• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Mình cần nói chuyện về Kevin
  3. Trang 27

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 32
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 32
  • Sau

Ngày 11, tháng Ba, năm 2001

Franklin thân yêu,

Có vẻ như vụ của Andy Williams đã làm bùng phát cơn sốt của những tội ác bắt chước. Nhưng rồi tất cả bọn chúng đều là những kẻ bắt chước, anh đồng ý không?

Đã có thêm bốn vụ nổ súng trong trường học vào mùa xuân năm 1998. Em nhớ rất rõ khi bản tin đầu tiên lên sóng, bởi vì đó chính là ngày bác sĩ Sahatjian vẽ phác thảo con mắt giả cho Celia và đặt một cái khuôn vào ổ mắt con bé. Celia đã bị mê hoặc khi ông ấy tỉ mẩn vẽ mống mắt bên mắt khỏe mạnh của con bé bằng tay, em đã rất ngạc nhiên khi nó không được quét bằng máy tính mà vẫn được họa bằng màu nước. Bức vẽ mống mắt gần như là một tác phẩm nghệ thuật, vì mỗi con mắt đều rất khác biệt cũng giống như vân tay, thậm chí cả phần trắng trong mắt chúng ta cũng có những màu riêng biệt, những đường mạch máu tạo nên một tổ hợp mang tính cá nhân. Đó chắc chắn là phần duy nhất trong quá trình đầy đau đớn này mà có thể được vượt qua một cách say mê.

Với việc tạo khuôn, chúng ta được đảm bảo rằng nó sẽ không gây đau đớn gì, mặc dù con bé có thể sẽ thấy chút “khó chịu”, một thuật ngữ yêu thích của nghề y mà dường như đồng nghĩa với sự khổ sở không phải ở họ. Mặc dù việc nhồi vào ổ mắt bột bả trắng chắc chắn rất khó chịu, Celia chỉ a-a vài tiếng, con bé không hề khóc. Sự dũng cảm của Celia đặc biệt thiếu cân xứng. Con bé là một chiến sĩ nhỏ giỏi chịu đựng khi bị mất một mắt. Nhưng nó vẫn hét lên như bị chọc tiết mỗi khi nhìn thấy nấm mốc trên rèm nhà tắm.

Khi giúp bác sĩ đặt lại miếng định hình và dán miếng che mắt mới, em đã ngờ nghệch hỏi Krikor Sahatjian rằng tại sao ông ấy lại chọn nghề này. Ông ấy kể rằng năm mười hai tuổi, khi đi tắt qua sân nhà hàng xóm, ông ấy trèo lên hàng rào và bị trượt tay, phần đầu nhọn của những thanh kim loại trên hàng rào… Để phần còn lại cho trí tưởng tượng của em, ông ấy nói. “Tôi bị mê hoặc bởi quá trình tạo ra chiếc mắt giả cho chính mình nên đã tìm thấy tiếng gọi của cuộc đời.” Vẫn hoài nghi, em nhìn lại vào đôi mắt nâu có hồn của ông ấy, có chút gì đó giống Omar Sharif. “Bà rất ngạc nhiên phải không?” Ông ấy vui vẻ nói. “Tôi không hề nhận ra,” em thừa nhận. “Bà sẽ thấy nó rất bình thường, khi con mắt giả được lắp vào, rất nhiều người sẽ chẳng biết Celia bị mù một mắt. Và có một cách để ngụy trang, xoay đầu thay vì mắt khi muốn nhìn ai đó. Tôi sẽ dạy con bé, khi nó sẵn sàng.” Em cảm thấy vô cùng biết ơn. Lần đầu tiên việc phẫu thuật khoét nhãn của con bé không giống như ngày tận thế, và em thậm chí tự hỏi liệu sự khác biệt mà khuyết tật mang lại và sức mạnh mà nó có thể tập trung, có thể nào giúp Celia phát triển chính bản thân.

Khi Celia và em trở về từ Upper East Side, anh đã về nhà trước và đang yên vị trong phòng làm việc cùng với Kevin đang đứng trước một trong những tập chiếu liên tiếp của Nick at Night: Happy Days. Em bình luận từ ngoài cửa, “À, những năm 1950 chẳng bao giờ có những thứ đó. Mẹ vẫn chờ ai đó nói với Ron Howard76 về Sputnik77, chủ nghĩa McCarthy78 và cuộc chạy đua vũ trang”. Em nói thêm một cách buồn bã. “Mặc dù mẹ thấy hai người có vẻ gắn kết.” Khi đó, em luôn mỉa mai không tiếc lời những cụm từ ồn ào thời thượng của người Mỹ, như thể đang phải nhặt chúng bằng găng tay cao su. Một cách tử tế, em giải thích cho giáo viên tiếng Anh của Kevin rằng sự lạm dụng từ “thực ra” là “một trong những vấn đề của tôi” với một cái nháy mắt và gật đầu cường điệu thái quá đến nỗi khiến người phụ nữ đó thấy bối rối. Em luôn nghĩ đến văn hóa Mỹ như một môn thể thao trình diễn mà em có thể bỏ qua những phán xét từ các khán giả ngồi gần khán đài về chủ nghĩa quốc tế của mình. Nhưng giờ em lại tham gia vào trò bắt chước quảng cáo bia khi những đồng nghiệp ở Traver R Us đồng thanh kêu lên Gì-i-i-i nào!, em dùng tác động như một động từ chuyển tiếp và bỏ qua dấu ngoặc kép hình thức. Văn hóa thực sự không phải là khi ta quan sát mà là khi ta hóa thân vào đó. Em sống ở đây. Như em sớm khám phá ra rất nhiều điều, chẳng có trường hợp loại trừ nào cả.

76 Diễn viên đóng vai Richard trong Happy Days.

77 Sputnik là một loạt các tàu không gian không người lái do Liên Xô phóng lên không gian vào cuối những năm 1950.

78 Chủ nghĩa McCarthy đưa ra các cáo buộc lật đổ hoặc phản quốc mà không có bằng chứng.

Tuy nhiên, con trai chúng ta có thể đọc tất cả những điều trên và thích thú với cách phát âm khinh người của em với cụm từ gắn kết. “Liệu có thứ gì, hay ai đó mà mẹ thấy nổi trội hơn không?” Nó hỏi, nhìn vào mắt em.

“Mẹ đã rất thẳng thắn với con về những vấn đề của mẹ với đất nước này,” em nói cương quyết, để lại chút nghi ngờ rằng tính ngay thẳng này là nguồn gốc của sự hối tiếc, và có lẽ chỉ để bóng gió về bữa tối thê thảm ở nhà hàng Hudson. “Nhưng mẹ không hiểu con lấy đâu ra cái ý nghĩ mẹ cảm thấy ‘nổi trội hơn’.”

“Mẹ có để ý thấy mình chưa bao giờ nói về người Mỹ như là ‘chúng ta’ không? Lúc nào cũng là ‘họ’. Như thể mẹ nói về người Trung Quốc hay gì đó,” nó nói.

“Mẹ dành phần lớn tuổi trưởng thành của mình ở ngoài đất nước này, nên có lẽ…”

“Rồi, rồi, rồi.” Kevin kết thúc giao tiếp bằng mắt và quay lại với màn hình. “Con chỉ muốn biết điều gì khiến mẹ nghĩ mình đặc biệt đến vậy.”

“Eva, ngồi xuống đây cho vui!” Anh nói. “Đây là tập Richie bị ép đi xem mặt con gái của sếp, cậu ta đưa Potsie…”

“Có nghĩa là anh đã xem nó hai chục lần,” em trìu mến trách nhẹ, cảm ơn anh vì đã giải cứu. “Bao nhiêu tập đã được chiếu liên tiếp rồi, ba hay bốn?”

“Đây là tập đầu, còn năm tập nữa.”

“Franklin, nói luôn không em quên mất, bác sĩ Sahatjian đã đồng ý lắp...” Vuốt nhẹ mái tóc vàng xinh đẹp của Celia khi con bé ôm lấy chân em, em ngừng lại không nói tiếp lắp cái gì. Điều này đã khiến em tan vỡ lúc chiều khi làm con gái chúng ta nhận ra rằng con mắt mới của nó không thể nhìn được.

“E-va,” anh kêu lên, không phải với thái độ muốn tranh cãi. “Polime là một kiệt tác nghệ thuật.”

“Băng tinh thạch của Đức cũng vậy.” “Ít nhiễm trùng, khó vỡ hơn... ”

“Polime chỉ là tên gọi màu mè cho nhựa, em ghét nhựa.” Em kết thúc tranh luận. “Vật chất quyết định tất cả.”

“Xem kìa,” anh chỉ cho Kevin. “Richie ăn mặc nhếch nhác cho buổi hẹn, hóa ra cô nàng lại khá nóng bỏng.”

