Franklin thân yêu,
Em biết em vừa mới viết thư cho anh hôm qua, nhưng em chỉ biết trông vào chuyện thư từ này để kể chuyện từ Chatham. Kevin có vẻ hiếu chiến. Ngay khi bắt đầu, nó đã bắt bẻ, “Bà chưa từng muốn sinh ra tôi phải không?”.
Trước khi bị giam như một con thú dữ cắn người, Kevin chưa từng hỏi em về bản thân em, em coi câu hỏi của nó như một lời hứa hẹn. Ồ, nó hỏi điều đó trong sự cứng đầu ngu ngốc, đi từng bước trong chiếc lồng của nó, nhưng có gì đó phải được nói ra khi người ta đã chán muốn chết. Trước đó hẳn nó đã nhận ra em từng có một cuộc đời để nó hủy hoại với một mục đích nhất định. Nhưng giờ nó đã đánh giá cao hơn việc em tự nguyện: em chọn sinh con và gác lại những khát vọng khác, bởi sự xuất hiện của đứa trẻ có thể cản trở chúng. Trực giác này có vẻ mâu thuẫn với chẩn đoán của những nhà trị liệu về sự “thiếu hụt thấu cảm”. Em nghĩ nó xứng đáng với một lời giải thích rõ ràng hơn.
“Mẹ nghĩ mẹ từng không muốn.” Em nói. “Bố con. Ông ấy muốn có con, cực kỳ mong mỏi.”
Em nhìn sang chỗ khác. Ngay lập tức Kevin tỏ ra buồn ngủ để thể hiện thái độ khinh miệt. Có lẽ em không nên nhắc đến sự mong mỏi của anh. Em yêu niềm khao khát của anh, em chính là người được lợi từ nỗi cô đơn vô tận của anh. Nhưng những đứa trẻ thèm muốn những bất an, và Kevin sẽ thường xuyên biến chúng thành thứ để coi thường.
“Mẹ nghĩ mẹ đã từng ư?” Nó nói. “Bà đã thay đổi?”
“Mẹ nghĩ mẹ cần một sự thay đổi. Nhưng chẳng ai cần sự thay đổi tệ hơn.”
Kevin trông có vẻ hả hê. Trong nhiều năm, nó cố gắng làm cho em trở nên xấu tính. Em giữ thái độ bình tĩnh. Thể hiện cảm xúc thật chỉ làm cho lớp phòng thủ mong manh hơn.
“Làm mẹ khó hơn là mẹ nghĩ.” Em giải thích. “Mẹ đã quen với sân bay, những bãi biển, bảo tàng. Bỗng nhiên mẹ bị mắc kẹt trong một căn phòng với đống đồ chơi Lego.”
“Nhưng tôi đã làm hết sức.” Nó nói với một nụ cười vô hồn như thể bị móc lên. “Để làm bà vui.”
“Mẹ đoán mình sẽ phải dọn những bãi nôn. Nướng bánh cho Giáng sinh. Mẹ không thể ngờ rằng…” Ánh mắt của Kevin thách thức em. “Mẹ không thể ngờ rằng chỉ cần đơn giản điền vào một tập giấy tờ đính kèm cho con.” Em nói với thái độ nghiêm túc. “Hẳn phải nhiều việc lắm đây. Mẹ đã nghĩ vậy.” Em hít một hơi. “Mẹ nghĩ phần đó miễn phí.”
“Miễn phí?” Nó giễu cợt. “Việc thức dậy mỗi sáng không hề miễn phí.”
“Không còn như vậy nữa.” Em thừa nhận. Kevin và cuộc sống ngày-qua-ngày của em bỗng nhiên bắt gặp nhau. Thời gian bỗng chùng lại.
“Liệu có bao giờ bà nghĩ rằng…” Nó ranh mãnh. “Tôi không muốn có bà không?”
“Con chẳng thể thích cặp vợ chồng nào hơn đâu. Bất kể họ làm nghề gì, con đều nghĩ họ ngu ngốc.”
