N
ghĩa vụ đơn giản của lương tâm là đừng xúc phạm tính cả tin của những ai sẵn sàng chấp nhận những gian nan để một kỳ công phi thường như thế là đáng tin và hợp lý, lòng tôn trọng sự thật đòi hỏi phải lập tức làm sáng tỏ câu cuối. Senhor José không rơi nhẹ qua bệ cửa sổ như chiếc lá lìa cành. Ngược lại, anh ngã rất nặng, như cả một cái cây đổ, khi anh có thể hoàn toàn dễ dàng thả người dần xuống từ chỗ ngồi tạm tới khi bàn chân anh chạm đất. Cú ngã huỵch xuống đất và hậu quả va chạm đau đớn kế tiếp cho anh thấy, trước khi mắt anh có thể xác định sự kiện, rằng nơi anh rơi xuống giống như phần nối dài của mái hiên bên ngoài, vì cả hai nơi đều được dùng như một chỗ chứa những thứ không cần đến nữa, mặc dù có thể xảy ra ngược lại, chỗ này có trước, rồi sau đó chỉ khi đã hết chỗ trong này họ mới dùng đến mái hiên bên ngoài. Senhor José ngồi đó một lúc, đợi cho hơi thở trở lại bình thường và để tay chân hết run. Rồi anh bật đèn pin, cẩn thận chỉ rọi lên sàn nhà phía trước mình, và thấy giữa đám bàn ghế chất đống hai bên có một lối đi dẫn tới cánh cửa. Anh lo lắng khi nghĩ rằng cánh cửa có thể bị khóa, nếu thế anh sẽ phải phá cửa mà không có dụng cụ cần thiết và sẽ gây tiếng ồn. Bên ngoài trời vẫn mưa, mọi người chắc đã ngủ, nhưng chúng ta không chắc được, có kẻ ngủ rất tỉnh đến nỗi ngay cả tiếng một con muỗi vo ve cũng đủ đánh thức họ, khi ấy họ sẽ ngồi dậy, ra bếp uống một ly nước, nhìn bâng quơ qua cửa sổ và thấy một cái lỗ đen hình chữ nhật trên bức tường của ngôi trường, và có thể nghĩ, Mấy người trong trường bất cẩn quá, thử nghĩ xem để cửa sổ mở trong thời tiết thế này, hoặc là, Nếu mình nhớ không lầm, cái cửa sổ đó đóng, chắc nó bị gió thổi bật ra, sẽ không ai nghĩ có kẻ trộm bên trong, vả lại, họ hết sức sai lầm, chúng tôi xin nhắc lại cho các bạn một lần nữa, vì Senhor José không đến đây để ăn trộm. Anh chợt nghĩ nên đóng cửa sổ để không ai bên ngoài nhận ra vụ đột nhập, nhưng rồi anh ngờ vực, anh tự hỏi tốt hơn có nên để nguyên như thế hay không, Họ sẽ nghĩ là gió hay nhân viên nào đó bất cẩn, nếu mình đóng cửa, họ sẽ nhận ra ngay là không có kính, nhất là kính trắng đục như sữa. Tin tưởng rằng toàn thế giới đi theo con đường suy diễn như mình, anh quyết định để cửa sổ mở và bắt đầu trườn qua đống bàn ghế tới cánh cửa. Nó không khóa. Anh thở dài nhẹ nhõm, từ đây sẽ không còn chướng ngại nào khác nữa. Bây giờ điều anh cần là một cái ghế thoải mái, hay tốt hơn nữa là một chiếc sofa, để nghỉ qua đêm, nếu thần kinh của anh để cho anh ngủ. Như một kẻ kinh nghiệm chơi cờ vua, anh đã tính nước cờ, thật ra, khi ta biết khá chắc những nguyên do khách quan ngay trước mắt, thì không khó nhìn vấn đề qua loạt liên hệ nhân quả khả dĩ có thể xảy ra, tất cả lần lượt tạo nên quả nhân quả và nhân quả nhân, rồi cứ thế tiếp tục khôn cùng, nhưng chúng ta biết rằng Senhor José không cần tính xa như thế. Đối với những người thận trọng, nếu viên thư ký bước thẳng vào hang cọp dường như đã là ngu xuẩn, rồi như thể chưa đủ táo bạo, còn bình thản ở lại đó cho hết đêm và cả ngày hôm sau, để có thể rủi ro bị bắt quả tang bởi một kẻ có khả năng suy diễn xa hơn anh nhiều trong vấn đề cái cửa sổ để mở. Tuy nhiên, ta phải hiểu rằng nếu vừa đi từ phòng này sang phòng khác vừa bật đèn thì càng thiếu suy xét hơn nữa. Khi thiên hạ biết người sử dụng hợp pháp của một căn nhà hay một trường học vắng mặt, thì hình ảnh cửa sổ mở lẫn đèn sáng là một cú động não cho bất cứ ai, dù có thể cả tin đến mấy, chắc chắn họ sẽ gọi cảnh sát.