Em không muốn phá hỏng niềm vui của anh, nhưng nhiệm vụ mà em vừa báo cáo là rất nghiêm túc, em không thể ngay lập tức nhấm nháp những chương trình giải trí vớ vẩn của anh. “Franklin, gần bảy giờ rồi. Xem thời sự được không?”

“Chán chết,” anh kêu ca.

“Gần đây thì không.” Vụ bê bối với Monica vẫn đang tiếp diễn với những tình tiết chậm chạp. “Gần đây toàn tin tức hạng X79 đấy. Kevin?” Em lịch sự quay sang con trai chúng ta. “Con có phiền không khi tập này kết thúc, chúng ta chuyển sang kênh tin tức nhé?”

79 Xếp hạng X được sử dụng để phân loại phim, sách, báo... chỉ dành cho người lớn.

Kevin ngồi phịch xuống ghế, mắt rũ xuống. “Sao cũng được.” Anh hát theo những giai điệu Ngày thứ Hai, ngày thứ Ba, ngày hạnh phúc…! khi em quỳ xuống để nhặt những vụn bột bả trắng từ tóc Celia. Đến giờ, em chuyển sang Jim Lehrer. Đó là câu chuyện chính. Tổng thống của chúng ta đã phải giữ chặt khóa quần mình để mở đường cho hai chàng trai nhỏ khó chịu vào căn nhà chính phủ, đứa lớn chỉ mười ba và đứa nhỏ hơn thì mười một.

Em rên rỉ, ngồi xuống chiếc ghế da. “Lại nữa sao?”

Bên ngoài trường cấp hai Westside ở Jonesboro, Arkansas, Mitchell Johnson và Andrew Golden đã chờ đợi, phục kích trong bụi rậm trong bộ trang phục ngụy trang sau khi kéo chuông báo cháy. Khi các giáo viên và học sinh chạy ra khỏi tòa nhà, cả hai đã nổ súng với khẩu súng trường Ruger cỡ 10.9 li và khẩu súng săn 30-06, giết chết bốn nữ sinh và một giáo viên, làm bị thương mười một người khác. Chính thằng nhóc đó cũng bị thương nếu theo nghĩa là sự thất vọng tình cảm, đứa lớn hơn rõ ràng đã cảnh báo một người bạn hôm trước đó bằng giọng điệu hung hăng đậm chất điện ảnh, “Tao có vài việc giết chóc phải làm”. Trong khi Andrew Golden bé nhỏ đã thề với một người bạn thân rằng nó sẽ bắn “tất cả bọn con gái dám chia tay nó”. Chỉ một cậu bé bị thương, mười lăm nạn nhân khác đều là nữ.

“Mẹ mấy thằng ngu!” Em rủa thầm.

“Này Eva, cẩn thận cái miệng.”

“Thêm một thằng chết đuối trong thảm hại của chính mình!

Ối giời ơi, bạn gái tôi không yêu tôi nữa, tôi phải đi giết năm người khác.” “Thế còn tất cả mấy thứ chết tiệt của dân A-me-ni-a thì sao?”

Kevin hỏi, ánh mắt như phóng lửa về phía em. “Ôi trời ơi, như, cả triệu năm trước người Thổ đã hết sức độc ác nhưng chẳng ai thèm quan tâm! Không thảm hại ư?”

“Khó mà so sánh sự diệt chủng với việc bị bỏ rơi,” em độp lại. “Nhe nhè nhè nhe nhé nhè nhé nhè nhè nhè.” Nó chế nhạo.

“Chúa ơi, tha cho tôi.”

“Thế còn chuyện muốn giết tất cả bọn con gái dám chia tay nó?” Em móc mỉa.

“Mẹ im mồm đi được không?” “Kevin!” Anh quát.

“Con chỉ đang cố theo dõi cái này, và chính bà ấy là người nói muốn xem thời sự.” Kevin nói về em như cách em nói về người Mỹ. Bọn em đều ưu tiên sử dụng ngôi thứ ba.

“Nhưng thằng mất dạy đó mới chỉ mười một tuổi, nó có được mấy đứa bạn gái chứ?” Em ghét những người nói chen vào bản tin, nhưng em không thể kiềm lại được.

“Trung bình?” Ngài chuyên gia của chúng ta cho biết. “Khoảng hai mươi.”

“Sao cơ? Thế con có bao nhiêu rồi?”

“Không.” Kevin giờ đã uể oải đến mức gần như nằm ngửa, và giọng nó nghe như mắc sỏi và sau này nó lúc nào cũng nói kiểu vậy. “Gạ xong đá.”

“Chà, Casanova80! Đây là những gì chúng ta nhận được khi nói chuyện về sự thật cuộc sống với một đứa trẻ lúc bảy giờ đây.”

“Mẹ ơi, Rạ với Cá là ai? Có giống như hai anh em Tweedledum và Tweedledee81 không?”

80 Casanova được mệnh danh là “gã đào hoa sát gái nhất” lịch sử châu Âu.

81 Cặp anh em sinh đôi trong Alice in Wonderland.

“Celia, con yêu,” em nói với đứa con sáu tuổi, giáo dục giới tính với nó bây giờ có vẻ không cấp thiết cho lắm. “Con vào phòng chơi được chứ? Mọi người đang xem thời sự và có vẻ cái này không vui lắm với con.”

“Hai bảy viên đạn, trúng mười sáu,” Kevin tính toán. “Các mục tiêu cũng di chuyển nữa. Với một đứa trẻ thì tỉ lệ đó cũng khá là cao.”

“Không, con muốn ở với anh. Anh là bạn của con,” Celia nói. “Nhưng mẹ muốn một bức tranh, Celia. Cả ngày nay con chưa vẽ cho mẹ bức nào nhỉ!”

“Được thôi!” Nó trượt xuống, nắm tay vào váy.

“Lại ôm mẹ cái đã.” Em kéo con bé vào lòng và nó vòng tay quanh em. Em đã không nghĩ rằng một đứa bé sáu tuổi có thể siết chặt đến vậy, và thật đau lòng khi phải gỡ những ngón tay bé nhỏ ra khỏi quần áo mình khi con bé không chịu buông tay. Khi con bé ra khỏi phòng, sau khi dừng lại ở cổng tò vò và khum bàn tay lại vẫy vẫy, em bắt gặp anh đang đảo mắt với Kevin.

Cùng lúc đó, một phóng viên trên màn hình đang phỏng vấn cha của Andrew Golden, người có một lượng lớn vũ khí đã bị bọn trẻ lấy trộm, bao gồm ba khẩu súng trường, bốn khẩu súng lục và một kho đạn được. “Đó là một bi kịch khủng khiếp,” ông ta run rẩy nói. “Chúng ta mất mát. Bọn chúng cũng mất mát. Cuộc sống của tất cả mọi người đã bị hủy hoại.”

“Hoàn toàn đồng ý,” em nói. “Ý em là, dù chuyện gì xảy ra thì chúng nó cũng đã bị tóm và bỏ tù vô thời hạn? Chúng nó đã nghĩ cái quái gì?”

“Chúng nó chẳng nghĩ gì,” anh nói.

“Bố đùa à?” Kevin nói. “Việc này cần có sự chuẩn bị. Bởi vì chúng có suy nghĩ, có khi là suy nghĩ nhiều nhất trong suốt quãng đời bẩn thỉu của chúng.” Từ lần xuất hiện đầu tiên của bọn chúng, Kevin đã nắm bắt hết những sự cố này, và mỗi khi chủ đề này được gợi nên, nó bao trùm trong không khí một thứ uy quyền khiến em lo lắng.

“Chúng đã không nghĩ đến hậu quả tiếp theo,” em nói. “Chúng có thể tính toán cho cuộc tấn công ngu ngốc của mình nhưng không nghĩ đến năm phút sau hay thậm chí là năm mươi năm sau.”

“Không chắc,” Kevin nói, tay bốc một nắm nacho với đầy phô- mai lấp lánh trong bóng tối. “Mẹ không nghe kĩ rồi, như mọi khi, vì mẹ đang bận ôm ôm ấp ấp Celia. Bọn nó chưa đủ mười bốn tuổi. Theo luật của Arkansas, Batman và Robin sẽ quay lại chiếc xe siêu anh hùng của mình khi mười tám tuổi thôi.”

“Thật vô nhân đạo!”

“Hồ sơ cũng đã niêm phong rồi. Nhưng tất cả mọi người ở Jonesboro đều thực sự chờ đến ngày đó.”

“Nhưng con không thực sự nghĩ rằng bọn nó đã đến thư viện trước và xem mấy cuốn sách luật cũ mèm đấy chứ?”

“Ừm…” Kevin lầm rầm vô thưởng vô phạt. “Sao mẹ biết được? Dù sao thì, có lẽ việc nghĩ về tương lai lúc nào cũng có vẻ ngu ngốc.

