ở nhà. Xe buýt của trường Kevin thường thả nó xuống đúng lúc em trở về từ bệnh viện. Lần đầu em đi ngang qua nó khi nó đang lả lướt qua đường Palisades Parade, em đỗ chiếc Luna của mình lại và rủ nó cùng lên xe đi lên con dốc. Anh sẽ nghĩ rằng ở riêng trong xe cùng với con trai mình là chuyện hoàn toàn bình thường, đặc biệt là khi chỉ có hai phút. Nhưng Kevin và em hiếm khi đặt mình vào hoàn cảnh ngột ngạt như vậy, và em nhớ mình đã lảm nhảm suốt đoạn dốc. Trên đường rải rác vài chiếc xe đang chờ để giải thoát con mình khỏi phải tự đi quãng đường vài ba mét, và em để ý thấy mỗi chiếc xe đều đỗ ở một không gian riêng biệt. Em đã buột miệng trước khi kịp nhớ ra rằng Kevin ghét mấy trò đùa chơi chữ của em về xe SUV, một câu nói hớ nữa để tăng thêm trí tưởng tượng như thể em không thực sự sống ở nơi này.
“Con biết đấy, những thứ này là một phép ẩn dụ cho đất nước này,” em tiếp tục. Em đã biết trước những cuộc nói chuyện kiểu này có thể khiến con trai mình phát điên, nhưng có lẽ đó là lý do mà em càng cố làm, cũng như em lôi chuyện Dylan Klebold và Eric
Harris sau này ở Claverack chỉ để khiêu khích nó. “Họ ngồi thẳng lưng trong xe dọc con đường cao hơn và quyền năng hơn tất cả những người khác, và họ có sức mạnh hơn bất cứ ai biết phải làm gì. Ngay cả nét mặt nhìn nghiêng của họ, chúng làm mẹ nghĩ đến những người mua hàng béo ị, lạch bạch trong trung tâm thương mại trong những chiếc quần soóc và những đôi giày thể thao độn khổng lồ, nhồi vào mặt mình những chiếc bánh mì quế.”
“Vậy mẹ đã bao giờ thử lái một chiếc chưa? (Em phải thừa nhận rằng mình chưa từng thử) Thế mẹ biết gì chứ?”
“Mẹ biết rằng chúng chiếm quá nhiều diện tích trên đường, ngốn xăng, đôi khi còn rung lắc…”
“Sao mẹ phải quan tâm nếu chúng bị lắc? Đằng nào mẹ chả ghét mấy người đó.”
“Mẹ không ghét…”
“Không gian riêng biệt.” Lắc đầu, nó đóng sầm cánh cửa xe sau lưng. Lần tiếp theo em đề nghị chở nó lên đồi, nó xua em đi.
Thậm chí có điều gì đó không thể chịu nổi rất kỳ lạ trong những giờ mà thi thoảng em và nó ở cùng trong nhà trước khi chiếc xe của anh tiến vào ga-ra. Anh sẽ nghĩ điều đó thật dễ dàng, trong không gian rộng lớn bằng gỗ tếch đó, nhưng không quan trọng em hay nó ngồi ở đâu, em không bao giờ mất nhận thức về sự hiện diện của nó cũng như nó đối với sự hiện diện của em. Thiếu anh và Celia như một bộ giảm xóc, chỉ hai người em và nó ở trong cùng mái nhà, cảm giác như một thế giới trần trụi trong tâm trí. Bọn em không nói gì mấy. Nếu nó đi vào phòng, em không hỏi về bài tập; nếu Lenny qua chơi, em không hỏi bọn nó đang làm gì; và nếu Kevin ra khỏi nhà, em không hỏi nó đi đâu. Em tự nhủ rằng cha mẹ nên tôn trọng sự riêng tư của thanh thiếu niên, nhưng em cũng biết rằng đó chỉ là vì mình hèn nhát.