“Hướng dẫn du lịch giá rẻ? Tìm kiếm một bờ biển khác cho quảng cáo xe Jeep Cherokee? Phải thừa nhận, chúng cực kỳ ngu ngốc.”
“Thấy không?” Em bùng nổ. “Thật lòng đấy Kevin. Con có muốn có đứa con như con không? Nếu có chút công bằng, một ngày nào đó con sẽ thức dậy bên cạnh chính con trong một cái cũi.”
Thay vì nhún nhường hay đả kích, nó chùn bước. Khía cạnh này của nó giống của người lớn hơn là một đứa trẻ. Đôi mắt đờ đẫn, mí mắt sụp xuống, cả cơ thể nó trở nên không thoải mái. Đó là một sự thờ ơ thuần túy giống như cái hố mà anh có thể sẽ ngã vào.
Anh nghĩ em đã độc ác với nó, và đó là lý do nó rút lui. Em không nghĩ vậy. Em nghĩ nó muốn em ác với nó như cái cách mà người ta tự cấu mình để biết chắc mình không nằm mơ, nếu có điều gì đó làm nó thất vọng trong chuyện này thì đó là cuối cùng em đã quăng một vài lời nhận xét gây tổn thương hững hờ và nó chẳng cảm thấy gì hết. Thêm nữa, em mong chỉ là cái hình ảnh “thức dậy bên cạnh chính con” đã khiến nó làm những điều khủng khiếp đó, và là lý do tại sao mỗi sáng tỉnh dậy, nó luôn thấy thật phí hoài. Franklin, em chưa từng gặp một ai, anh cũng gặp con anh rồi đấy, mà cảm thấy sự tồn tại của nó giống một gánh nặng hay một sự sỉ nhục. Nếu anh từng có suy nghĩ nào rằng em bạo hành nó khiến nó mất tự trọng, nghĩ lại đi. Em đã thấy cùng một sự ủ rũ trong mắt nó ngay từ khi nó một tuổi. Nếu có khác thì nó luôn nghĩ tốt về bản thân nó, đặc biệt là sau khi nó trở nên nổi tiếng. Có sự khác biệt rất lớn giữa việc ghét chính bản thân với việc đơn giản là không muốn tồn tại.
Chuẩn bị chia tay, em ném cho nó một cục xương. “Mẹ đã phải tranh đấu vất vả để con có thể theo họ mẹ.”
“Vâng, tự giữ lấy mà dùng. Bà già K-h-a…” Nó lắp bắp. “Nhờ có mẹ, giờ cả nước đã có thể đánh vần cái tên đấy.”
Anh có biết người Mỹ luôn để ý mấy bà bầu không? Ở thế giới thứ nhất, nơi có tỷ lệ sinh thấp, thai kỳ là một điều lạ thường, và khi mà mông với ngực đầy trên các sạp báo, những ấn phẩm khiêu dâm thực sự, chúng gợi lên một cách phiền phức những hình ảnh thân mật, những cái đùi dạng ra, sự phun trào không thể kìm hãm, chất nhầy nhụa trên lỗ rốn. Đảo mắt về phía đại lộ số Năm khi đang bụng mang dạ chửa, em có chút nghi ngờ: mỗi người trong số họ đều chui ra từ âm đạo của một người đàn bà. Trong đầu, em dùng từ thô nhất mà em có thể nghĩ ra để chứng minh một quan điểm. Như mục đích của bộ ngực, đó là một trong số những sự thật hiển nhiên mà ta thường cố chôn vùi.
Tuy thế, em đã có lần khiến người ta phải quay đầu lại vì những chiếc váy ngắn, và những cái liếc trộm của những kẻ xa lạ trong cửa hàng bắt đầu khiến em lo lắng. Cùng với sự mê hoặc, thậm chí là như bị bỏ bùa trên gương mặt họ, em cũng thấy chút run rẩy ghê sợ.