Senhor José đau nhức khắp người, đầu gối anh xước, có thể chảy máu, nỗi khó chịu vì quần cọ xát đầu gối có thể chỉ thế thôi, ngoài việc đó, anh ướt sũng và bẩn từ đầu tới chân. Anh cởi chiếc áo mưa nhỏ giọt và nghĩ, Nếu nơi này có căn phòng phía trong thì mình có thể bật đèn, và có một phòng tắm, phòng tắm để rửa ráy, hay ít ra là rửa tay. Mò mẫm đường, mở rồi đóng cửa, anh tìm thấy cái mình tìm, trước tiên, một phòng nhỏ không cửa sổ dọc theo hàng kệ chứa văn phòng phẩm của trường và văn phòng, bút chì, sổ ghi chép, giấy rời, bút mực, cục tẩy, lọ mực, thước kẻ, thước vuông góc, thước nhọn góc, thước đo góc, bộ đồ vẽ, tuýp keo, hộp đinh bấm, và những thứ khác anh không thấy rõ. Dưới ánh đèn, rốt cuộc anh có thể xem xét vết thương do cuộc mạo hiểm của mình gây ra. Vết thương ở đầu gối không tệ như anh tưởng, chỉ xước bên ngoài, tuy vẫn đau. Đến sáng, khi không cần bật đèn, anh sẽ tìm cái mà trường học nào cũng có, tủ cứu thương màu trắng, thuốc sát trùng, rượu cồn, peroxide, bông gòn, băng, gạc, thuốc bột, anh không cần hết những thứ đó. Chẳng phương thuốc nào giúp được cho chiếc áo mưa bẩn hết thuốc chữa của anh, mỡ lợn đã thấm vào vải, Có lẽ mình có thể dùng rượu cồn để tẩy chỗ bẩn nhất, Senhor José nghĩ. Rồi anh đi tìm phòng tắm, và may mắn, anh không phải đi xa lắm trước khi tìm thấy, đánh giá qua sự sạch sẽ và ngăn nắp của nó, nó phải là phòng vệ sinh của giáo viên. Cửa sổ cũng mở ra sau trường, ngoài tấm kính mờ hiển nhiên là cần thiết ở nơi đây hơn là trong phòng chứa đồ chỗ anh đột nhập, còn có cánh cửa chớp bằng gỗ bên trong, nhờ thế Senhor José rốt cuộc có thế bật đèn, rửa ráy và có thể thấy mình đang làm gì. Rồi, sạch sẽ không nhiều thì ít, sức khỏe của anh hồi phục, anh đi tìm chỗ ngủ. Mặc dù hồi còn đi học, anh chưa từng học trường nào như thế, sang trọng và rộng rãi, anh biết mỗi trường có một hiệu trưởng, và mỗi hiệu trưởng có một phòng làm việc, và phòng làm việc nào của hiệu trưởng cũng có chiếc ghế sofa đúng như cái mà thân thể anh đang kêu đòi. Anh tiếp tục mở và đóng cửa, nhìn vào các phòng, ánh sáng bên ngoài rọi vào khiến chúng có bầu không khí ma quái, bàn của học trò trông như những dãy mộ, bàn giáo viên như án thờ ảm đạm, và bảng đen là chỗ mọi người bị gọi đến để giải thích. Ghim trên tường, như những vết mờ thời gian để lại trên làn da con người và đồ vật, anh thấy những tấm bản đồ bầu trời, thế giới và các quốc gia, những tấm bản đồ thủy văn và sơn văn của cơ thể loài người, mạch máu, đường tiêu hóa, các loại bắp thịt, mạng thông tin của hệ thần kinh, khung xương, buồng phổi, mê hồn trận của bộ óc, tiết diện của con mắt, mớ rối rắm của bộ sinh dục. Các phòng học nối tiếp nhau dọc theo hành lang vòng quanh ngôi trường, khắp nơi có mùi phấn, xưa cũ như mùi thân thể, thậm chí có những người tin rằng Thượng đế sau khi nặn đất sét để sau đó làm nên họ, đã bắt đầu bằng cách dùng viên phấn vẽ một người đàn ông và một người đàn bà lên bề mặt của đêm đầu tiên, nhờ thế chúng ta xác tín rằng chúng ta đã, đang và sẽ là bụi, và chúng ta sẽ mất đi trong một đêm khác tối tăm như đêm khởi đầu. Có những phòng tối tăm dày đặc tuyệt đối, như được cắt từ tấm vải đen, nhưng ở nơi khác lởn vởn ánh lung linh rực rỡ của cái bể nuôi cá, ánh lân quang, ánh xanh phớt, không thể do những ngọn đèn đường, hay nếu là đèn đường, nó đã chuyển hóa khi rọi qua tấm kính. Nhớ đến ngọn đèn mờ mãi mãi treo trên bàn của Trưởng phòng, bóng tối xung quanh nó dường như luôn luôn sắp sửa ăn tươi nuốt sống, Senhor José lẩm bẩm, Phòng Đăng ký Trung ương khác, rồi anh nói thêm, như thể đòi hỏi có câu trả lời cho nhận xét của chính mình, Có thể càng khác thì càng giống, và càng giống thì càng khác, lúc đó anh chưa biết mình nói đúng dường nào.