Cảm giác trần trụi này được bồi đắp thêm bởi những thứ có thật. Em biết chàng trai mười bốn tuổi đó đang tràn đầy hooc-môn. Em biết rằng thủ dâm là bình thường, sự giải phóng cần thiết, một trò tiêu khiển vô hại và thú vị mà không nên bị đánh đồng với tội lỗi. Nhưng em cũng nghĩ rằng với thanh thiếu niên, thật ra là với tất cả mọi người, thứ giải trí này nên là bí mật. Chúng ta đều làm thế (hoặc em từng làm thế, lâu lâu một lần, Franklin, anh nghĩ gì thế?), chúng ta đều biết là chúng ta đều làm thế, nhưng đó không phải là thói quen để nói ra. “Anh yêu, anh có thể để ý đến món sốt mì được không bởi vì em chuẩn bị thủ dâm đây.”
Nó đã phải xảy ra nhiều hơn một lần mới khiến em phải nhắc đến, bởi vì sau trận cãi vã ở bãi xe bệnh viện, em đã quên hết những chuyện tầm phào của mình trong vài tháng.
“Nó để cửa phòng tắm mở.” Em miễn cưỡng thông báo với anh trong phòng ngủ của chúng ta vào một buổi tối mà khi đó anh đang phủi râu vụn từ chiếc máy cạo râu của mình. “Và anh có thể nhìn thấy phòng tắm từ hành lang.”
“Vậy là nó quên đóng cửa?”
“Nó không quên. Nó đợi đến khi em vào bếp để pha một cốc cà phê, và em sẽ thấy nó khi em quay lại phòng làm việc của mình. Nó rất có tính toán, và nó rất... ồn.”
“Ở tuổi nó, anh chắc còn nghịch ngợm hơn.” “Trước mặt mẹ anh?”
“Trong góc, sau cánh cửa. Anh nghĩ mình đã cố giữ bí mật nhưng chắc bà ấy vẫn biết.”
“Sau cánh cửa,” em nhấn mạnh. “Cánh cửa. Nó là thứ quan trọng.” Trời ạ, cái máy cạo đó hẳn bị kẹt rất nhiều râu tối nay. “Biết rằng em nhìn thấy… Em nghĩ điều đó làm nó có hứng.”
“Chà, dù em có cố gắng tỏ ra nó lành mạnh bao nhiêu, nhưng mỗi người đều có chút kỳ lạ trong chuyện này.”
“Anh không hiểu. Em biết rằng nó sẽ làm thế và em ổn với việc đó, nhưng tốt hơn là em không nên liên quan. Việc đó không thích hợp.” Cụm từ đó mang nhiệm vụ nặng nề trong thời đại này. Vụ bê bối của Monica Lewinsky đã đổ bể một tháng trước đó, và Tổng thống Clinton sau đó đặt một dấu chấm hết cho mọi thắc mắc bằng việc cho rằng mối quan hệ của họ là không thích hợp.
“Thế sao em không nói gì?” Em nghĩ anh đã chán phải làm người trung gian.
“Sẽ ra sao nếu Celia thủ dâm trước mặt anh? Anh có nói với nó không hay muốn em làm chuyện đó?”
“Thế em muốn anh nói gì?” “Rằng nó khiến em khó chịu.” “Nghe mới nhỉ.”
Em nằm phịch xuống giường và cầm cuốn sách mà em sẽ không thể đọc được. “Chỉ cần bảo nó đóng cái cửa chết tiệt lại.”
Em đáng ra chẳng nên bận tâm. Đúng, anh thông báo rằng anh đã làm theo yêu cầu của em. Em tưởng tượng anh thò đầu vào vào phòng nó và nói điều gì đó vui vẻ và đồng cảm như kiểu “mọc chút lông trên mu”, một cách biểu đạt cũ kỹ mà nó có thể sẽ không hiểu được, rồi anh bổ nhào vào, cực kỳ đột ngột: “Hãy nhớ rằng chuyện đó là riêng tư, được chứ chàng trai?” cùng lời chúc ngủ ngon. Nhưng kể cả thay vào đó anh có một cuộc nói chuyện dài, nghiêm túc, sốt sắng, anh vẫn sẽ nhắn nhủ với nó rằng nó khiến em khó chịu, và với em thì Kevin làm gì cũng sai.