Anh nghĩ điều đó quá mạnh? Em thì không. Anh có để ý có bao nhiêu bộ phim khắc họa việc mang thai như là sự xâm chiếm, sự quấy phá không? Đứa trẻ của Rosemary chỉ là khởi đầu. Trong Alien, một sinh vật ngoài hành tinh bẩn thỉu chui ra khỏi bụng John Hurt. Trong Mimic, một phụ nữ đẻ ra một con giòi hai chân. Sau đó, Hồ sơ X đã biến người ngoài hành tinh mắt lồi nổ tung đầy máu me từ phần thân giữa của con người thành trở nên quen thuộc. Trong phim kinh dị và giả tưởng, vật chủ có thể bị hấp thụ hay ký sinh đến khi chỉ còn xác hoặc cặn để vài sinh vật ác mộng có thể duy trì vỏ bọc của nó.
Em xin lỗi nhưng em không hề bịa ra mấy bộ phim đó, và bất kỳ người phụ nữ nào có răng bị sâu, xương bị giòn đi, da bị rạn đều hiểu cái giá khiêm tốn của một kẻ ăn bám chín tháng. Những bộ phim ghi hình tự nhiên về những con cá hồi cái lội ngược dòng đẻ trứng chỉ để tan biến đi khiến em phát điên. Suốt thời gian mang thai Kevin, em chiến đấu với suy nghĩ mình đã tự hạ bậc bản thân từ người lái xe xuống phương tiện, từ chủ nhà xuống căn nhà.
Về mặt thể chất, trải nghiệm này dễ dàng hơn em nghĩ. Thứ khó nhất trong tam cá nguyệt đầu tiên là nước ối đặc lên thì em đã dễ dàng vượt qua như vượt qua cơn thèm một thanh sô cô la Mars. Mặt em đầy đặn hơn, những góc cạnh nam tính trên gương mặt dần trở thành những đường nét mềm mại của phụ nữ. Trông em trẻ hơn nhưng em nghĩ trông mình ngu ngốc hơn.
Em không biết điều gì đã khiến em mãi mới nhận ra anh chỉ đương nhiên cho rằng con chúng ta sẽ theo họ anh, kể cả tên thánh cũng như đã được định sẵn. Anh muốn đặt theo tên Leonard hoặc Peter. Khi em phản đối bằng cái tên Engin hoặc Garabet hoặc Selim như tên ông nội em, anh làm ra vẻ nhượng bộ y như biểu cảm của em khi mà bọn trẻ nhà Brian khoe bộ đồ chơi búp bê Bắp cải của chúng. Cuối cùng anh nói: “Em không thể bảo anh đặt tên con trai mình là Garabet Plaskett.”
“Không.” Em nói. “Garabet Khatchadourian. Có nhiều hơn một sự liên kết.”
“Anh thấy sự liên kết với đứa trẻ chẳng liên quan gì đến anh.” “Buồn cười thật, đó chính xác là điều em cảm thấy khi nghe cái tên Peter Plaskett.”
Chúng ta đang ở Beach House, một quán bar nhỏ duyên dáng ở góc phố Beach, em sợ rằng giờ đã bị dẹp, và em bỏ ngang cốc nước cam của mình ngay lập tức, mặc dù họ đã mang ra món hầm cay.
Anh gõ ngón tay lên bàn. “Hoặc ít nhất chúng ta có thể dùng tên Plaskett-Khatchadourian? Vì một khi dấu gạch ngang nối hai thứ lại với nhau, đứa bé sẽ xuất hiện ở sổ danh bạ của cả hai họ. Nhưng vì ai đó có thể thấy khó hiểu, đơn giản nhất là cứ theo truyền thống.”
“Theo truyền thống, phụ nữ không được sở hữu tài sản ở một số bang, trong những năm bảy mươi. Truyền thống ở Trung Đông là phụ nữ luôn phải mặc những bao tải đen, truyền thống ở châu Phi là âm đạo bọn em bị đè ra cắt gọt như một khúc gỗ...”
Anh nhồi vào miệng em một miếng bánh ngô. “Giảng giải đủ rồi em yêu. Chúng ta đang nói về tên con mình chứ không phải việc thiến phụ nữ.”