Tầng đó chỉ có lớp học, phòng làm việc của hiệu trưởng chắc chắn ở tầng trên, xa những tiếng động, tiếng ồn khó chịu, tiếng huyên náo của học trò ra vào lớp. Trên mái cầu thang có một khuôn cửa sổ nhìn lên bầu trời, khi lên thang, anh di chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, và trong hoàn cảnh này ta không được phép nghĩ gì khác hơn ý nghĩa nôm na của nó là, rốt cuộc ta có thể nhìn thấy chỗ để đặt bàn chân của mình. Trong cuộc tìm kiếm mới này, định mệnh buộc rằng trước khi gặp phòng làm việc của hiệu trường, Senhor José thoạt tiên phải vào văn phòng thư ký, một căn phòng có ba cửa sổ nhìn ra đường. Căn phòng chứa bàn ghế như thường thấy trong loại văn phòng này, vài cái bàn và bằng ấy cái ghế cũng như tủ vật dụng, tủ hồ sơ, bộ phiếu danh mục, tim Senhor José đập mạnh khi thấy chúng, anh đến đây để tìm nó, hồ sơ, phiếu danh mục, phiếu điểm, báo cáo, ghi chú, tiểu sử của người phụ nữ vô danh lúc còn là một đứa bé rồi là thiếu nữ, cứ giả sử rằng không có ngôi trường nào khác trong đời nàng sau trường này. Senhor José mở hú họa một ngăn kéo phiếu danh mục, nhưng ánh đèn từ ngoài đường không đủ sáng cho anh thấy nó chứa loại hồ sơ gì. Mình có khối thì giờ, Serthor José nghĩ, bây giờ mình cần ngủ. Anh rời văn phòng, và cách đó hai cánh cửa, rốt cuộc anh tìm thấy văn phòng hiệu trưởng. So sánh với nét khắc khổ của Phòng Đăng ký Trung ương, ta có thể nói không phóng đại rằng nơi đây xa xỉ. Sàn trải thảm, cửa sổ treo màn dày, kéo kín, bàn làm việc lớn, kiểu xưa và ghế da hiện đại màu đen, Senhor José khám phá ra tất cả những thứ này vì khi mở cửa thấy tối đen, anh không ngần ngại bật đèn pin của mình trước tiên, rồi mở ngọn đèn giữa phòng. Vì ta không thấy ánh sáng rọi vào từ bên ngoài, không ai bên ngoài có thể thấy ánh đèn bên trong. Ghế của vị hiệu trưởng thoải mái, anh có thể ngủ ở đó, nhưng còn khá hơn nữa, chiếc sofa dài, rộng, ba chỗ ngồi dường như độ lượng mở vòng tay đón chào và dỗ dành tấm thân mệt lử của anh. Senhor José nhìn đồng hồ đeo tay của mình, vài phút nữa mới ba giờ. Thấy trời đã khuya, vì anh thậm chí đã không để ý đến thời gian trôi qua, anh bỗng cảm thấy rất mệt mỏi, Đủ rồi, anh nghĩ, và không kìm được, thuần túy vì căng thẳng cùng cực, anh bắt đầu nức nở, khóc không thể kìm nén, hầu như bị kinh phong, đứng đó, như thể một lần nữa anh lại là đứa học trò bé nhỏ lớp Một, trong một ngôi trường khác, tinh nghịch và bị hiệu trưởng gọi lên để nhận hình phạt đích đáng. Anh ném cái áo mưa sũng nước của mình xuống sàn, lấy khăn tay trong túi quần đưa lên mắt, nhưng chiếc khăn tay cũng ướt như mọi thứ khác, vì cả người anh, từ đầu đến chân, bây giờ anh mới nhận ra, dường như chảy nước, như thể không khác gì vắt giẻ, thân thể anh bẩn thỉu, tâm hồn anh thâm tím, và cả hai cảm thấy khốn nạn như nhau, Mình đang làm gì ở đây, anh tự hỏi, nhưng anh không muốn trả lời, anh sợ rằng một khi đã lột trần ra, anh sẽ thấy nguyên do đưa anh đến nơi này là vô lý, lố bịch, điên cuồng. Anh chợt rùng mình. Mình bị cảm lạnh rồi, anh nói lớn và lập tức hắt hơi hai lần, rồi trong lúc xì mũi, anh thấy mình đang cuốn theo con đường bất thường của một suy nghĩ tự ý nó chọn lối mà không đưa ra lời giải thích, và nhớ những tài tử xi nê cứ mặc nguyên áo quần phóng xuống nước hay bị ướt sũng vì trận mưa như trút, và họ không bao giờ bị sưng phổi hay thậm chí cảm lạnh xoàng như xảy ra hằng ngày trong đời thật, cùng lắm họ chỉ quấn chăn bên ngoài bộ quần áo ướt, hình như là một việc lố bịch nếu chúng ta không biết cảnh quay phải bị gián đoạn lại để tài tử có thể về phòng thay áo, tắm nước nóng và mặc bộ áo choàng ghi tên của họ.
Senhor José bắt đầu cởi giày, rồi cởi áo khoác và sơ mi, cởi quần rồi móc lên cột treo mũ anh thấy ở một góc phòng, bây giờ anh chỉ cần quấn quanh mình tấm chăn không thể tránh khỏi đó của phim ảnh, một vật dụng khó tìm trong văn phòng hiệu trưởng, trừ phi vị hiệu trưởng là một người lớn tuổi, loại người đầu gối bị lạnh mỗi khi ngồi xuống bất kể lâu hay mau. Sức suy diễn của Senhor José một lần nữa dẫn anh đến kết luận đúng, cái chăn gấp cẩn thận nằm trên mặt ghế. Tấm chăn không lớn, không đắp được toàn thân anh, nhưng vẫn hơn là nằm trần truồng suốt đêm. Senhor José tắt ngọn đèn giữa phòng, dùng đèn pin đưa mình về ghế sofa, rồi thở dài, duỗi dài trên ghế, nhưng lập tức cuộn tròn lại để vừa cả người dưới tấm chăn. Anh vẫn run, anh vẫn mặc đồ lót còn ướt, có lẽ vì mồ hôi, vì cố sức, mưa không thể ngấm xa như thế. Anh ngồi lên sofa, tuột áo quần lót, tháo vớ, rồi quấn chăn quanh người như cố làm thêm một lớp da thứ hai, và do đó cuộn tròn như con mối, anh thả mình chìm trong bóng tối của phòng làm việc, đợi niềm ấm áp nhỏ nhoi nhân từ sẽ đưa anh vào giấc ngủ hạnh phúc. Cả hai niềm ấm áp và giấc ngủ đều lâu đến, bị xua đuổi vì một ý nghĩ không buông tha anh, Nếu có ai bước vào và thấy mình trong tình trạng này, nghĩa là trần truồng, họ sẽ gọi cảnh sát, họ sẽ còng tay anh, họ sẽ hỏi tên anh, tuổi và nghề nghiệp, vị hiệu trưởng sẽ là người đến trước tiên, rồi tới Trưởng phòng, và cả hai sẽ nhìn anh với cặp mắt lên án nghiêm khắc, Anh làm gì ở đây, họ sẽ hỏi, và anh sẽ không có giọng để trả lời, anh không thể giải thích cho họ rằng anh đang tìm một phụ nữ vô danh, họ có thể sẽ bật cười rồi hỏi lại, Anh làm gì ở đây, và họ sẽ cứ hỏi đến khi anh thú nhận mọi điều, bằng chứng của việc này là chúng vẫn lặp lại trong giấc mơ của anh, khi ánh ban mai trở lại trên thế gian, Senhor José rốt cuộc từ bỏ đêm thao thức kiệt lực của mình, hay nó bỏ anh.