Trì hoãn hiện tại đủ lâu và nó, như là, không bao giờ xảy đến, hiểu ý con nói chứ?”

“Người ta giảm án tù vì lý do chính đáng,” anh nói. “Bọn trẻ chẳng biết chúng đang làm gì.”

“Bố đừng nghĩ vậy,” Kevin gắt gỏng. (Nếu nó cảm thấy bị xúc phạm bởi những lời nhạo báng của em về cơn thịnh nộ của trẻ vị thành niên, con trai chúng ta dường như càng thấy bị sỉ nhục hơn bởi lòng trắc ẩn của anh.)

“Chẳng đứa mười một tuổi nào thực sự hiểu cái chết là gì,” anh nói. “Nó không có khái niệm thực sự nào về những người khác, rằng họ có thể đau đớn hay kể cả sự tồn tại của họ. Và tương lai trưởng thành cũng không thật với nó nên rất dễ dàng để nó vứt bỏ.”

“Có thể tương lai là có thật với nó. Có thể đó chính là vấn đề,” Kevin nói.

“Thôi nào Kev. Tất cả những đứa trẻ trong mấy vụ xả súng này đều ở tầng lớp trung lưu, không phải lũ cống rãnh ở thành phố. Những thằng nhóc đó đang nhìn vào cuộc sống với một khối tài sản, một chiếc xe hơi và công việc quản lý, với kỳ nghỉ hàng năm ở Bali hay đại loại thế.”

“Vâng. Thì như con nói đấy.”

“Anh biết gì không?” Em nói. “Ai thèm quan tâm. Ai quan tâm việc bắn người có thật hay không thật với chúng, và ai thèm quan tâm sự đổ vỡ đau khổ của chúng với mấy cô bạn gái thậm chí còn chưa có ngực. Ai quan tâm chứ. Vấn đề ở đây là súng. Súng, Franklin ạ. Nếu súng không lăn lóc trong nhà chúng như cán chổi lau nhà thì sẽ chẳng có…”

“Chúa ơi, lại bắt đầu rồi,” anh nói.

“Anh nghe Jim Lehrer nói rồi đấy, ở Arkansas việc trẻ vị thành niên sở hữu súng thậm chí còn chẳng bất hợp pháp.” “Chúng lấy trộm.”

“Súng ở đấy để bị lấy trộm. Và cả hai thằng nhóc đó đều có súng trong nhà. Thật ngớ ngẩn. Không có súng, và hai thằng nhóc đó chỉ có thể đi trêu chó, hoặc như ý tưởng khác của anh về cách giải quyết mâu thuẫn, đi đấm vào mặt mấy đứa bạn gái cũ. Chảy máu mũi một chút, ai về nhà nấy. Những vụ xả súng này điên rồ đến nỗi em sẽ biết ơn lắm nếu có bài học nào được rút ra từ đó.”

“Được rồi, anh có thể hiểu việc hạn chế vũ khí tự động,” anh nói bằng giọng thuyết giáo mà với em nó như sự suy sụp của việc làm cha mẹ. “Nhưng súng phải tồn tại. Đó là một phần của đất nước này, vì mục đích săn bắn, chưa kể tới tự vệ…” Anh ngừng nói vì rõ ràng là em cũng đã ngừng nghe.

“Câu trả lời, nếu có, thì là do cha mẹ.” Anh tiếp tục, giờ giọng anh đã vang khắp phòng và át cả tiếng tivi, trên đó khuôn mặt thất tình to béo của Monica Lewinsky trông càng dâm đãng hơn. “Anh dám cá với em rằng những thằng nhóc đó chẳng có ai để cầu cứu. Không có ai để chúng có thể trút bầu tâm sự, không có ai để tin tưởng. Khi em yêu thương con cái mình và luôn làm chỗ dựa cho chúng, và đưa chúng cùng đi đến bảo tàng hay đến những chiến trường cũ, và dành thời gian cho chúng, đặt niềm tin vào chúng và thể hiện sự quan tâm đến suy nghĩ của chúng. Đó là khi kiểu lao xuống vực sâu này sẽ không bao giờ xảy ra. Không tin anh thì cứ hỏi Kevin mà xem.”

Nhưng lần đầu tiên, Kevin thể hiện rõ sự chế nhạo. “Vâng, bố à. Thật là khác với con khi con có thể kể cho bố và mẹ yêu mọi thứ, đặc biệt là khi con phải chịu những áp lực từ bạn bè và những thứ vớ vẩn! Lúc nào bố chẳng hỏi con đang chơi trò chơi điện tử gì hay bài tập về nhà của con thế nào, và con luôn biết mình có thể trông cậy vào bố khi con cần!”

“Chà, nếu con không thể trông cậy vào bố mẹ, anh bạn, con sẽ không thấy điều này buồn cười chút nào đâu!” Anh càu nhàu.

Celia quay lại phòng làm việc và dừng lại ở chỗ cổng tò vò, phe phẩy một mảnh giấy. Em phải kéo con bé vào trong. Con bé luôn có vẻ không phòng vệ, nhưng sự ngoan ngoãn sợ sệt kiểu Tiny Tim này thì mới xuất hiện, và em hy vọng nó chỉ là một giai đoạn nhất thời. Sau khi dán lại mép miếng dán Opticlude của con bé, em kéo nó vào lòng và khen ngợi bức tranh. Thật nản lòng. Chiếc áo choàng trắng của bác sĩ Sahatjian to đến nỗi đầu ông ấy còn ra khỏi trang giấy, hình chân dung tự họa của Celia thì chỉ cao đến đầu gối của ông bác sĩ. Mặc dù các bức vẽ của con bé thường tươi sáng, khéo léo và tỉ mỉ, nhưng ở nơi mà mắt trái của nó từng tồn tại, con bé tô những đường nguệch ngoạc tràn ra ngoài má của nó.

Trong khi đó, anh đang hỏi, “Kevin, nghiêm túc đấy. Có đứa trẻ nào ở trường con từng có biểu hiện bất ổn không? Có ai nói về súng đạn hay chơi những trò chơi bạo lực hay thích những bộ phim bạo lực không? Con có nghĩ chuyện giống như vậy có thể xảy ra ở trường con không? Và ít nhất thì ở đó liệu có tư vấn viên để bọn trẻ có thể nói chuyện khi chúng không vui chứ?”.

Nhìn chung, anh có lẽ thực sự muốn nghe trả lời những câu hỏi đó, nhưng sự quan tâm mãnh liệt quá mức toát ra như là sự tự thỏa mãn. Kevin làm ngơ anh trước khi nó trả lời. Trẻ con có khả năng rất tốt để phân biệt sự khác nhau giữa những người lớn thực sự quan tâm và người chỉ muốn tỏ ra quan tâm. Tất cả những lần em cúi xuống và hỏi Kevin sau giờ học ở trường mẫu giáo rằng nó đã làm gì trong ngày, kể cả khi đó nó mới năm tuổi nó cũng đã biết rằng em chẳng quan tâm.

“Tất cả bọn trẻ ở trường con đều bất ổn bố ạ,” nó nói. “Chúng chẳng chơi gì khác ngoài những trò bạo lực trên máy tính và chẳng xem gì khác ngoài những bộ phim bạo lực. Chúng chỉ đến gặp tư vấn viên để trốn khỏi lớp học và những gì chúng nói với họ toàn là xàm xí. Bố còn muốn hỏi gì nữa không?”

“Em xin lỗi, Franklin,” em nói, đặt Celia ngồi bên cạnh mình. “Nhưng em không hiểu làm sao mà thêm những cuộc trò chuyện tâm tình lại có thể kìm hãm những thứ rõ ràng đang nổi lên như một trào lưu trong giới trẻ. Nó đang lan ra giống như Teletubbie82, chỉ khác là thay vì có một con búp bê cao su với màn hình gắn ở bụng thì chúng nó bắn tung trường học lên. Phụ kiện phải có của năm: một chiếc điện thoại Chiến tranh các vì sao và một con Vua sư tử bán tự động. Ồ và kèm theo một cài câu chuyện thổn thức về việc vì bắt nạt hay bị đá bởi vài khuôn mặt xinh đẹp.”

82 Một bộ phim truyền hình dành cho trẻ em mẫu giáo ở Anh.

“Thể hiện chút đồng cảm đi. Chúng là những cậu nhóc bối rối. Chúng cần giúp đỡ,” anh nói.