Ngay buổi chiều sau hôm anh “nói chuyện” với nó, em đang tiến về phòng làm việc với một tách cà phê và em có thể nghe thấy tiếng gầm gừ vọng lại từ hành lang. Em cầu mong rằng nó đã nhận được lời nhắn nhủ và sẽ có ít nhất là một lớp gỗ mỏng thần thánh ngăn cách em với sự nam tính đang trỗi dậy của con trai chúng ta. Em nghĩ: không tính tủ quần áo, chỉ có bốn, năm cánh cửa trong căn nhà chết tiệt này, và ta phải dùng cho xứng đáng với số tiền bỏ ra để mua chúng. Nhưng khi em bước thêm một, hai bước nữa, mức độ tiếng ồn không tương ứng với phép lịch sự tối thiểu này.
Em ấn tách cà phê ấm của mình vào giữa hai mắt để xoa dịu cơn đau đầu vừa xuất hiện này. Em đã lấy chồng mười chín năm và em biết cơ thể đàn ông thế nào và chẳng có lý do gì để phải sợ một cái vòi nước được thần thánh hóa. Nhưng phải chịu đựng những tiếng rên nhỏ liên tục từ cuối hành lang, em bỗng trở lại lúc mười tuổi, được cử đi làm những việc lặt vặt cho người mẹ luôn nhốt mình trong nhà, phải đi tắt qua công viên, đã được huấn luyện giữ mắt nhìn thẳng trong khi những đứa con trai lớn hơn cười khúc khích trong bụi rậm với cái quần của chúng đang tụt xuống. Em cảm thấy bị theo dõi, trong chính nhà mình, lo sợ, bị săn lùng và nhạo báng, và em không ngại nói với anh rằng em rất tức giận về chuyện đó.
Rồi em tự thách mình, như cách mà em tự về nhà ngày xưa, khi em huấn luyện bản thân không chạy để không cho chúng cơ hội đuổi theo. Em hành quân thay vì nhón chân đi xuống hành lang, gót chân đạp xuống ván lót sàn, cộp cộp. Em tiến về phòng tắm trẻ em, cửa mở toang, và đây, đứa con đầu lòng của chúng ta với sự rực rỡ của tuổi dậy thì cho đến những nốt mụn nhọt nóng rát trên lưng nó. Chân giang rộng và lưng cong xuống, nó đã trụ một thế đứng xiên một góc với bồn cầu để em có thể nhìn thấy bàn tay nó, màu tím và lốm đốm với thứ mà lúc đầu em nghĩ là chất bôi trơn K-Y, nhưng miếng màng bọc bạc trên sàn lại cho thấy đó là miếng bơ nhạt Land O’Lakes của em, và đây chính là màn giới thiệu một sự thật là con trai chúng ta đã mọc những sợi lông thẳng không bình thường, khỏe mạnh. Mặc dù hầu hết đàn ông thực hiện bài tập này với đôi mắt nhắm, Kevin thì mở, để ném cho mẹ nó một cái nhìn ranh mãnh, lờ đờ qua vai. Đáp lại, em trừng mắt nhìn vào dương vật của nó, không nghi ngờ gì điều em đã nên làm trong công viên thay vì quay mặt đi hướng khác, vì cái đó thực sự không có gì ấn tượng khi đối đầu trực diện đến nỗi nó khiến em tự hỏi tại sao phải quan trọng hóa lên. Em với tay vào và đóng sầm cửa, thật mạnh.
Hành lang vang lên tiếng tặc lưỡi khô khan. Em quay lại bếp, em đã làm đổ cà phê ra người.
Em biết anh hẳn đang thắc mắc. Tại sao em không chỉ đơn giản là bỏ đi? Chẳng có gì ngăn em mang Celia theo khi nó chỉ còn một mắt và quay về Tribeca. Em đã có thể bỏ lại anh cùng với con trai anh và căn nhà kinh khủng đó, một sự kết hợp tương xứng. Sau cùng thì em vẫn có tiền.