“Đàn ông luôn được đặt tên con theo tên của họ, trong khi họ chẳng làm gì.” Vụn bánh ngô đang tan dần trong miệng em. “Đã đến lúc xoay chuyển tình thế rồi.”
“Sao lại xoay nó sang anh? Chúa ơi, em không nghĩ đàn ông Mỹ đã bị bắt nạt đủ rồi sao? Chính em là người kêu ca rằng bọn họ là một đám yếu đuối rủ nhau đến các cuộc hội thảo khóc lóc mà.”
Em khoanh tay và đưa ra luận điểm quan trọng. “Bố em sinh ra trong trại tập trung Dier-ez-Zor. Trong trại thì đầy rẫy bệnh tật và người A-me-ni-a gần như không có thức ăn, kể cả nước. Điều kỳ diệu là đứa trẻ đã sống sót, còn ba người anh trai thì không. Người cha, ông Selim đã bị bắn chết. Hai phần ba số họ hàng của mẹ em, những người nhà Serafian, họ gần như bị xóa sổ đến mức những câu chuyện về họ cũng chẳng còn tồn tại. Em xin lỗi vì đã lôi ra so sánh. Nhưng những người Anglo-Saxon khó mà tuyệt chủng được.
Những bậc tiền bối của gia đình em đã bị tiêu diệt một cách có hệ thống, thậm chí chẳng còn ai nhắc đến chuyện đó nữa Franklin à.” “Một triệu rưỡi người.” Anh nói theo, khoa chân múa tay. “Em có nhận ra những gì người Thổ Nhĩ Kỳ làm với người A-me-ni-a năm 1915 chính là gợi ý cho Hitler về Đại diệt chủng không?” Em liếc mắt.
“Eva, anh trai em có hai đứa con. Có đến một triệu người A-me-ni-a sống một mình ở Hoa Kỳ, chẳng ai trong số họ chuẩn bị biến mất cả.”
“Nhưng anh quan tâm đến tên họ bởi vì nó là của anh. Em quan tâm đến họ của mình, nó có vẻ quan trọng hơn.”
“Bố mẹ anh sẽ rất thất vọng và tức giận. Họ sẽ nghĩ rằng anh phủ nhận họ hoặc anh bị em điều khiển. Họ sẽ nghĩ anh là một thằng khốn.”
“Em sẽ bị giãn tĩnh mạch vì một đứa trẻ Plaskett ư? Đó là một cái tên kinh khủng.”
Anh trông có vẻ đau nhói. “Em chưa bao giờ nói là em không thích tên anh.”
“Âm A dài đó, nó nghe hơi ồn ào và thô thiển…” “Thô thiển?!”
“Nó nghe Mỹ khủng khiếp. Nó làm em tưởng tượng ra những du khách béo ị ở Nice và những đứa con luôn đòi ăn kem. Những người luôn hét lên Con yêu, để ý vào Pla-a-as-kett khi người Pháp thực chất phát âm là plah-skay.”
“Không phải Plah-skay, đồ bài xích Mỹ tự phụ! Là Plaskett, một gia đình gốc Scotland nhỏ nhưng lâu đời và đáng kính trọng, và đó là cái tên mà anh thấy tự hào khi trao cho con cái mình. Giờ thì anh biết vì sao em không theo họ anh khi chúng ta cưới nhau, em ghét tên anh.”
“Em xin lỗi. Rõ ràng là em cũng yêu cái tên anh theo một cách nào đó, chỉ bởi vì nó là tên của anh.”
“Vậy như này nhé.” Anh đề xuất. Ở đất nước này, bên thiệt thòi là bên có lợi thế hơn. “Nếu là con trai nó sẽ mang họ Plaskett, nếu là con gái, em có thể cho nó lấy họ Khatchadourian.”
Em đẩy giỏ bánh mì sang một bên rồi đập vào ngực anh. “Vậy nếu nó là con gái thì nó không quan trọng với anh phải không? Nếu anh là người I-ran, con bé sẽ không được đi học. Nếu anh là người Ấn Độ, con bé sẽ bị bán cho một người lạ để đổi lấy một con bò. Nếu anh là người Trung Quốc, nó sẽ bị bỏ đói đến chết và chôn ở sân sau…”
Anh giơ tay hàng. “Thôi được, nếu là con gái thì sẽ theo họ anh. Nhưng có một điều kiện, nếu là con trai thì anh sẽ không chấp nhận tên Gara-gì gì đó đâu, phải là một cái tên Mỹ, thỏa thuận chứ?”