“Chúng cũng là những thằng nhóc bắt chước. Anh nghĩ chúng không biết gì về Moses Lake và West Palm Beach? Về Bethel, Pearl, và Paducah? Trẻ con thấy những thứ đó trên tivi, chúng nghe bố mẹ bàn tán. Hãy nhớ lời em, mọi cơn giận dữ được trang bị vũ trang nổ ra chỉ làm tăng thêm những vụ tương tự. Mất mát của cả đất nước này, mỗi người đều bắt chước những người khác, và ai cũng muốn nổi tiếng. Về lâu dài, hy vọng duy nhất là những vụ nổ súng này trở nên quá bình thường đến nỗi nó chẳng phải là tin tức thời sự gì nữa. Mười đứa trẻ bị bắn ở trường Tiểu học Des Moines và nó chỉ được đăng ở trang tin thứ sáu. Dần dần thì mọi trào lưu đều trở nên nhạt, và ơn Chúa một lúc nào đó những đứa trẻ mười ba tuổi sẽ không muốn bị nhìn thấy cùng với một khẩu M-10 trong học kỳ II. Cho đến khi đó, Kevin, mẹ sẽ để ý đến bất kỳ đứa bạn nào của con bắt đầu cảm thấy tiếc thương cho chính chúng trong những bộ đồ ngụy trang.”

Khi tuôn ra một tràng như vậy, em không thể không nghĩ đến một bài học ngầm rằng: nếu xả súng trường học chắc chắn sẽ trở nên tầm thường, thì những thanh thiếu niên đầy tham vọng thèm muốn được lên trang nhất sẽ cố gắng hết sức để chào giá khi vẫn còn đang được giá.

Chỉ hơn một tháng sau ở Edinboro, Pennsylvania, Andrew Wurst mười bốn tuổi một hôm hứa rằng sẽ biến buổi vũ hội khối lớp tám trở nên “đáng nhớ”, và thật vậy, nó đã làm thế vào ngày hôm sau. Trong sân nhà hàng Nick’s Place lúc mười giờ tối, nơi mà hai trăm bốn mươi học sinh đang nhảy theo bài “My heart will go on” trong phim Titanic, Wurst bắn phát đạn chí tử vào người giáo viên bốn mươi tám tuổi bằng khẩu ACP 6.4 li của bố mình. Vào bên trong, nó bắn thêm một vài phát, làm bị thương hai nam sinh và sượt qua một cô giáo. Chạy trốn ra phía sau, nó đã bị tóm bởi ông chủ Nick’s Place, người mà khi đó đang mang theo một khẩu súng ngắm và thuyết phục kẻ chạy trốn nên đầu hàng trước nguồn hỏa lực vượt trội hơn hẳn. Khi các nhà báo đang háo hức do thám để có một lời giới thiệu khôi hài, bản nhạc nền vang lên khi đó là “Tôi đã có giây phút của đời mình”.

Mỗi vụ việc này được phân biệt bởi bất kỳ bài học đáng tiếc nào đó được bóp nặn ra. Biệt danh của Wurst là “Sa-tăng”, ảnh hưởng bởi sự ồn ào về việc Luke Woodham ở Pearl đã tham gia một giáo phái ma quỷ. Wurst là một fan hâm mộ của nữ ca sĩ dòng nhạc heavy-metal đồng tính Marilyn Manson, em đã rất xấu hổ vì từng dè bỉu những biện pháp phòng vệ được thực hiện trong buổi vũ hội của chính Kevin hồi năm trước. Động cơ vụ nổ súng nghe có vẻ vô định hình: “Cậu ta ghét cuộc sống,” một người bạn của nó nói. “Nó ghét thế giới. Nó ghét trường học. Thứ duy nhất khiến nó hạnh phúc là đứa con gái nó thích nói chuyện với nó.” Sự đổi chác mà chúng ta buộc phải kết luận rằng khá là hiếm gặp.

Có lẽ xả súng trường học đã trở nên lỗi thời rồi, bởi vì câu chuyện về Jacob Davis mười tám tuổi ở Fayetteville, Tennessee xảy ra vào giữa tháng Năm khá là lạc lõng trong mớ hỗn độn. Davis đã giành được một học bổng đại học và chưa bao giờ gây rắc rối. Một người bạn của nó đã nói với các phóng viên, “Cậu ta gần như chẳng bao giờ nói chuyện. Nhưng tôi đoán đó là kiểu người khó lường, những người hay im lặng”. Bên ngoài trường trung học ba ngày trước lễ tốt nghiệp, Davis tiếp cận một học sinh cuối cấp khác, người đang hẹn hò với bạn gái cũ của cậu ta và bắn người đó ba phát bằng khẩu súng trường cỡ 5.6 li. Có vẻ như cuộc đổ vỡ tình cảm đã giáng lên cậu ta một đòn mạnh.

Em có thể đã thiếu kiên nhẫn với mấy cái bi kịch tình yêu tuổi thiếu niên, nhưng so với những tên sát nhân khác thì Davis là một quý ông. Cậu ta để lại một lời nhắn sau xe để cam đoan với cha mẹ và bạn gái cũ rằng cậu ta yêu họ nhiều đến nhường nào. Hành động xong, cậu ta đặt khẩu súng xuống, ngồi xuống cạnh nó và đặt hai tay lên đầu. Cậu ta chỉ ngồi như vậy cho đến khi cảnh sát xuất hiện, khi đó các tờ báo đã đưa tin rằng cậu ta “đầu hàng không chống cự”. Lần này, một cách bất bình thường, em đã cảm động. Em có thể hiểu được: Davis biết cậu ta đã làm một việc ngu ngốc, và cậu ta biết trước điều đó. Với hai sự thật đều là thật này sẽ khiến cậu ta phải đối mặt với sự bối rối suốt phần còn lại của cuộc đời trong bốn bức tường.

Cùng lúc đó, ở Springfield, Oregon, Kipland Kinkel trẻ tuổi đã lĩnh hội một bài học rằng lãng phí một đứa bạn học không còn là con đường chắc chắn dẫn đến sự bất tử. Chỉ ba ngày sau khi Jacob Davis làm tan vỡ trái tim bậc cha mẹ đáng kính của mình, mặt-chồn mười lăm tuổi quyết định nâng mức đặt cược. Khoảng tám giờ sáng khi các bạn học ở trường Trung học Thurston đang kết thúc bữa sáng, Kinkel bình tĩnh bước vào căn-tin nhà trường mang theo một khẩu súng lục 5.6 li, một khẩu súng ngắn 9 li và một khẩu súng trường bán tự động 5.6 li giấu dưới áo khoác dài. Triển khai loại vũ khí hiệu quả nhất trước tiên, nó bắn khắp phòng bằng khẩu súng trường, phá nát các cửa sổ và khiến cho các học sinh chạy tìm chỗ nấp. Mười chín người bị bắn trong căn-tin nhưng sống sót, bốn người khác bị thương vì hoảng loạn trong lúc bỏ chạy. Một học sinh chết ngay lập tức, đứa thứ hai chết trong bệnh viện, đứa thứ ba có thể cũng đã chết nếu như khẩu súng bán tự động của Kipland không hết đạn. Đập vào tai thằng nhóc những tiếng cạch, cạch, cạch.

Khi Kinkel đang vật lộn để nhét băng đạn thứ hai vào, Jake Ryker mười sáu tuổi, một thành viên của đội đấu vật của trường, người đã bị bắn vào ngực, lao vào tên sát thủ. Kinkel lôi khẩu súng lục từ trong áo khoác của mình. Ryker tóm lấy khẩu súng và vặn tay lấy nó đi, trúng thêm một phát đạn khác vào tay. Em trai của Ryker nhảy lên tên bắn súng và giúp vật hắn xuống đất. Khi các học sinh khác đổ xô đến, Kinkel hét lên, “Bắn tao đi, bắn tao luôn đi!”. Trong tình huống đó, em khá ngạc nhiên là không đứa nào làm vậy.

À, và nhân tiện: Khi bị bắt giữ, Kinkel khuyên cảnh sát nên kiểm tra nhà của nó, một căn nhà hai tầng trong một khu nhà giàu với những cây thông và đỗ quyên cao vút, nơi họ phát hiện ra một người đàn ông và một phụ nữ trung niên đã bị bắn chết. Phải ít nhất hai hay ba ngày báo chí tránh nhắc đến danh tính hai người bị giết này, cho đến khi bà của Kinkel nhận diện những thi thể. Em hơi bối rối khi mà cảnh sát có thể nghĩ rằng còn ai khác có thể sống trong nhà Kinkel ngoài bố mẹ nó cơ chứ.