Em không chắc anh sẽ tin, nhưng em chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ sẽ bỏ đi. Có lẽ em đã dành đủ thời gian bên anh để thấm nhuần niềm tin mãnh liệt của anh rằng một gia đình hạnh phúc không chỉ tồn tại trong truyền thuyết hoặc kể cả nó có như vậy, thì thà cố gắng đến cùng dù không đạt được còn hơn là buồn bã với sự cam chịu. Em ghét viễn cảnh bị đánh bại. Nếu mang thai Kevin là em bắt đầu nhận lời thách thức, thì chịu đựng Kevin hàng ngày cơ bản bao gồm những thử thách ngày càng lớn hơn. Và có lẽ em có chút lợi thế bởi sự cứng đầu của mình. Nó sắp mười lăm tuổi. Nó chưa từng nói về đại học, chưa từng nhắc chút gì về tương lai, chưa từng thể hiện dù chút quan tâm nhỏ nhất đến buôn bán hay một nghề nghiệp nào, tất cả những gì em biết là nó vẫn gắn với tư tưởng từ khi lên năm rằng sẽ nhận phúc lợi xã hội. Nhưng theo lý thuyết thì con trai chúng ta sẽ rời khỏi nhà trong khoảng ba năm nữa. Vậy sau đó, chỉ còn anh, em và Celia, và chúng ta sẽ có thể thấy được cái gia đình hạnh phúc mà anh nói tới. Ba năm đó sắp kết thúc, và đó chính là ba năm dài nhất đời em, em đã không thể nào lường trước được ngày đó. Cuối cùng, điều này có thể quá đơn giản, nhưng em yêu anh. Em yêu anh, Franklin, vẫn luôn như vậy.
Tuy nhiên, em đã cảm thấy bị vây hãm. Con gái em đã mù một mắt, chồng em nghi ngờ sự tỉnh táo của em, con trai em thì chế giễu em bằng cái dương vật phết bơ của nó. Mary Woolford chọn chính thời điểm này để thực hiện chuyến viếng thăm đầy phẫn nộ đầu tiên, và cũng là cuối cùng, đến nhà ta, bởi vì lần tiếp theo bọn em gặp nhau là ở tòa án.
Khi đó cô ta vẫn còn mảnh mai, mái tóc sẫm đều màu nên em không hề biết rằng nó đã được nhuộm; cách chúng ghim lên đầu cô ta có hơi khủng khiếp. Thậm chí dù chỉ để gặp gỡ hàng xóm, cô ta cũng mặc một bộ đồ Chanel, những viên đá màu mè trên ve áo ánh lên một địa vị tôn kính. Ai mà đoán được chỉ trong ba năm ngắn ngủi, cô ta lại lê lết ở Nyack Grand Union trong bộ đồ kẻ không điểm nhấn và đập vỡ trứng ở ghế ngồi trẻ em trên xe đẩy của một phụ nữ khác.
Cô ta đã giới thiệu mình một cách cộc lốc, mặc dù trời lạnh, cô ta vẫn từ chối vào nhà. “Con gái tôi, Laura, là một cô bé đáng yêu,” cô ta nói. “Một bà mẹ thì luôn nghĩ vậy nhưng tôi tin con bé hấp dẫn trong mắt cả những người khác. Trừ hai ngoại lệ đặc biệt: bản thân Laura và cậu trai trẻ của ông bà.”
Em muốn trấn an người phụ nữ đó rằng nhìn chung đứa con trai cau có của chúng ta thất bại trong việc thấy bất kỳ ai hấp dẫn, nhưng em cảm thấy đó mới chỉ là lời mào đầu. Điều này nghe có vẻ không tử tế lắm khi một năm sau con trai chúng ta giết hại con gái cô ta, nhưng em sợ rằng mình đã không ưa Mary Woolford ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô ta di chuyển như người say, mắt cô ta luôn đảo như thể nó đang quay cuồng vì sự hỗn loạn bên trong cô ta. Nhưng vài người nâng niu sự đau khổ của mình như cách người ta làm hư những con chó nòi bằng những hộp pa-tê. Mary tấn công thẳng vào em như một kiểu người mà em có thể tóm tắt là Thích kiếm chuyện hơn là lãng phí năng lực điều tra mà em luôn nghĩ, từ kinh nghiệm của mình, hầu hết các vấn đề của em đều tìm đến anh.
“Trong suốt khoảng một năm…” Mary tiếp tục, “Laura phải chịu đựng một sự lầm tưởng rằng nó thừa cân. Tôi chắc rằng bà cũng đã đọc về tình trạng đó. Con bé bỏ ăn, vùi bữa sáng vào thùng rác và nói dối rằng đã ăn ở nhà bạn. Lạm dụng thuốc nhuận tràng, thuốc giảm cân. Đủ để nói rằng mọi chuyện đang rất kinh khủng. Tháng Chín vừa rồi con bé yếu đến nỗi phải nhập viện với thuốc truyền tĩnh mạch mà con bé sẽ giật ra nếu không liên tục canh chừng. Bà có hiểu được tình cảnh đó không?”.