Anh thức dậy trễ, mơ thấy mình lại đang ở trên mái hiên lúc mưa tầm tã trút xuống anh ầm ĩ như thác nước, và người phụ nữ vô danh, trong hình dáng một tài tử xi nê trong bộ sưu tập của anh, đang ngồi trên gờ cửa sổ với cái chăn của vị hiệu trường gấp trên đùi, vừa đợi anh leo xong, vừa nói, Sao không gõ cửa trước phải hay hơn không, anh hổn hển đáp, Tôi không biết cô ở đây, và nàng nói, Tôi vẫn luôn ở đây, tôi chưa bao giờ ra ngoài, rồi ngay lúc hình như sắp cúi tới giúp anh lên, nàng bỗng nhiên biến mất, mái hiên biến mất theo nàng, và chỉ còn mưa, rơi, rơi không ngừng trên chiếc ghế của Trưởng phòng, nơi Senhor José thấy mình đang ngồi. Đầu anh hơi nhức, nhưng cơn cảm lạnh của anh hình như không nặng hơn. Một sọc sáng mờ len vào giữa màn cửa, nghĩa là trái với vẻ bề ngoài, màn không đóng hoàn toàn. Không ai nhận ra, anh nghĩ, và anh đúng, ánh sáng của một vì sao sáng hơn ta nghĩ, nhưng vì phần lớn ánh sáng của nó mất đi trong không gian, chỉ một màn sương cũng đủ che ánh sáng chói chang khỏi mắt chúng ta. Ngay cả những người sống bên kia đường đến cửa sổ hé nhìn ra để xem thời tiết, họ sẽ nghĩ sợi chỉ sáng chập chờn giữa những giọt nước chảy xuống ô kính cửa sổ chỉ là mưa lấp lánh, vẫn quấn trong chăn, Senhor José mở hé màn cửa, đến lượt anh xem thời tiết ra sao. Lúc đó mưa đã tạnh, nhưng một cụm mây đen đơn độc bao phủ bầu trời, mây thấp như chạm nóc nhà, như tấm bia mộ khổng lồ. Càng tốt, anh nghĩ, càng ít người ngoài đường càng tốt. Anh đến sờ thử áo quần đã cởi ra để xem có mặc chúng lại được hay không. Sơ mi, áo lót, quần lót và vớ tạm khô đủ, quần còn ẩm, nhưng áo khoác và áo mưa còn phải mất nhiều giờ nữa mới khô. Để tránh cho vải cứng vì ẩm cọ vào đầu gối bị xước, anh mặc hết mọi thứ trừ cái quần, rồi đi tìm tủ cứu thương. Hợp lý ra, nó phải ở tầng trệt, gần phòng tập thể dục, ở đó có khuynh hướng xảy ra tai nạn, gần sân chơi, nơi trong giờ ra chơi học sinh đến để trút sinh lực của chúng ra bằng các trò chơi có ít nhiều thô bạo và quan trọng hơn, để tống khứ sự buồn tẻ và lo lắng của chúng do học hành gây nên. Anh đúng. Sau khi rửa các vết thương bằng peroxide, anh thấm vết thương với ít thuốc sát trùng có mùi iodine và thận trọng băng lại, dùng nhiều thuốc bột đến nỗi nom như anh đang mang đệm đầu gối. Dù vậy, anh vẫn có thể co chân bước. Anh mặc quần và cảm thấy như một người mới, tuy không đủ mới để quên nỗi khó chịu chung đang ảnh hưởng khắp cơ thể mình. Ở đây phải có thuốc cảm và thuốc nhức đầu, anh nghĩ, và ngay sau đó tìm thấy thuốc anh cần, anh uống hai viên vào bụng. Anh không cần cẩn thận tránh bị bên ngoài nhìn thấy, vì như ta vẫn biết, cửa sổ phòng cứu thương cũng làm bằng kính mờ, nhưng từ nay anh sẽ phải chú ý mỗi cử động của mình, anh không thể phạm bất cứ lỗi lầm nào, anh phải tránh thật xa các cửa sổ, và nếu anh nhất định phải đi qua cửa sổ, khi ấy anh sẽ phải bò xuống, nói tóm lại, anh phải hành xử như anh chưa từng làm gì khác trong đời ngoài việc đào tường khoét vách. Bao tử anh chợt cồn cào nhắc anh nhớ là đã sai lầm khi uống thuốc mà không ăn gì kèm theo, cho dù chỉ một cái bánh quy, Đúng, mình tìm đâu ra bánh ở đây, anh tự hỏi, biết rằng bây giờ anh có một vấn đề mới cần giải quyết, vấn đề thực phẩm, vì anh sẽ không thể rời tòa nhà trước khi trời tối, Rất tối, anh nói thêm. Mặc dù, như chúng ta biết, anh dễ thỏa mãn trong vấn đề thực phẩm, nhưng anh phải ăn chút gì để đỡ đói trước khi về đến nhà, tuy vậy, Senhor José trả lời nhu cầu đó bằng những lời khắc kỷ này, Chỉ có một ngày, chẳng ai chết vì không ăn vài tiếng bao giờ.