Giờ, như đã diễn ra, câu chuyện rất phong phú, tính đạo đức của nó rõ ràng một cách dễ chịu. Kipland nhỏ bé đã dựng lên những “biển cảnh báo” mà đã không thực sự được xem xét nghiêm túc. Ở trường cấp hai, nó được bầu chọn là “Người có khả năng bắt đầu thế chiến thứ III”. Nó mới có một bài thuyết trình về chế tạo bom. Hơn hết, nó thường mở đường cho việc trút những khuynh hướng bạo lực vào những việc học tập vô hại nhất. “Nếu bài tập yêu cầu viết về những việc em có thể làm trong vườn,” một học sinh nói, “Kipland sẽ viết về việc xén hết những người làm vườn.” Mặc dù có một sự trùng hợp kỳ lạ, tên viết tắt của Kip Kinkel cũng là “KK”, nó bị bạn bè ghét đến nỗi ngay cả sau màn trình diễn trong căn-tin, chúng vẫn từ chối đặt cho nó một biệt danh. Đáng nguyền rủa hơn cả, một ngày trước vụ xả súng nó đã bị bắt vì sở hữu một khẩu súng trộm cắp, sau đó được thả và chỉ phải chịu sự quản thúc của bố mẹ. Vậy nên những câu nói được lan truyền: Những kẻ nguy hiểm tự bộc lộ bản thân. Chúng có thể được phát hiện, vậy nên, chúng có thể bị ngăn chặn.

Trường của Kevin đã thực hành những tình huống giả định gần như suốt cả năm học đó, mặc dù tin tức về mỗi vụ xả súng mới lại làm tăng thêm mức độ hoang tưởng của mỗi người. Trung học Gladstone đã mang một bầu không khí quân sự, khép kín, ngoại trừ giả thuyết từ chủ nghĩa McCarthy rằng kẻ thù nằm chính bên trong. Các giáo viên được cung cấp một danh sách những hành vi lệch lạc cần được chú ý, và trong các cuộc họp, học sinh được huấn luyện để báo cáo những nhận xét có tính đe dọa ngẫu nhiên nhất cho hội đồng nhà trường, kể cả chúng chỉ “có vẻ” là một trò đùa. Các bài luận lọc ra những mối quan tâm không lành mạnh như là Hitler hay chủ nghĩa phát xít khiến cho các bài giảng về lịch sử châu Âu thế kỷ XX trở nên rất khó khăn. Tương tự, những gì liên quan đến quỷ dữ là cực kỳ nhạy cảm, đến nỗi mà một đàn anh tên là Robert Bellamy, người được biết đến với biệt hiệu “Bobby Beelzebub83”, đã bị lôi đến trước hiệu trưởng để giải thích và thay đổi biệt hiệu của mình. Một sự khắt khe chữ nghĩa đã thống trị, đến nỗi khi một học sinh năm hai kích động kêu lên “Tao sẽ giết mày!” với một đồng đội bóng chuyền vừa làm rơi bóng, con bé bị ném vào văn phòng của người tư vấn và bị cấm túc đến hết tuần. Chẳng có một thiên đường an toàn nào cho phép ẩn dụ. Khi một con chiên sùng đạo trong lớp tiếng Anh của Kevin viết một bài thơ “Trái tim tôi là một viên đạn, Thiên Chúa là người chỉ dấu cho tôi”, người giáo viên đến thẳng phòng hiệu trưởng, từ chối tiếp tục dạy lớp đó cho đến khi thằng bé được chuyển đi. Thậm chí cả trường tiểu học của Celia cũng trở nên nghiêm trọng hóa bất thường: Một thằng bé học lớp một bị đình chỉ ba ngày chỉ vì đã chĩa cái đùi gà về phía giáo viên và nói “Bùm, bùm, bùm!”.

83 Beelzebub được biết đến là hoàng tử dưới địa ngục hay “chúa tể loài ruồi”.

Tình hình trên khắp đất nước đều như nhau, nếu những mẩu tin ngắn ở cột bên trên tờ Thời báo New York là có thể tin được. Ở Harrisburg, Pennsylvania, một cô bé mười bốn tuổi đã bị buộc cởi bỏ quần áo để khám người, Franklin ạ, khám người, và bị đình chỉ vì khi bàn luận ở lớp về những vụ nổ súng trong trường học, cô bé nói rằng mình có thể hiểu được vì sao những đứa bị bắt nạt trở nên nóng nảy. Ở Ponchatoula, Louisiana, một cậu bé mười hai tuổi bị nhốt vào trại giam cho trẻ vị thành niên suốt hai tuần liền bởi vì nó đã cảnh báo những người bạn lớp năm của mình rằng sẽ “xử chúng” nếu chúng không để đủ phần khoai tây cho nó, việc đó được hiểu là “mối đe dọa khủng bố”. Trên một trang web chỉ dài có hai trang, Buffythevampireslayer.com, một học sinh Ấn Độ đã đưa ra một giả thuyết mà chắc hẳn từng vụt qua tâm trí nhiều học sinh trung học từ xưa đến nay rằng các giáo viên của cậu ta là những kẻ tôn sùng ma quỷ. Không hài lòng với việc bị đình chỉ của mình, họ đệ đơn lên liên bang cáo buộc cả cậu bé lẫn người mẹ về tội phỉ báng và gây đau khổ về mặt cảm xúc. Một đứa trẻ mười ba tuổi bị đình chỉ hai tuần bởi vì trong chuyến đi đến Bảo tàng Nguyên tử Albuquerque, nó đã rít lên: “Họ chuẩn bị dạy chúng mình chế tạo bom à?” trong khi một cậu bé khác bị người cố vấn cảnh cáo chỉ vì mang theo sách hóa học của mình. Trên khắp toàn quốc, trẻ em bị cấm túc vì mặc áo khoác giống như Kipland Kinkel, hoặc chỉ là mặc màu đen. Và phần yêu thích của em là câu chuyện về một đứa chín tuổi bị đình chỉ sau một dự án ở lớp về sự đa dạng văn hóa châu Á, trong đó, nó đã viết vào phần thông điệp trong bánh quy may mắn là: “Bạn sẽ chết một cái chết danh dự”.

Mặc dù Kevin thường rất kín miệng về những chuyện xảy ra ở trường, nhưng nó đã nhiệt tình cung cấp cho chúng ta thông tin nóng hổi về sự điên cuồng đang leo thang này. Những báo cáo đã đạt được hiệu ứng như mong đợi: Anh càng lo sợ cho nó, em càng lo sợ vì nó. Nó rất thích cảm giác mọi thứ có vẻ nguy hiểm, nhưng nó coi những biện pháp phòng vệ của trường học chỉ là trò lố bịch. “Họ cứ tiếp tục làm như vậy,” nó đã có lần nhận xét, và ở điểm này thì nó rất sắc sảo, “họ chỉ khiến bọn trẻ nghĩ nhiều hơn về chuyện đó”.

Đó là buổi tối gần lễ tốt nghiệp, đứng trên bờ vực kết thúc của thời thơ ấu, những học sinh năm cuối luôn có chút cảm giác về ngày tận thế và có thể khiến các giáo viên lo lắng không yên mà chẳng cần đến sự giúp sức của Kip Kinkel. Sau bữa tối bình thường của Kevin, một vốc đồ ăn vội vàng trước chiếc tủ lạnh đang mở, nó ngả người trên chiếc ghế lười trong phòng làm việc và cập nhật thông tin mới nhất: Toàn bộ học sinh vừa phải chịu bị “khóa trái” trong lớp học trong bốn tiết học liên tục trong khi cảnh sát lục soát mọi tủ khóa và sử dụng chó đánh hơi khắp hành lang.

“Bọn họ đang tìm gì vậy, thuốc phiện à?” Em hỏi. Kevin vui vẻ. “Hoặc là một bài thơ.”

“Mấy cái chuyện từ Jonesboro đến Springfield này là vô nghĩa sao?” Anh nói. “Họ rõ ràng là đang tìm súng.”

“Điều thực sự làm con ngã ngửa.“ Kevin vừa nói vừa giãn người ra, nhả chữ qua miệng như người hút thuốc nhà khỏi. “Thứ lỗi cho cách diễn đạt của con. Có phải họ đang gửi những mẩu ghi chú cho các giáo viên trong quá trình lục soát không? Tay giáo viên thất bại đó, Pagorski, đã để lại nó trên bàn, và Lenny nhìn thấy, con ngạc nhiên là nó biết đọc đấy. Dù sao thì, tin tức đã lan truyền. Cả trường đều biết chuyện gì sắp xảy ra. Một thằng nhóc với một khẩu AK trong tủ đồ có thừa thời gian để suy nghĩ lại về chỗ giấu ngu ngốc của mình.”

Em hỏi, “Kevin, có đứa bạn cùng lớp nào của con phản đối chuyện này không?”.

“Vài đứa con gái, sau một thời gian, chẳng ai có thể nhìn được. Thực tế là có con bé Ulanov mặt lừa đó đã tè ra quần.”

“Có điều gì thực sự đặt ban giám hiệu vào tình trạng báo động không? Hay chỉ là, ô hôm nay là thứ Tư, chúng ta chơi trò cho chó đánh hơi đi.”

“Có lẽ là có một đầu mối nặc danh. Họ đang cho hoạt động đường dây nóng để đứa nào cũng có thể mách lẻo về bạn mình. Trong suốt ba tháng vừa rồi, con có thể ra khỏi lớp Khoa học Môi trường bất cứ lúc nào trong tuần.”