Em đã đồng ý. Sau này em nhận ra chúng ta đã quyết định đúng. Năm 1996, Barry Loukaitis 14 tuổi giết một giáo viên và hai học sinh khi bắt cả lớp làm con tin ở Moses Lake, Washington. Một năm sau, Tronneal Mangum 13 tuổi bắn chết bạn học vì nợ nó 40 đô-la. Tháng sau, Evan Ramsey 16 tuổi giết một học sinh và hiệu trưởng và làm bị thương hai người khác ở Bethel, Alaska. Mùa thu năm đó, Luke Woodham 16 tuổi sát hại mẹ mình và hai học sinh khác, làm bị thương bảy người ở Pearl, Mississippi. Hai tháng sau, Michael Carneal 14 tuổi bắn chết ba học sinh, làm bị thương năm người ở Paducah, Kentucky. Mùa xuân năm 1998, Mitchell Johnson 13 tuổi và Andrew Golden 11 tuổi phóng hoả ở trường, giết chết một giáo viên và bốn học sinh, làm bị thương mười người ở Jonesboro, Arkansas. Một tháng sau đó, Andrew Wurst 14 tuổi giết một giáo viên và làm bị thương ba học sinh ở Edinboro, Pennsylvania. Tháng kế tiếp ở Springfield, Oregon, Kip Kinkel 15 tuổi sát hại cha mẹ, định giết thêm hai học sinh nữa và làm bị thương hai mươi lăm người. Năm 1999, khoảng mười ngày sau ngày thứ Năm đó, Eric Harris 18 tuổi và Dylan Klebold 17 tuổi lên kế hoạch đánh bom trường của chúng ở Littleton, Colorado và xả súng giết chết một giáo viên và mười hai học sinh, làm bị thương hai mươi ba người, sau đó tự sát. Vậy nên Kevin trẻ tuổi, cái tên anh đã chọn, trở nên Mỹ như Smith hay Wesson vậy.
Còn về phần tên họ, con trai chúng ta đã làm nhiều hơn bất cứ ai trong gia đình để giữ cái tên Khatchadourian tồn tại.
Giống như rất nhiều người hàng xóm của chúng ta, những người túm lấy bi kịch để gây sự chú ý, bắt cóc làm nô lệ, loạn luân, tự tử, em đã phóng đại nhiệm vụ dân tộc trên vai. Em nhận ra rằng những bi kịch không phải để bị chôn vùi. Chỉ những người luôn được bảo vệ, nuôi dưỡng đầy đủ và mãn nguyện mới thèm muốn đau khổ như thèm muốn một chiếc áo khoác thiết kế đắt tiền. Em sẵn sàng góp câu chuyện của mình cho Đội quân Cứu thế để giúp một số người nhạt nhẽo có thêm màu sắc.
Cái tên? Em nghĩ em chỉ muốn đứa trẻ là của mình. Em không thể rũ bỏ cảm giác mình bị chiếm đoạt. Ngay cả khi em có hình siêu âm và bác sĩ Rhinestein dùng ngón tay vẽ xung quanh một khối tròn đang dịch chuyển, em nghĩ, ai đây? Mặc dù ngay dưới da em, nhưng đang bơi trong một thế giới khác, hình ảnh dường như ở đâu đó rất xa. Thai nhi có cảm xúc không? Em không ngờ rằng mình vẫn tiếp tục hỏi câu này khi Kevin mười lăm tuổi.