Anh rời phòng y tế, và mặc dù văn phòng thư ký là nơi anh sẽ tìm kiếm nằm trên tầng hai, anh quyết định, hoàn toàn vì tò mò, đi một vòng các phòng ở tầng trệt. Anh tìm thấy ngay phòng tập thể dục có phòng giữ áo quần, các thanh sát tường và các dụng cụ khác, thanh ngang, thùng, vòng, ngựa gỗ, ván nhún, đệm. Ở thời anh, trường học không có tất cả những dụng cụ thể thao này, và anh cũng chẳng muốn có, vì hồi đó cũng như bây giờ, anh là một kẻ nói chung là khá nhút nhát. Bao tử anh cồn cào hơn, chất đắng trào lên miệng làm ngứa cổ, phải chi anh có thể hết nhức đầu, Cảm rồi, có lẽ mình sốt, anh vừa nghĩ vừa mở một cánh cửa khác. Chúa ban phúc lành cho tâm hồn tò mò, đó là phòng ăn. Khi ấy suy nghĩ của Senhor José mọc cánh, anh chạy vào tìm thức ăn, Nơi nào có phòng ăn sẽ có nhà bếp, nơi nào có nhà bếp, anh không cần nghĩ hết, nhà bếp kia rồi, với lò nướng, nồi và chảo, đĩa và ly, tủ thức ăn, cái tủ lạnh khổng lồ. Anh đi thẳng đến nó, mở toang cánh cửa, thức ăn sáng rực, một lần nữa đội ơn thần tò mò, cũng như thần đạo chích trong một số trường hợp cũng xứng đáng không kém. Mười lăm phút sau, Senhor José rõ ràng là một người mới, hồi phục thể xác và tinh thần, áo quần của anh gần khô, đầu gối được băng bó, và dạ dày làm việc với những món bổ dưỡng và chất lượng hơn hai viên thuốc đắng chống cảm. Khoảng giờ ăn trưa, anh sẽ trở lại gian bếp này, cái tủ lạnh tử tế này, nhưng bây giờ anh phải đi kiếm tra các phiếu danh mục trong văn phòng thư ký để tiến thêm một bước, bước dài hay ngắn anh chưa biết, trong việc dò tìm các hoàn cảnh của cuộc đời người phụ nữ vô danh ba mươi năm trước, khi nàng chỉ là một bé gái với cặp mắt nghiêm nghị và mái tóc phủ xuống ngang mày, đứa bé đã ngồi trên băng ghế đó ăn bánh mì và mứt, có lẽ buồn vì nó đã làm vấy mực cuốn tập tô xinh đẹp, có lẽ vui vì mẹ đỡ đầu đã hứa cho nó một con búp bê.
Tấm nhãn trên ngăn kéo ghi rõ, Học sinh theo thứ tự chữ cái, các ngăn kéo kia được ghi cách khác, Học sinh lớp Một, Học sinh lớp Hai, Học sinh lớp Ba, vân vân, tới năm cuối của trường. Senhor José lặng lẽ hài lòng về nghiệp vụ của hệ thống lưu trữ, được tổ chức thuận tiện cho việc tìm phiếu của học sinh bằng hai đường hội tụ và bổ sung nhau, một chung, một riêng. Một ngăn kéo riêng chứa phiếu lý lịch giáo viên, như ta có thể thấy ghi trên nhãn, Giáo viên. Nhìn tấm nhãn đó trí óc Senhor José lập tức chuyển động các bánh xe trong bộ máy suy diễn hiệu quả cao độ của anh, Nếu như theo logic giả định, anh nghĩ, các giáo viên trong ngăn kéo này là những người đang dạy trong trường, thì những phiếu học sinh, ngoài lý do lưu trữ đơn thuần, phải thuộc về số học sinh đang học, vả lại, ai cũng có thể thấy các phiếu lý lịch của học sinh trong ba mươi năm, đó là ước tính thấp thôi, không bao giờ có thể cất vừa trong nửa tá ngăn kéo này, cho dù các tấm phiếu mỏng đến mấy. Không hy vọng tìm thấy tấm phiếu, nhưng chỉ để xoa dịu lương tâm mình, Senhor José mở ngăn kéo nơi đáng lẽ sẽ có tấm phiếu thuộc về người phụ nữ vô danh nếu dựa theo mẫu tự.
Nó không có ở đó. Anh đóng ngăn kéo và nhìn xung quanh, Phải có một bộ phiếu khác cho cựu học sinh, anh nghĩ, họ không thể hủy chúng khi hết khóa, như thế sẽ vi phạm quy tắc lưu trữ sơ đẳng nhất. Tuy nhiên, nếu có bộ phiếu đó thì nó không nằm ở đây. Lo lắng, và biết chắc cuộc tìm kiếm sẽ vô hiệu quả, anh mở các tủ và ngăn kéo bàn làm việc. Số không. Như thể không chịu nổi thất vọng, cơn nhức đầu của anh tăng lên. Làm gì bây giờ, José, anh tự hỏi. Mình phải tìm chỗ khác, anh đáp. Anh rời văn phòng thư ký và nhìn dáo dác dãy hành lang dài. Ở đây không có lớp học, do đó những phòng trên tầng lầu này, ngoài văn phòng hiệu trưởng, phải dùng vào những việc khác, một trong số đó, như anh nhìn thấy ngay, là phòng nhân viên, một phòng nữa dường như là kho chứa học liệu dư thừa, và cuối cùng hai phòng khác hình như là, phải là, nơi chứa hồ sơ cũ của trường, cất trong thùng trên những ngăn kệ lớn. Thoạt nhìn Senhor José đắc chí, và đó là lợi thế của kẻ có kinh nghiệm trong nghề, hay vì đó là niềm hy vọng mỏng manh chợt tới, nhưng cũng là điều bất lợi đau đớn, chỉ vài phút là đủ cho anh nhận ra rằng thứ anh muốn cũng không có ở đó, các hồ sơ này thuộc loại hành chính đơn thuần, thư nhận được, bản sao thư gửi đi, thống kê, sổ điểm danh, các biểu đồ tiến triển, sổ nội quy. Anh tìm lại, hai lần nữa, vô ích. Tuyệt vọng, anh ra hành lang, Bây nhiêu cố gắng chẳng được tích sự gì, anh nói, rồi một lần nữa buộc mình phải tuân theo logic, Không thể được, những phiếu lý lịch khốn nạn này phải ở đâu đó, nếu bọn này giữ tất cả thư từ bao năm qua chẳng ai dùng đến, họ phải giữ phiếu lý lịch học sinh, những tài liệu quan trọng cho tiểu sử, mình sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào nếu một số người trong bộ sưu tập của mình là học sinh ở trường này. Trong hoàn cảnh khác, chẳng hạn như khi anh làm phong phú thêm bộ sưu tập các mẩu cắt báo của mình bằng các bản sao giấy khai sinh của những người liên hệ, Senhor José có thể nghĩ rằng có thêm hồ sơ điểm danh và thành tích học tập cũng là điều lý thú. Tuy nhiên, điều đó chẳng khác gì hơn là mơ mộng hão. Có giấy khai sinh trong tầm tay ở Phòng Đăng ký Trung ương là một việc, đi lang thang trong thành phố rồi đột nhập vào trường học để tìm xem ông này bà nọ được tám hay mười lăm điểm toán năm lớp Bốn là việc khác, và liệu ông kia có quả thật là đứa học trò ngỗ nghịch như ông ta quả quyết trong các buổi phỏng vấn hay không. Và nếu để vào từng trường, anh phải chịu khổ sở như khi đột nhập trường này, thì thà là sống bình an và lặng lẽ ở nhà còn hơn, thà là chấp nhận biết thế gian qua những gì bàn tay có thể nắm được mà không phải xa rời nhà, chữ nghĩa, hình ảnh, ảo tưởng.