“Đầu mối nặc danh từ ai?” Em hỏi.

“Ơ hay, nếu biết người đó là ai thì đã không phải nặc danh, đúng không?”

“Chà vậy thì sau tất cả những phiền nhiễu đó, họ có tìm thấy gì không?”

“Chắc chắn rồi,” Kevin lầm bầm. “Hàng đống sách cũ trong thư viện. Ít khoai tây chiên vứt trong bồn rửa. Một bài thơ thực sự thú vị và xấu xa đã khiến họ phải băn khoăn cho đến khi hóa ra đó là lời bài hát Big Black: Đây là Jordan, ta làm những gì ta thích… À và còn một thứ nữa, một cái danh sách.”

“Danh sách gì cơ?”

“Danh sách chọn lọc. Không phải kiểu ‘Những bài hát yêu thích’ đâu mà là một loại khác. Kiểu mà có dòng chữ CHÚNG ĐỀU ĐÁNG PHẢI CHẾT nguệch ngoạc trên đầu, to tổ bố.”

“Chúa ơi!” Anh đứng dậy. “Ở thời này thì nó không buồn cười chút nào đâu.”

“Họ cũng đâu có nghĩ nó buồn cười.”

“Bố mong họ sẽ nói chuyện thật cẩn thận với đứa nhóc đó,” anh nói.

“Ồ con nghĩ người ta làm nhiều hơn là chỉ nói chuyện đấy.” “Thế đó là ai? Họ tìm thấy nó ở đâu?”

“Trong tủ của cậu ta. Buồn cười nhất đó là người mà không ai ngờ tới.”

“Kev,” anh nghiêm nghị. “Bố đã cảnh báo con về việc dùng từ như thế nào rồi?”

“Thứ lỗi nhé. Ý con là quý ngài Espinoza. Chắc nó vừa bùng nổ với sự thù địch dân tộc sâu sắc và dồn nén phẫn nộ thay cho người La-ti-nô.”

“Gượm đã,” em nói. “Có phải đó là cậu bé đã giành được giải thưởng thành tích học tập nào đó năm ngoái không?”

“Con cũng chả nhớ nữa,” Kevin nói tiếp. “Nhưng ba tuần bị đình chỉ đó chắc chắn sẽ vấy bẩn hồ sơ của nó trầm trọng. Chẳng đáng xấu hổ sao? Mẹ ơi, thế mà người ta cứ nghĩ rằng họ có thể hiểu được lòng người.”

“Nếu mọi người đều biết sắp có lục soát,” em nói, “sao thằng nhóc Espinoza này lại không dọn sạch cái danh sách buộc tội đó khỏi tủ đồ của mình?”.

“Chả biết. Chắc nó chỉ là thằng a-ma-tơ.”

Em gõ ngón tay mình xuống bàn. “Mấy cái tủ đồ, loại mà bọn mẹ dùng ngày xưa có lỗ thông hơi phía trên. Của các con có không?”

“Chắc rồi. Vậy nên khoai tây chiên mới không bị ỉu.”

Họ đình chỉ một người có khả năng trở thành thủ khoa, họ khiến Greer Ulanov tè cả ra quần. Họ phạt các nhà thơ, những vận động viên thể thao nóng nảy, những đứa ăn mặc kỳ dị. Bất cứ ai có những biệt danh vui nhộn, trí tưởng tượng phong phú, hay không biết bao nhiêu những hồ sơ đánh giá một học sinh là “bị tẩy chay” đều trở thành nghi phạm. Cho đến giờ em chỉ có thể nói đây là cuộc chiến của những kẻ kỳ dị.

Nhưng em đồng cảm với những kẻ kỳ dị. Thời thiếu niên, em có những đặc trưng ồn ào, mãnh liệt kiểu A-me-ni-a và không được coi là xinh đẹp. Em đã có một biệt danh thú vị. Anh trai em thì là một người trầm tính, vậy nên chẳng có ai đánh giá em về mặt xã hội với tư cách người đi trước. Em có một người mẹ ở nhà và chẳng bao giờ đưa em đi đâu hay tham gia vào các hoạt động ở trường, nếu bản năng của bà là luôn có những cái cớ khá là ngọt ngào, thì em là một kẻ mộng mơ luôn tưởng tượng về việc chạy trốn, không chỉ khỏi Racine mà là khỏi nước Mỹ. Những kẻ mơ mộng thì không màng xung quanh. Nếu em là một học sinh của trung học Gladstone vào năm 1998, em chắc chắn mình sẽ viết ra vài ảo tưởng gây sốc trong môn tiếng Anh năm hai về việc đưa gia đình tuyệt vọng của mình thoát khỏi sự khốn khổ bằng việc thổi bay cái quan tài số 112 đường Enderby về nơi cực lạc, hoặc trong một dự án môn giáo dục công dân về “sự đa dạng”, em sẽ thuật lại chi tiết rùng rợn về sự diệt chủng của người A-me-ni-a và để lộ ra một niềm đam mê độc hại với bạo lực. Ngoài ra, em sẽ thể hiện một sự đồng cảm thiếu khôn ngoan với Jacob Davis tội nghiệp khi ngồi cạnh khẩu súng của chính mình với hai tay giơ lên đầu, hoặc vô duyên chê bai bài kiểm tra tiếng La-tinh như giết người, dù thế nào thì em cũng chẳng quan tâm.

Tuy vậy, Kevin không kỳ quặc. Không hẳn nếu anh để ý. Nó có khoa trương với mấy thứ quần áo tí hon, nhưng nó không mặc toàn đồ đen, và nó không lẩn tránh trong một cái áo khoác dài. “Quần áo tí hon” không nằm trong bản danh sách “những dấu hiệu báo động”. Điểm của nó toàn B và chẳng ai thấy điều này thật đáng kinh ngạc ngoài em. Em nghĩ nó là một đứa sáng dạ, điểm số có thể cao hơn nếu nó muốn, dù anh có thể sẽ nghĩ nó chỉ tình cờ được điểm A. Nhưng không, Kevin vận dụng trí thông minh của mình để giữ cho bản thân không quá nổi trội. Em cũng nghĩ nó đã hơi cố quá. Những bài luận của nó thật nhạt nhẽo, vô hồn và đơn điệu đến nỗi gần như mất trí. Anh có thể sẽ nghĩ rằng ai đó sẽ nhận thấy những câu từ nhảm nhí, khó hiểu đó (“Paul Revere84 cưỡi một con ngựa. Ông ta nói: ‘Người Anh đang đến. Người Anh đang đến.’”) như thể thách thức giáo viên của mình. Nhưng khi nó cố tình viết cả bài lặp đi lặp lại những từ cười thầm, keo kiệt và Nigeria85 để nộp cho giáo viên Lịch sử da màu của mình thì nó đã quá liều lĩnh.

84 Paul Revere là một thợ bạc ở Boston. Ông nổi tiếng vì chuyến xe lúc nửa đêm để cảnh báo người dân Lexington và Concord về cuộc tấn công sắp xảy ra của quân Anh.

85 Các từ snigger, niggardly, Nigeria đều đọc gần giống niggar - mọi đen, một từ xúc phạm người da đen.

Ngoài xã hội, Kevin đã ngụy trang với số lượng bạn bè vừa đủ để không bị để ý, đáng báo động như là một đứa trẻ cô đơn. Chúng đều là những đứa tầm thường, thậm chí là cực kỳ tầm thường, hoặc vô cùng đần độn như là Lenny Pugh. Chúng đều đạt được những tiêu chuẩn tối thiểu trong giáo dục để không gặp rắc rối gì. Có thể chúng đã giấu một cuộc đời đầy bí ẩn bên dưới lớp vỏ bọc những con bò vâng lời, nhưng thứ ít bị chú ý nhất ở trường trung học chính là sự nhàm chán. Một chiếc mặt nạ hoàn hảo.

Kevin có dùng chất kích thích không? Em cũng không biết nữa. Anh đã đủ vật lộn để nghĩ cách tiếp cận vấn đề này, liệu có nên theo đuổi một bài học về sự tự nhận thức đúng đắn và lên án tất cả những công ty dược phẩm như một con đường chắc chắn dẫn đến sự điên cuồng và trở thành cặn bã xã hội hay khoe khoang một danh sách dài những chất mà anh từng ngấu nghiến như là kẹo cho đến khi khó khăn lắm mới nhận ra rằng chúng khiến anh bị sâu răng. (Sự thật không thể chấp nhận được là chúng ta chưa hề dọn dẹp tủ thuốc, nhưng cả hai đều từng thử nhiều loại thuốc để tiêu khiển, không phải chỉ trong những năm sáu mươi mà cho đến trước khi em sinh Kevin một năm. May là những chất hóa học đó chưa khiến ai trong hai ta phải đến nhà thương điên hay kể cả là phòng cấp cứu. Và những ngày hội hoan hỉ này chạy qua tâm trí không phải với sự luyến tiếc mà là hoài niệm thì đúng hơn.) Con đường nào cũng có những cạm bẫy. Người đi trước đã khiến anh thất vọng như là những kẻ cổ lỗ sĩ chẳng biết mình đang nói gì, kẻ theo sau chỉ bốc mùi giả tạo. Em nhớ anh đã có lần lập lờ và cuối cùng thừa nhận mình đã hút chất kích thích, nói với nó bằng sự cương quyết rằng nếu nó muốn “thử” thì cũng không sao cả, nhưng đừng để bị bắt gặp và làm ơn đừng nói với bất kỳ ai bất kỳ điều gì ngoài việc nó cũng lên án các loại chất kích thích. Em cắn môi mình. Trong thâm tâm em tin rằng nuốt vài viên thuốc kích thích có thể là điều tốt nhất từng xảy đến với thằng bé đó.