Em thú nhận rằng khi bác sĩ Rhinestein chỉ vào đốm sáng giữa hai chân đứa bé, tim em đã chùng xuống. Mặc dù theo “thỏa thuận”, em đang mang thai một đứa trẻ Khatchadourian, chỉ là ghi tên mình lên không có nghĩa đứa trẻ sẽ sát nhập với mẹ nó. Và nếu em thích làm việc cùng đàn ông, em thích tính thực tế của họ, em thường có xu hướng nhầm lẫn sự công kích với sự thẳng thắn, và em không đếm xỉa đến những thứ trau chuốt cầu kỳ, em không biết tí nào về những cậu bé.
Hồi em mới tám, chín tuổi gì đó, và một lần nữa mẹ lại sai em ra ngoài và mang về cho bà thứ gì đó của người lớn và phức tạp, em bị phục kích bởi một đám con trai không lớn hơn mình nhiều lắm. Ồ không, em không bị hãm hiếp. Chúng nó kéo váy em lên và tụt quần lót em xuống, ném vài cục đất rồi bỏ chạy. Dù vậy, em đã rất hoảng sợ. Lớn hơn, em vẫn tiếp tục tránh xa những đứa mười một tuổi trong công viên, em chỉ vào bụi rậm khi chúng hỏi về con diều bị rơi, liếc qua vai chúng và cười thầm. Kể cả trước khi em có một cậu con trai, em thực sự sợ chết khiếp mấy thằng nhóc. Và giờ thì, em nghĩ là mình sợ chết khiếp tất cả mọi người.
Nếu chúng ta cố nheo mắt khi nhìn vào hai giới tính để khiến chúng trông có vẻ giống nhau, một vài trái tim có thể đập nhanh hơn khi đi ngang qua một đàn vịt giời cười khúc khích. Nhưng bất kỳ đứa con gái nào khi đi ngang qua một đám say xỉn giang hồ đầy hooc-môn nam mà không nhanh chân, không tránh nhìn vào ánh mắt mời gọi hay thách thức, không thở phào nhẹ nhõm khi để lại đám người đó đằng sau, thì được xem là ngu như bò. Một cậu trai là một con thú nguy hiểm.
Đàn ông có khác không? Em chưa từng tự hỏi. Có lẽ anh có thể nhìn thấu chúng, những nỗi khổ thầm kín của chúng về việc có một con chim cong có phải là điều bình thường hay không, cách mà đàn ông thoải mái chia sẻ với nhau (mặc dù đó chính là điều mà em sợ). Chắc chắn khi biết tin anh sẽ là người che chở thứ kinh hoàng này trong gia đình, anh vui mừng đến nỗi phải che đậy bớt sự nhiệt tình. Giới tính của đứa trẻ chỉ khiến anh càng thêm cảm thấy nó là của anh, của anh, của anh.
Thành thật mà nói, Franklin ạ, thái độ gia trưởng của anh rất khó chịu. Nếu như em suýt va quệt khi qua đường, anh sẽ không quan tâm đến sự an toàn của em mà sẽ nổi xung lên vì cho rằng em vô trách nhiệm. Những “rủi ro” mà em chấp nhận, thực ra chính là những thứ thường ngày, dường như hiện lên trong tâm trí anh như là em cố phô bày thái độ ngạo mạn với cá nhân anh. Mỗi lần em bước ra cửa, em thề là anh nhìn em trừng trừng, như thể em đang trộm một món tài sản giá trị của anh mà không hỏi ý kiến.
Anh thậm chí còn không cho em nhảy, Franklin! Thật đấy. Có một buổi chiều những lo âu phảng phất nhiều dần lên. Em bật đĩa nhạc Speaking in Tongues của Talking Heads lên và bắt đầu vui vẻ nhảy nhót xung quanh căn gác xép chưa hoàn thiện của chúng ta. Đĩa nhạc vẫn đang chạy bài đầu tiên Burning Down the House và em gần như đã giật mình đến toát mồ hôi khi thang máy của anh đến nơi. Khi quả quyết nhấc cái kim lên, anh đã làm xước một vệt, và chiếc đĩa nhạc mãi mãi bị vấp.
“Này.” Em nói. “Có chuyện gì thế?”
“Em nghĩ mình đang làm cái quái gì thế?”
“Em đang vui vẻ. Thì sao? Có phạm pháp không?”