Em lẩm bẩm gì đó về sự thương xót mờ nhạt. Thường thì em sẽ đồng cảm lắng nghe những câu chuyện như vậy, mặc dù em không thể ngừng nghĩ đến con gái mình lúc này cũng đang nằm trong bệnh viện và không, em tự thuyết phục mình rằng con bé chẳng bao giờ làm chuyện gì dại dột với bản thân. Hơn nữa, em đã nghe quá nhiều câu chuyện về Karen Carpenter73 ở buổi họp phụ huynh tại trường Gladstone, và họ thường làm quá lên. Độ chính xác của những chẩn đoán chứng biếng ăn có vẻ như đáng thèm muốn không chỉ với những học sinh mà còn với mẹ của chúng, những người luôn cạnh tranh xem con gái ai ăn ít hơn. Chẳng trách mà mấy cô bé tội nghiệp đó bối rối.
73 Karen Carpenter là giọng ca chính của ban nhạc The Carpenters. Bà qua đời ở tuổi 33 vì chứng biếng ăn.
“Chúng tôi đã có vài tiến triển. Vài tháng qua, con bé đã chấp nhận những phần ăn khiêm tốn nhất của mình trong bữa ăn cùng gia đình mà nó bị ép phải tham gia. Cuối cùng nó cũng tăng cân một chút, như con trai Kevin của bà đã rất háo hức khi nhận ra.”
Em thở dài. So với những vị khách của chúng ta, em chắc mình trông hốc hác hơn họ rất nhiều. Nhưng chắc chắn em trông không ngạc nhiên, và việc em thất bại khi tỏ ra ôi-chúa-tôi-thằng-bé-đó-đã- làm-gì dường như càng chọc tức cô ta.
“Tối qua tôi bắt gặp cô con gái xinh đẹp đang cố nôn bữa tối ra! Tôi đã khiến nó thừa nhận rằng cả tuần qua nó đã tự ép mình nôn thức ăn ra. Tại sao? Một thằng nhóc ở trường liên tục nói rằng nó béo! Chưa đến bốn mươi lăm ki-lô-gram và nó bị trêu chọc là một con ‘lợn thịt74’! Không dễ để khiến nó nói ra tên của thằng nhóc đó và nó đã cầu xin tôi không đến đây hôm nay. Nhưng tôi tin đây là lúc để cha mẹ nhận trách nhiệm cho những hành động phá hoại của con cái mình. Vợ chồng tôi làm mọi thứ để ngăn Laura tự hành hạ bản thân. Vậy nên vợ chồng ông bà có thể làm ơn cũng ngăn con trai mình làm tổn thương con bé thêm được không?”
74 Lợn vỗ béo để lấy thịt.
Đầu em lắc như mấy con chó thò ra khỏi cửa sổ xe ô tô. “Như thế nào?” Em kéo dài giọng. Có thể cô ta nghĩ em đang say.
“Tôi không quan tâm ông bà làm thế nào.”
“Bà muốn chúng tôi nói chuyện với thằng bé?” Em phải kìm lại khóe miệng mình để không kéo lên thành một nụ cười nhếch mép đầy hoài nghi mà khiến em nghĩ đến chính Kevin.
“Tôi nghĩ vậy!”
“Nói với nó rằng nên cẩn trọng hơn với cảm xúc của người khác và tôn trọng những quy tắc vàng ư?” Em dựa vào khung cửa với một ánh mắt gần như là cái liếc đểu, và Mary lùi lại. “Hoặc chồng tôi có thể có một cuộc trao đổi đàn-ông-với-nhau, và dạy con trai tôi rằng đàn ông thực thụ thì không độc ác và hung hăng mà phải hiền lành và nhân ái?”