Cương quyết đào đến tận cùng sự việc một lần cho xong, Senhor José quay lại thư khố, anh nói, Nếu trên thế gian này có gì hợp lý thì các phiếu lý lịch phải ở đó. Anh lục hàng kệ trong căn phòng đầu tiên, thùng này qua thùng khác, bó này sang bó kia, với chiếc lược răng mịn, theo cách nói chắc phải có nguồn gốc từ hồi thiên hạ cần chải tóc bằng cái còn gọi là lược chải chí để bắt những con đã bị một chiếc lược thường bỏ sót, nhưng cuộc tìm kiếm lại cho thấy vô ích, không có bộ phiếu lý lịch. Có, có các tờ lý lịch cất lổn ngổn trong một thùng lớn, nhưng chỉ từ năm năm vừa qua. Bây giờ anh tin rằng tất cả phiếu lý lịch khác đã bị tiêu hủy, xé bỏ, vứt vào thùng rác, nếu không đốt bỏ, Senhor José vào căn phòng thứ hai với tâm trạng vô vọng, với sự lãnh đạm của kẻ chỉ làm tròn một nhiệm vụ vô ích. Tuy nhiên, nếu có thể nói một cách không hoàn toàn sai, đôi mắt anh thấy thương hại cho anh, mặc dù cố đến mấy ta cũng không tìm được câu giải thích nào khác cho sự kiện là chúng lập tức đặt anh trước một cánh cửa hẹp giữa hai hàng kệ, như thể chúng biết ngay từ đầu rằng có cánh cửa ở đó. Senhor José nghĩ anh đã đến chặng cuối của công việc,lúc chu toàn mọi nỗ lực của anh, thực vậy, nếu không định mệnh sẽ cho thấy một khắc nghiệt không thế tha thứ, dù mọi nỗi thăng trầm của cuộc đời, phải có lý do vì sao người bình thường cứ nói rằng vận rủi không phải lúc nào cũng cứ đợi sau cánh cửa, sau cánh cửa này phải có một kho tàng, ôi dào, như trong những câu chuyện cổ tích, tuy vẫn có thể phải đánh nhau với một con rồng mới tới được nó. Con rồng này không có hàm răng nhớt dãi hung dữ, mũi nó không phun khói lửa, nó không gầm to như động đất, nó chỉ là bóng tối uể oải chờ đợi, dày đặc và lặng lẽ như biển sâu, có những kẻ được coi là gan dạ không có can đảm tiến xa hơn, có kẻ thậm chí lập tức bỏ chạy, kinh khiếp, sợ rằng con thú gớm ghiếc sẽ dùng móng vuốt chộp cổ họ. Dù không phải là kẻ dũng cảm điển hình hay gương mẫu, Senhor José sau nhiều năm ở Phòng Đăng ký Trung ương đã có hiểu biết về ban đêm, về bóng tối, sự vô danh và kín đáo bù đắp cho bản chất rụt rè của anh, và giờ đây cho phép anh không quá sợ đưa tay vào cơ thể con rồng để tìm cái công tắc đèn. Anh tìm thấy nó, anh bật nó lên, nhưng không có ánh sáng. Lết chân đi tới để khỏi vấp, anh tiến một quãng ngắn đến khi va ống quyển bên phải vào một vật cứng. Anh cúi xuống sờ chướng ngại vật, và đúng lúc nhận ra đó là cái bục sắt, anh cảm thấy hình dáng của chiếc đèn pin trong túi, giữa bao nhiêu cảm xúc trái ngược, anh đã quên tiệt nó. Trước mặt anh là cái cầu thang trôn ốc vươn vào bóng đen dày đặc hơn cả bóng tối ở ngưỡng cửa, và nó nuốt chửng chùm ánh sáng trước khi tia sáng có thể chỉ lối cho anh lên. Cầu thang không có tay thang, đúng là cái mà một kẻ chóng mặt kinh niên không cần đến, ở bậc thứ năm, nếu anh xoay xở lên được tới đó, Senhor José sẽ mất mọi khái niệm về độ cao thực sự anh đã đến, anh sẽ cảm thấy mình sắp rơi xuống đất một cách vô vọng, và anh sẽ rơi. Nhưng điều đó không xảy ra. Senhor José lố bịch, nhưng mặc kệ, chỉ có anh mới biết điều anh đang làm là vô lý và lố bịch ra sao, không ai thấy anh kéo lê mình lên chiếc thang đó như một con thằn lằn vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, lo sợ bám vào bậc thang, từng bậc từng bậc, thân thể anh cố uốn theo vòng trôn ốc dường như vô tận, đầu gối anh một lần nữa lại mang gánh nặng chính. Khi bàn tay của Senhor José rốt cuộc chạm mặt sàn bóng của tầng gác sát mái nhà, sức mạnh thể chất của anh từ lâu đã thua trong cuộc chiến đấu với tâm hồn hoảng sợ của mình, vì thế anh không thể đứng dậy ngay, anh nằm đó, áo sơ mi và mặt anh tì lên lớp bụi phủ trên sàn, chân anh buông thõng trên các bậc thang, đúng là nỗi khốn khổ người ta phải trải qua khi họ rời chốn an toàn của nhà mình để bị lôi kéo vào những cuộc phiêu lưu điên rồ.