Anh tóm lấy bắp tay em. “Em đang muốn sảy thai hay sao? Hay là em chỉ muốn tận hưởng cuộc đời đầy cám dỗ?”
Em giãy ra. “Theo như em biết thì mang thai không phải là một kiểu cầm tù.”
“Vậy nhảy múa đi, ném mình vào đống đồ đạc kia đi…”
“Thôi đi, Franklin! Chẳng xưa lắm đâu, phụ nữ vẫn còn làm việc đồng áng đến tận khi đẻ và ngồi xổm luôn giữa những luống rau. Ngày đó, trẻ con thực sự được sinh ra từ đám bắp cải đấy.”
“Và vào những ngày đó thì tỷ lệ tử vong của sản phụ và thai nhi cao ngất.”
“Anh thì quan tâm gì đến những sản phụ tử vong? Chỉ cần họ lôi đứa bé ra khỏi cơ thể lạnh lẽo của em và giữ cho tim nó còn đập thì anh chả sướng rơn.”
“Em nói hơi tởm quá rồi đấy.”
“Em đang trong tâm trạng để ghê tởm đây.” Em nói lại rồi ngồi phịch xuống ghế sô-pha. “Mặc dù trước khi Papa Doc23 về, em đã có những giây phút tuyệt vời.”
23 Biệt danh của nhà lãnh đạo độc tài người Haiti François Duvalier.
“Hai tháng nữa thôi. Nó có quá khó để hy sinh cho sự an toàn của cả một con người không?”
Chúa ơi, em đã phát ốm với cái gọi là sự an toàn của cả một con người luôn treo trên đầu. “Sự an toàn của bản thân em, rõ ràng bây giờ chỉ bé bằng hạt đậu.”
“Anh không nói em không thể nghe nhạc, chỉ không ở mức khiến John tầng dưới phải gõ lên trần nhà anh ta.” Anh đặt lại mũi kim ở đoạn bắt đầu mặt A, vặn nhỏ âm lượng tới mức mà giọng David Byrne nghe như chuột Minnie. “Giống như những phụ nữ mang thai khác, em có thể ngồi một chỗ và gõ nhịp chân.”
“Em không biết chuyện đó đấy.” Em nói. “Tất cả những sự rung động có thể truyền đến tai Ông chủ nhỏ Fauntleroy24 và phá hỏng giấc ngủ bình yên của ông ta. Và chẳng phải chúng ta nên nghe Mozart sao? Có lẽ ban nhạc Talking Heads không có trong sách. Có lẽ việc bật Psycho Killer sẽ làm con có những ý nghĩ tiêu cực. Tốt hơn là nên tra cứu cho kỹ.”
24 Tên một bộ phim truyền hình năm 1936 dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Frances Hodgson Burnett.
Anh luôn là người hăng hái trong việc học làm cha mẹ, từ việc thở, chăm sóc răng đến cho ăn, trong khi em chỉ đọc lịch sử Bồ Đào Nha.
“Ngừng tự thương tiếc chính mình đi Eva. Anh nghĩ toàn bộ việc làm cha mẹ là chỉ cần trưởng thành lên thôi.”
“Nếu nhận ra điều đó quan trọng với anh thế nào và ảnh hưởng đến những người trưởng thành giả tạo, ít vui vẻ ra sao, em có thể sẽ nghĩ lại.”
“Đừng bao giờ nói thế.” Mặt anh đỏ phừng. “Đã quá muộn để lựa chọn lại, đừng bao giờ nói với anh em hối hận khi có con.”
Đó là khi em bắt đầu khóc. Trong khi em chia sẻ với anh những tưởng tượng tình dục bẩn thỉu nhất, những thứ vi phạm các chuẩn mực dị tính mà không có những lời tục tĩu của anh đáp lại, em quá xấu hổ để nhắc lại chúng. Từ bao giờ mà lại có điều một trong hai chúng ta không được phép nói ra?
Em yêu, em mong chờ gì
Em yêu, em mong chờ gì
Đĩa hát lại tiếp tục vấp.