Đối với chuyện tình dục, cái trò “gạ xong đá” chỉ là khoác lác. Em sẽ nhận là mình hiểu Kevin hơn anh, nếu là vì em có thể hiểu nó như nhìn qua một tấm kính mờ. Em hiểu rằng mình không hiểu nó. Có thể nó vẫn còn trinh. Em chỉ chắc chắn một điều. Nếu có quan hệ tình dục, nó sẽ làm việc đó mạnh mẽ và nhanh gọn, chẳng cần cởi áo. (Trong trường hợp đó, có thể nó đã kê gian với Lenny Pugh. Không dễ để hình dung ra cảnh đó.) Kevin có lẽ đã lưu ý sự thận trọng của anh về việc nếu nó đã sẵn sàng cho việc quan hệ tình dục thì nó nên sử dụng bao cao su, nếu chỉ bởi vì một lớp cao su trơn nhầy phồng lên với chất sữa trắng sẽ khiến cho cuộc chạm trán ngớ ngẩn của nó càng trở nên hèn hạ hơn. Em hiểu rằng chẳng có sự liên quan nào giữa sự mù quáng với cái đẹp thì cũng phải mù quáng với sự xấu xí, và Kevin cũng đã sớm phát triển một gu thẩm mỹ nhất định. Giả sử sự kinh tởm cũng có nhiều sắc thái tương tự sự lộng lẫy, vậy thì một tâm hồn đã bị mục rữa cũng không cản trở sự chọn lọc nhất định.

Có một chuyện nữa đã xảy ra vào cuối năm lớp chín của Kevin mà em chưa từng kêu ca với anh, nhưng em sẽ nói lại vì ơn trời nó đã qua rồi.

Em chắc anh vẫn nhớ hồi đầu tháng Sáu đó, máy tính ở AWAP đã bị nhiễm một loại virus. Những nhân viên kĩ thuật của bọn em đã lần ra từ một bức thư điện tử, thật thông minh thay, “CẢNH BÁO: Một loại virus mới đang lan tràn”. Dường như không còn ai gặp rắc rối với những bản in giấy hay những cái đĩa mềm rẻ tiền nữa, vậy nên khi virus tấn công ổ cứng sao lưu của bọn em, hậu quả thật tồi tệ. Từng tập tin này đến tập tin khác đều bị từ chối truy cập, chúng không còn tồn tại nữa, hoặc có xuất hiện trên màn hình thì chỉ với toàn hình vuông, những hình nguệch ngoạc hay lượn sóng. Bốn ấn bản khác nhau phải sắp xếp lại trong ít nhất sáu tháng, việc này khuyến khích những nhà sách tận tâm nhất với công ty, bao gồm cả những chuỗi cửa hàng, thỏa thuận những đơn đặt hàng hào phóng cho Hành tinh cô đơn và Những chỉ dẫn cơ bản vì A Wing and a Prayer không thể thỏa mãn thị trường mùa hè với thời gian như dự kiến. (Bọn em cũng chẳng thể bắt tay với ai vì virus đó đã tự gửi cho tất cả các địa chỉ email trong danh sách khách hàng của bọn em.) Bọn em chưa bao giờ có thể lấy lại được toàn bộ những giao dịch bị mất trong thời điểm đó, vậy nên thực tế là em đã phải bán công ty vào năm 2000 với giá chỉ bằng một nửa so với khi nó được định giá hai năm trước đó. Đối với em, việc đó đã đóng góp đáng kể vào suy nghĩ trong thời kỳ khó khăn năm 1998.

Em đã không kể với anh nguồn gốc đáng xấu hổ của chuyện đó. Em không bao giờ nên rình mò, anh sẽ nói vậy. Lẽ ra em nên để tâm đến những hướng dẫn làm cha mẹ và tôn trọng sự bất khả xâm phạm của phòng riêng con cái mình. Nếu em có phải chịu một hậu quả tàn khốc thì cũng là tự làm tự chịu. Đó là sự hoán đổi xưa như trái đất và cũng là trò yêu thích của những kẻ xảo trá: Khi chúng phát hiện ra một thứ tội lỗi nào đó bằng việc chọc ngoáy xung quanh những nơi chúng không nên, anh sẽ lập tức lật lại vấn đề về chính sự rình mò đó, phân tán khỏi thứ mà chúng tìm thấy.

Em không chắc điều gì đã lôi kéo mình bước vào trong đó. Em làm việc ở nhà để đưa Celia đi tái khám mắt, kiểm tra sự thích nghi của con bé với mắt giả mới. Phòng Kevin hầu như chẳng có gì để thu hút sự tò mò, sự trống rỗng bí ẩn lại chính là thứ khiến em bị hút vào. Khi mở hé cánh cửa, em có một cảm giác mãnh liệt rằng mình không nên ở đây. Kevin đang ở trường, anh đang đi do thám, Celia đang miệt mài với bài tập của con bé mà đáng ra chỉ mất mười phút và vì thế sẽ khiến con bé mất ít nhất hai giờ, vậy nên khả năng em bị bắt gặp là rất khó xảy ra. Tuy thế tim em vẫn đập liên hồi và hơi thở gấp gáp. Thật ngớ ngẩn, em đã tự nhủ. Em đang ở trong nhà của mình, và nếu có bị bắt gặp thì em hoàn toàn có thể nói rằng mình chỉ vào xem có quần áo bẩn không.

Gần như vô vọng trong căn phòng đó. Nó thật không chê vào đâu được: anh thường trêu Kevin là “ông cụ” vì nó là một người cực kỳ gọn gàng. Chăn gối được xếp chính xác như ở doanh trại quân đội. Chúng ta mua cho nó ga trải giường in hình xe đua hoặc trò chơi Dungeons and Dragons, nó đã khá chắc chắn khi lựa chọn màu be trơn. Trên tường không treo gì: không áp phích Oasis hay Spice Girls, không Marilyn Manson. Các kệ gần như trống trơn: vài cuốn sách giáo khoa, một cuốn Robin Hood; rất nhiều sách chúng ta tặng nó trong dịp Giáng sinh và sinh nhật đều chỉ đơn giản là biến mất. Nó có tivi và dàn âm thanh riêng, nhưng loại “âm nhạc” duy nhất mà em từng thấy nó nghe là một thứ gì đó của Philip Glass, như là một đĩa CD gồm những cụm được máy tính tự động sắp xếp theo phương trình toán học định sẵn, không có hình dạng, không có lên bổng xuống trầm, gần như tiếng ồn trắng mà nó bật mỗi khi không xem kênh thời tiết. Và một lần nữa, những CD mà chúng ta tặng cho nó để tìm hiểu xem nó “thích” gì giờ cũng chẳng ở đây để mà biết. Mặc dù chúng ta có thể cài đặt những màn hình chờ hay ho bằng hình chú cá heo đang nhảy hay tàu vũ trụ phóng to, trên màn hình của nó chỉ đơn thuần là những dấu chấm ngẫu nhiên.

Có phải trong đầu nó trông cũng như vậy không? Hay đây, chính căn phòng này cũng chỉ là một cái màn hình chờ? Chỉ cần thêm một cảnh biển phía trên đầu giường và nơi này sẽ trông giống như một phòng trống ở hội quán Quality. Chẳng có tấm ảnh nào ở tủ đầu giường hay vật lưu niệm nào trên bàn học, tất cả đều trơn nhẵn và trống trải. Em đã mong sao mình bước vào một cái hố địa ngục leng keng với những thứ đồ kim loại, những cuốn Playboy kẹp giữa những chồng sách vở, những chiếc áo đầy mồ hôi bốc mùi, bánh kẹp cá ngừ rơi vãi. Đó là kiểu hang ổ “cấm vào” của thanh thiếu niên mà em có thể hiểu, nơi em có thể tiếp cận những bí mật an toàn, dễ hiểu như là vỏ gói Durex đã dùng bị vùi dưới tất hay là một nhúm cần sa nhét trong giày. Ngược lại, bí mật của căn phòng này là tất cả những thứ mà em không tìm được, cũng giống như việc lần theo con trai chúng ta. Nhìn xung quanh, em khó chịu khi nghĩ: Nó có thể là bất cứ ai.