Em phải dừng lại một giây để không cười phá lên. Em tự nhiên hình dung ra hình ảnh anh cười phá lên trong bếp và kể lại Ôi, em yêu, đúng là một sự hiểu lầm trầm trọng! Kevin nói rằng cô bé Laura da- bọc-xương đáng thương kia chỉ đơn giản là nghe nhầm! Nó không gọi con bé là béo mà là xéo xắc! Nó không bảo con bé là lợn thịt mà là mũi tịt! Một cái nhếch mép hẳn đã lộ ra trên mặt em, bởi vì mặt Mary trở nên tím tái và bùng nổ. “Tôi không thể hiểu nổi sao trên đời này lại có loại người nghĩ rằng chuyện này buồn cười.”
“Bà Woolford, bà có đứa con trai nào không?” “Laura là con một,” Mary cẩn thận trả lời.
“Vậy thì tôi mời bà quay lại những bài vè sân trường để biết những điều gì làm nên một cậu bé. Tôi cũng muốn giúp bà, nhưng thực tế? Nếu tôi và Franklin có nói gì đó với Kevin thì hậu quả ở trường với con gái bà sẽ thậm chí còn tệ hơn. Có lẽ đây là lúc để dạy cho Laura rằng, như bọn trẻ vẫn hay nói ấy, chấp nhận đi!”
Em sẽ phải trả giá lần lượt cho hiện thực này về sau, mặc dù khi đó em không thể biết rằng lời khuyên khó nuốt của mình sẽ được trình ra trong lời khai của Mary ở phiên tòa dân sự hai năm sau, thêm thắt chút cay độc.
“Cảm ơn không vì gì cả.”
Nhìn Mary bực dọc đi xuống đoạn sân lát đá, em ngẫm nghĩ về một sự thật rằng anh, giáo viên của Kevin, và giờ là Mary Woolford đây, cho rằng em, là một người mẹ, phải nhận lấy những trách nhiệm này. Công bằng thôi. Nhưng nếu như em cực kỳ có trách nhiệm thì tại sao em vẫn thấy mình bất lực đến vậy?
Celia về nhà vào đầu tháng Ba, Kevin chưa một lần nào vào viện thăm con bé. Để bảo vệ con bé, em đã bảo nó đừng đi. Anh thì đưa ra một lời mời đi cùng kỳ quặc, nhưng rút lại để bảo vệ Kevin khỏi những tổn thương. Nó chẳng bao giờ hỏi xem tình hình con bé thế nào, anh biết đấy. Ai nghe cũng sẽ nghĩ rằng nó chẳng có đứa em gái nào cả.
Em mới chỉ đạt được những tiến triển nhỏ nhất trong việc tự khiến mình thoải mái khi đối mặt với diện mạo mới của con bé. Vết bỏng vương vãi trên má con bé và kéo thành một vệt qua thái dương, mặc dù đã bắt đầu lành lại nhưng vẫn còn lớp vảy cứng, và em nài nỉ con bé không được chạm vào nếu không muốn những vết sẹo ấy càng trầm trọng hơn. Con bé rất nghe lời, và em nghĩ về Violetta. Chưa từng quan tâm đến thời trang cho người một mắt, em nghĩ rằng miếng che mắt của Celia sẽ màu đen, và hình ảnh Shirley Temple trong bài Những con tàu đầy kẹo mút có lẽ đã xoa dịu tưởng tượng về cô cướp biển nhỏ tóc vàng của em. Em cũng mong miếng che mắt sẽ màu đen, và rồi em có thể sẽ chạy ra ngoài và mua một chiếc mũ tam giác với nỗ lực thảm hại để biến cơn ác mộng rùng rợn này thành một trò chơi hóa trang màu mè đánh lạc hướng con bé.
Thay vào đó, màu da người của miếng dán 3M Opticlude biến mặt bên trái của con bé trở nên trống rỗng. Phần sưng lên ở bên trái đã phá hủy mọi cấu trúc có sẵn như là gò má của con bé. Như thể mặt con bé không còn ở định dạng ba chiều nữa mà giống như một chiếc bưu thiếp với một mặt có hình ảnh và một mặt trắng trơn. Em có thể thoáng thấy gương mặt bên phải, và trong một chốc lát em thấy cô bé con của mình vẫn không có gì thay đổi, nhưng khi liếc sang mặt bên trái, con bé đã bị xóa sạch.