Một lúc sau, vẫn nằm sấp mặt, vì anh không dại gì cố gắng đứng lên giữa bóng tối để gặp cảnh rủi ro bước hụt chân rồi lao ngược vào vực thẳm từ đó anh đã leo lên, Senhor José xoay xở một cách khó khăn để xoay người và rút chiếc đèn pin anh đã bỏ trong túi sau quần. Anh bật đèn và rọi lên sàn nhà ngay phía trước mình. Giấy tờ nằm rải rác, thùng các tông, một số đầy ních, tất cả dày bụi. Cách đó vài mét anh thấy hình như là những cái chân ghế. Anh hơi nâng ngọn đèn lên, một cái ghế. Hình như nó còn tốt, mặt ghế, lưng ghế, và trên đó một bóng đèn không chao treo lơ lửng từ trần nhà thấp, Senhor José nghĩ, Y như trong Phòng Đăng ký Trung ương. Anh rọi ánh đèn quanh phòng và thấy hình dáng bồng bềnh của những hàng kệ dường như che kín hết các vách tường. Những chiếc kệ không cao, không thể cao vì mái nhà dốc, và chúng nặng trĩu những thùng và các bó giấy không hình dáng nhất định. Không rõ công tắc đèn ở đâu, Senhor José nghĩ, và câu trả lời như mong đợi là, Công tắc ở tầng dưới, nó hỏng rồi, mình không nghĩ là có thể tìm được các tờ phiếu lý lịch với cây đèn pin này, vả lại có thể pin sắp hết, Đáng lẽ mày phải nghĩ tới trước, Có lẽ có một cái công tắc nữa ở đây, Dù cho có đi nữa, mình đã biết bóng đèn đã hỏng, Mình chưa biết, Nếu không nó đã bật lên rồi, Điều duy nhất mình biết là đã thử bật đèn và đèn không sáng, Đúng thế, Nó có thể vì cái gì khác, Cái gì, Ở tầng dưới không có bóng đèn, Vậy thì ta đúng, bóng đèn ở đây cũng đã cháy, Nhưng không có điều gì nói rằng không có hai cái công tắc và hai cái bóng đèn, một cái trên thang lầu và cái kia trong tầng gác sát mái nhà, bây giờ đèn tầng dưới đã cháy bóng, nhưng mình vẫn không biết cái đèn ở tầng trên ra sao, Nếu mày đủ thông minh để suy diễn như thế, vậy thì tìm công tắc đi. Senhor José bỏ tư thế vụng về anh đang nằm rồi ngồi dậy, Áo quần mình sẽ dễ sợ lúc mình ra khỏi chỗ này, anh nghĩ, và rọi đèn lên bức tường gần chỗ đầu thang, Nếu có công tắc thì sẽ ở chỗ này. Anh tìm thấy nó đúng vào lúc anh nản lòng kết luận rằng cái công tắc duy nhất quả thật ở tầng dưới. Trong lúc anh lê bàn tay không cầm đèn pin trên sàn để được thoải mái hơn, đèn bật lên, cái công tắc loại nút bấm được gắn lên sàn để người leo thang lên có thể với tới ngay. Anh sáng vàng vọt của bóng đèn chiếu chưa tới bức tường phía sau, không có dấu chân nào trên sàn gác. Nhớ đến những tờ phiếu lý lịch anh đã thấy ở tầng dưới, Senhor José thốt lớn, ít nhất sáu năm rồi chưa có ai lên đây. Khi tiếng vọng của lời anh nói đã tắt, Senhor José nhận thấy tầng gác sát mái im lặng vô bờ, như thể sự im lặng đã ở đó trước khi chứa đựng một sự im lặng lớn hơn, bọn mọt gỗ chắc đã ngưng việc đào bới của chúng. Từ trên trần nhà thõng xuống những mạng nhện bám bụi đen, bọn chủ của chúng chắc đã chết từ lâu vì thiếu thức ăn, nơi này không có gì để hấp dẫn một con ruồi bay lạc, nhất là cánh cửa tầng dưới đóng, và lũ bọ đêm, loài nhậy và lũ mọt gỗ trong các xà rầm không có lý do gì đổi những gian phòng gỗ nơi chúng đang ở để ra thế giới bên ngoài. Senhor José đứng dậy, cố gắng một cách vô ích phủi bụi khỏi quần áo mình, mặt anh trông như khuôn mặt của một gã hề quái gở nào đó, với vết bẩn lớn trên một bên mặt. Anh đến ngồi lên chiếc ghế dưới bóng đèn, và bắt đầu nói với chính mình, Thử nhìn một cách hợp lý xem sao, anh nói, nếu các tờ phiếu lý lịch cũ ở đây, và mọi sự kiện đều chứng tỏ chúng ở đây, thì khó lòng chúng được phân loại theo từng học sinh, nghĩa là các tờ phiếu của mỗi học sinh sẽ xếp chung với nhau để ta có thế liếc qua là thấy ngay toàn bộ quá trình học tập của chúng, mà rất có khả năng là vào cuối mỗi niên khóa, cô thư ký sẽ bó lại tất cả các phiếu của năm đó rồi để ở đây, mình ngờ là cô ta cũng chẳng thèm bận tâm cất chúng vào thùng, hay có lẽ cô ta