Nhưng em không tin rằng nó không có gì để giấu. Vì vậy khi phát hiện ra một xấp đĩa mềm ở kệ phía trên máy tính, em xem một lượt. Được đề bởi những dòng chữ tối nghĩa: “Nostradamus”, “I Love You”, “D4-X”. Cảm thấy tội lỗi, em chọn một cái và để số còn lại lên kệ rồi chuồn ra khỏi cửa.

Trong phòng làm việc của mình, em đặt đĩa vào máy tính. Em đã không để ý đến những hậu tố86 trên ổ A. Chúng hầu hết là những văn bản đang hoàn thiện, em đã khá là thất vọng. Với hy vọng tìm được nhật ký hay những ghi chép cá nhân, có lẽ em chỉ mong xác nhận rằng nó có những suy nghĩ sâu sắc hơn là tìm hiểu nội dung của những suy nghĩ đó. Không muốn từ bỏ dễ dàng, em mở chương trình Explorer và tải một trong các tập tin lên; thật khó hiểu, Microsoft Outlook Express xuất hiện trên màn hình, đúng lúc đó thì Celia gọi từ bàn ăn rằng con bé cần giúp đỡ. Em đã đi ra khoảng mười lăm phút.

86 Thường là những chữ viết tắt để thể hiện định dạng tập tin.

Khi em quay lại, màn hình tối đen, nó đã tự tắt, một việc không bao giờ xảy ra nếu không có lệnh. Không ngần ngại, em bật máy lên nhưng chẳng có gì ngoài những tin báo lỗi, ngay cả khi em đã lấy chiếc đĩa ra.

Em mang vấn đề của mình đến công ty ngày hôm sau để nhờ những chuyên viên kỹ thuật của mình giải quyết và nhận ra rằng cả văn phòng chỉ đang đi xung quanh. Nó không hẳn là một sự hỗn loạn, đúng hơn là không khí tại một bữa tiệc khi mà rượu đã hết. Biên tập viên đang trò chuyện vu vơ ở bàn làm việc của một người khác. Chẳng có ai làm việc cả. Họ không thể. Chẳng còn một thiết bị nào hoạt động. Sau đó em đã cảm thấy gần như là thở phào nhẹ nhõm khi George thông báo rằng ổ cứng của em đã hỏng đến mức có lẽ em phải mua một cái mới. Có lẽ cùng với vật gây truyền nhiễm bị phá hủy trong đó, không ai có thể biết rằng virus đã được gửi từ máy của chính giám đốc điều hành AWAP.

Tức giận với Kevin vì giữ một thứ chẳng khác nào một con bọ cạp trong nhà, em giữ chiếc đĩa mềm vài ngày thay vì bí mật đặt lại nó lên kệ. Nhưng khi nguôi dần, em phải thừa nhận rằng Kevin không trực tiếp là người xóa hết các dữ liệu của công ty em, và sự sụp đổ đó xảy ra là lỗi của em. Rồi một buổi tối em gõ cửa phòng nó, được đồng ý, em bước vào và đóng cửa lại. Nó đang ngồi ở bàn học. Màn hình chờ máy tính đang hiện lên vẫn cái kiểu rời rạc chấm chỗ này, chấm chỗ kia.

“Mẹ muốn hỏi con. Cái gì đây?” Em nói, gõ tay vào chiếc đĩa. “Virus,” nó vui vẻ trả lời. “Mẹ không tải nó đấy chứ?”

“Chắc chắn không rồi.” Em vội vàng nói, nhận ra rằng cảm giác nói dối con cái cũng giống như nói dối cha mẹ; má em nhói lên như khi em trấn an mẹ mình sau khi đã thử trái cấm rằng mình chỉ ngủ qua đêm ở nhà một người bạn gái mà bà chưa từng nghe tên. Mẹ em biết thừa, Kevin cũng vậy. “Ý mẹ là…” em ngập ngừng sửa lại, “chỉ một lần”.

“Chỉ cần một lần là đủ.”

Cả hai đều biết rằng thật nực cười khi em lén vào phòng nó và lấy trộm chiếc đĩa, hậu quả là em làm hỏng máy tính của mình và làm tê liệt văn phòng làm việc, để rồi xông vào buộc tội nó vì đã phá hoại. Vì vậy nên cuộc trao đổi diễn ra ngang bằng.

“Sao con lại có nó?” Em cẩn trọng hỏi. “Con sưu tập.”

“Chẳng phải nó quá kỳ quặc để sưu tập hay sao?” “Thì tại con không thích tem.”

Ngay sau đó em đã có một linh cảm về việc nó sẽ nói sao nếu anh quyết tâm tìm hiểu vì lý do quái nào mà nó lại giữ một đống virus máy tính trên kệ như vậy: Chà, thì sau khi chúng ta xem xong Sự im lặng của bầy cừu, con đã muốn trở thành một đặc vụ FBI! Và bố có biết những lực lượng đặc biệt đó đã làm thế nào không? Giống như là, lần ra những tin tặc đã phát tán những loại virus máy tính kinh khủng ấy? Vậy nên con đang học về chúng và những thứ khác, vì con đã đọc được rằng chúng là vấn đề rất lớn đối với nền kinh tế và toàn cầu hóa và thậm chí là an ninh quốc phòng…! Kevin chẳng cần một màn trình diễn như vậy, nó sưu tập virus, thì sao chứ?

Em rụt rè hỏi. “Con có bao nhiêu?” “Hai mươi ba.”

“Chúng... có khó để tìm được không?”

Nó nhìn em, vẫn với cảm giác thiếu chắc chắn, nhưng bất chợt nó quyết định thử nói chuyện với mẹ mình. “Chúng rất khó mà bắt sống được,” nó nói. “Chúng thoát ra, chúng cắn. Phải biết cách xử lý chúng. Mẹ biết đấy, như là một bác sĩ. Người nghiên cứu các bệnh trong phòng thí nghiệm để không bị nhiễm bệnh cho chính mình.”

“Ý con là con phải ngăn chúng nhiễm vào máy tính của con?” “Đúng thế. Mouse Ferguson đã dạy con.”

“Vì con đang sưu tập chúng. Có lẽ con có thể giải thích giúp mẹ, sao người ta lại tạo ra chúng? Mẹ không hiểu nổi. Chúng chẳng được tích sự gì, chúng xuất hiện để làm gì?”

“Con không hiểu... mẹ không hiểu cái gì?”

“Mẹ hiểu đột nhập vào AT&T để không mất cước điện thoại hay ăn cắp số thẻ tín dụng để thanh toán một hóa đơn ở The Gap. Nhưng kiểu tội phạm máy tính này, có ai được lợi đâu. Vậy mục đích là gì?”

“Đó chính là mục đích.” “Mẹ vẫn không hiểu.”

“Những virus… chúng là một kiểu thanh tao, mẹ không nghĩ vậy sao? Gần như là... thuần khiết. Một kiểu... làm từ thiện. Không hề vị kỷ.”

“Nhưng như vậy chẳng khác nào tạo ra AIDS.”

“Có thể vài người đã làm vậy,” nó nhẹ nhàng nói. “Vì sao? Mẹ gõ lên máy tính rồi về nhà với cái tủ lạnh rồi một cái máy tính khác trả lương cho mẹ để mẹ tiếp tục gõ những thứ vớ vẩn lên máy tính… Đằng nào mà chẳng chết.”

“Vậy thôi hả? Như kiểu để, gì nhỉ, biết rằng mình đang tồn tại. Để chứng minh cho người khác thấy họ không thể điều khiển mình. Để chứng minh là mình có thể làm gì đó kể cả có thể bị bắt vào tù?”

“Gần như là vậy,” nó tán thưởng. Trong mắt nó, em đã vượt lên chính bản thân.

“À!” Em nói, đưa trả lại cho nó chiếc đĩa. “Cảm ơn con vì đã giải thích.”

Lúc em chuẩn bị rời khỏi phòng, nó nói. “Máy tính của mẹ ngỏm rồi phải không?”

“Ngỏm rồi,” em làm mặt tội nghiệp. “Chắc cũng đáng đời mẹ.” “Mẹ biết đấy, nếu có ai đó mà mẹ không thích và mẹ có địa chỉ email của họ. Cứ bảo con.”

Em cười lớn. “OK. Chắc chắn mẹ sẽ làm thế. Hẹn hôm nào nhé? Những người mẹ không thích khá là nhiều đấy.”

“Tốt hơn là cảnh báo họ nên cẩn thận với bạn bè.”

Vậy ra đó là sự gắn kết! Em đã bị choáng ngợp, em đi ra và đóng cửa phòng lại.