Bộ mặt giờ-mẹ-đã-thấy-con và giờ-thì-không này của con bé mang đến cho em một sự nhận thức mới đầy đau đớn rằng trẻ con là một món hàng dễ hỏng. Mặc dù em không coi con bé là hiển nhiên, nhưng khi con bé về nhà, em gần như từ bỏ mọi nỗ lực để che đậy sự thiên vị của mình dành cho nó. Con bé không thể rời khỏi tầm mắt của em nữa, và em để cho nó nhẹ nhàng núp vào bóng mình và cùng em làm những việc vặt trong nhà. Em chắc rằng anh đúng khi nói rằng không nên để con bé bị chậm lại quá nhiều so với bạn bè ở trường và con bé nên quen với khuyết tật của mình ở nơi công cộng càng sớm càng tốt, nhưng em vẫn xin nghỉ ở AWAP và giữ con bé ở nhà thêm hai tuần. Trong khi đó, con bé đã mất một vài kỹ năng mà nó từng thành thạo, ví dụ như tự buộc dây giày và em phải quay lại buộc giúp cho nó và dạy lại nó từ đầu.
Em theo dõi con bé khi có mặt Kevin như một con diều hâu. Em thừa nhận rằng con bé không hành động như là đang sợ sệt nó. Và khi nó đem đến cho con bé vô số những yêu cầu nhàm chán, kể cả khi con bé đã quá lớn để chơi trò ném đi và tìm mang về, nó đối xử với con bé như một thứ thú cưng với những trò hạn chế. Nhưng ngay cả khi đáp lại một số yêu cầu nhỏ, vô hại như lấy cho nó một cái bánh quy hay cái điều khiển tivi, em nghĩ mình đã phát hiện ra ở con gái mình có chút gì đó do dự, chút gì đó ớn lạnh, như một cú nuốt khó khăn. Và mặc dù con bé từng có lần nài nỉ được mang bao đựng tên của Kevin và cảm thấy vinh dự khi giúp nó lấy lại những mũi tên từ bia bắn, ngay lần đầu tiên nó đề nghị con bé tiếp tục công việc, em đã ngăn lại: em biết nó sẽ cẩn thận, nhưng Celia chỉ còn một mắt và con bé sẽ không được đến gần khu tập bắn. Em đã nghĩ Celia sẽ lại thút thít. Con bé lúc nào cũng khao khát được chứng minh sự hữu ích của mình với anh trai và thích được xem anh trai đứng như Hiawatha75 và phóng mũi tên vào hồng tâm. Thay vào đó, nó nhìn về phía em bằng ánh mắt có vẻ biết ơn dưới mái tóc lấp lánh những giọt mồ hôi.
75 Hiawatha là nhà lãnh đạo người Mỹ bản địa và đồng sáng lập của Liên minh Iroquois.
Em đã ngạc nhiên khi Kevin rủ Celia ra ngoài chơi ném đĩa, lần đầu tiên nó chơi với em gái, và thậm chí bị ấn tượng một chút.
Vậy nên em bảo con bé rằng nó có thể ra chơi miễn là đeo miếng bảo vệ mắt, sự quan tâm của em đến bên mắt còn lại của con bé bây giờ có hơi thái quá. Nhưng vài phút sau em nhìn ra cửa sổ, Kevin đang chơi với em gái chỉ theo nghĩa một người chơi với chính cái đĩa đó. Sự nhận thức về tầm nhìn của Celia vẫn còn rất kém, và con bé liên tục bắt cái đĩa trước khi nó bay đến, hụt, và rồi nó sẽ đập vào người con bé. Hài hước lắm.
Tất nhiên, phần khó nhất là giải quyết lỗ hổng trên đầu Celia, vốn phải được lau thường xuyên bằng dầu gội trẻ em và tăm bông ẩm. Khi bác sĩ Sahatjian đảm bảo với chúng ta rằng dịch sẽ giảm tiết ra khi một bộ phận giả được lắp vào và hoàn thành quá trình lành vết thương, ban đầu cái lỗ liên tục tiết ra dịch vàng, và thi thoảng vào buổi sáng em phải ngâm cả chỗ đó trong khăn giấy ướt bởi vì mí mắt đã tạo thành một lớp màng khô cứng khi con bé ngủ. Mí mắt của nó bị võng và sưng lên, đặc biệt là từ khi bị hủy hoại bởi a-xít và được tái tạo lại một phần từ phần da đùi trong của con bé. (Rõ ràng việc nâng mí mắt đã trở thành một nghệ thuật có nhu cầu cao ở Nhật Bản bởi sự ảnh hưởng từ phương Tây, nếu là lúc khác, em hẳn đã thấy một minh chứng khủng khiếp cho sức mạnh của những quảng cáo phương Tây.) Chỗ sưng phồng tím tái khiến con bé trông như mấy đứa trẻ bị đánh đập trong những tấm áp phích khuyến khích người ta đến trình báo với cảnh sát về hàng xóm của mình. Với một bên mắt xẹp và bên còn lại thì mở, con bé dường như đang cố nháy mắt hết sức, như thể em và nó đang chia sẻ một bí mật khủng khiếp.
Em nói với Sahatjian em không chắc mình đủ can đảm để lau cái lỗ đó mỗi ngày; ông ấy trấn an rằng rồi em sẽ quen thôi. Về lâu dài thì ông ấy đúng, nhưng lần đầu tiên khi em nâng mí mắt nó lên bằng ngón tay cái của mình em chỉ thấy một cái lỗ kinh tởm. Nếu nó không đến nỗi bi thảm như em lo sợ, thì nó cũng gây khó chịu ở một mức tế nhị. Lúc đó không có ai ở nhà. Hiệu ứng mà nó tạo ra gợi nhớ đến những đôi mắt hình hạnh nhân trong tranh của Modiglianis mà sự biến mất của đồng tử mang lại cho những nhân vật trong tranh một vẻ dịu dàng như thôi miên và sự lặng lẽ, mặc dù cũng mờ nhạt và hơi ngu ngốc. Cái lỗ chuyển từ màu hồng ở rìa ngoài sang màu đen tàn khốc ở phía sau, nhưng khi em đặt nó dưới ánh sáng để nhỏ thuốc kháng sinh, em có thể thấy miếng nhựa bất hợp lý giữ cho hốc mắt khỏi sụp xuống, em như đang nhìn vào một con búp bê.
Em biết anh khó chịu vì em cưng nựng con bé nhiều quá và anh cũng cảm thấy tệ vì chính sự khó chịu đó. Để bù đắp, anh đã hết sức trìu mến với Celia, kéo con bé vào lòng, đọc truyện cho nó nghe. Còn em, em nhận thức quá rõ những dấu hiệu của sự cân nhắc kỹ càng trước những nỗ lực này, cố gắng làm một người cha tốt, nhưng em đồ rằng trong mắt Kevin những hành động đó chẳng ẩn giấu gì. Rõ ràng chấn thương của cô em gái nhỏ đã khiến con bé được cưng chiều nhiều hơn, nhiều Con muốn thêm chăn không con yêu?, nhiều Muốn ăn thêm một miếng bánh không?, nhiều Sao chúng ta không để Celia thức muộn thêm một chút, có chương trình động vật kìa!. Nhìn quang cảnh trong phòng khách khi Celia ngủ thiếp đi trong vòng tay anh và Kevin thì nhìn chằm chằm vào chương trình “Bà tôi mang thai đứa bé của bạn trai tôi” trên Jerry Springer, em nghĩ, Phải chăng mưu kế của chúng ta cho kết quả trái với mong đợi?.
Nếu anh có băn khoăn, thì em đã không tra hỏi Celia quá mức về những chi tiết trong phòng tắm chiều hôm đó. Em cũng ngại nhắc đến vấn đề đó như con bé, không ai muốn sống lại ngày hôm đó. Tuy hiểu rõ bổn phận làm cha mẹ, em không muốn con bé nghĩ rằng chủ đề đó là cấm kỵ, phòng khi những khám phá có thể có ích cho việc điều trị, em đã có lần hỏi nó, rất ngẫu nhiên. “Khi con bị thương, chuyện gì đã xảy ra?”
“Kevin…” Con bé day lên mí mắt bằng phần sau cổ tay, nó rất ngứa ngáy, nhưng để không phá vỡ quy định, con bé đã học cách cọ vào trước mũi. “Có thứ gì đó bay vào mắt con, Kevin giúp con rửa trôi nó ra.”
Đó là tất cả những gì nó từng nói.