có cất thì mình sẽ phải thấy thôi, mình hy vọng nếu cô ta cất vào thùng, ít nhất cô ta cũng nghĩ tới việc viết năm học lên đó, nhưng dù sao đi nữa cũng chỉ à vấn đề thời gian và kiên nhẫn. Kết luận này không thêm thắt được gì nhiều vào giả thuyết ban đầu của anh, ngay từ thuở đầu đời, Senhor José đã biết anh chỉ cần thời gian để sử dụng lòng kiên nhẫn, và ngay từ thuở ban đầu anh đã hy vọng lòng kiên nhẫn sẽ không thiếu thời gian. Anh đứng dậy, và trung thành với quy luật rằng trong mọi cuộc tìm kiếm, kế hoạch tốt nhất là bắt đầu ở một điểm rồi tiến hành từ điểm đó một cách có phương pháp và kỷ luật, anh bắt đầu ở cuối một dãy kệ, quyết định không để một mảnh giấy nào không lật, luôn kiểm soát để không mảnh giấy nào bị khuất giữa tờ trên và tờ dưới. Mỗi cử động của anh, mở thùng, cởi bọc giấy, đều tung lên một lớp bụi, nhiều bụi đến nỗi để khỏi bị ngạt thở, anh phải buộc khăn mùi soa lên mũi và miệng, một biện pháp phòng ngừa mà các viên thư ký được khuyên nên tuân theo mỗi lần họ vào văn khố người chết trong Phòng Đăng ký Trung ương. Trong khoảnh khắc, hai tay anh đã đen và khăn mùi soa đã mất mọi dấu vết trắng trẻo còn lại của nó, Senhor José trở thành anh thợ đào than hy vọng tìm viên kim cương thuần chất nơi đáy mỏ sâu.
Nửa giờ sau anh tìm thấy hồ sơ đầu tiên. Đứa bé gái không còn mái tóc cắt ngang trán, nhưng trong tấm ảnh chụp lúc mười lăm tuổi này, đôi mắt nó có cùng một vẻ nghiêm nghị tổn thương. Senhor José cẩn thận đặt hồ sơ lên ghế và tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình. Anh làm việc trong trạng thái gần như mơ màng, tỉ mỉ, sốt nóng, lũ nhậy vẫy cánh bay ra dưới ngón tay anh, hoảng sợ vì ánh sáng, và từng chút từng chút, như thể anh đang lục soát phế tích của một ngôi mộ, bụi bặm bám lên da anh, bụi mịn đến nỗi nó thấm qua y phục của anh. Thoạt đầu, khi nhặt một bó phiếu lý lịch lên, anh đi thẳng đến thứ anh thực sự quan tâm, rồi anh bắt đầu nấn ná trên những cái tên, hình ảnh, không vì lý do gì, chì vì chúng ở đó và vì không có ai khác lên căn gác sát mái nhà này để quét đi lớp bụi phủ lên chúng, hàng trăm, hàng ngàn khuôn mặt trai gái nhìn thẳng vào máy ảnh, ở bên kia thế giới, đợi chờ, chờ điều gì chúng không biết rõ. Phòng Đăng ký Trung ương không như thế, trong Phòng Đăng ký Trung ương chỉ có chữ, trong Phòng Đăng ký Trung ương ta không thể thấy các bộ mặt thay đổi hoặc tiếp tục thay đổi ra sao, khi đúng ra điều đó là điều quan trọng nhất, điều thời gian làm thay đổi, chứ không phải cái tên, một thứ không bao giờ thay đổi. Khi dạ dày Senhor José bắt đầu sôi, trên ghế có bảy tờ phiếu lý lịch, hai tờ có ảnh giống nhau, mẹ đứa bé hẳn đã nói, Lấy tấm ảnh năm ngoái này, chẳng cần đến ông thợ chụp ảnh nữa, và đứa bé lấy tấm ảnh, buồn vì năm nay nó không có ảnh mới. Trước khi xuống bếp, Senhor José đi tới phòng vệ sinh của hiệu trưởng để rửa tay, anh sửng sốt vì điều anh nhìn thấy trong gương, anh đã không tưởng tượng được khuôn mặt mình có thể rơi vào tình trạng này, bẩn thỉu, ngang dọc những vệt mồ hôi, Thậm chí trông chẳng giống mình, anh nghĩ, nhưng có lẽ anh chưa bao giờ giống mình hơn như thế. Sau khi ăn xong, anh lên tầng gác sát mái nhà nhanh như đầu gối của anh cho phép, anh chợt nghĩ nếu đèn tắt, một điều có thể xảy ra sau trận mưa này, anh sẽ không thể hoàn tất cuộc tìm kiếm của mình. Giả sử cô ấy không ở lại lớp, anh chỉ còn phải tìm thêm năm tấm phiếu nữa, và nếu bây giờ anh bị lao vào bóng tối, mọi nỗ lực của anh sẽ bị mất một phần, vì anh sẽ không bao giờ có thể trở lại ngôi trường nữa. Đăm chiêu trong công việc, anh đã quên cơn nhức đầu và cảm lạnh của mình, và bây giờ anh nhận ra mình cảm thấy tệ hơn. Anh lại xuống tầng dưới đế uống hai viên thuốc nữa, rồi leo lên lại bằng một cố gắng tối đa, và tiếp tục việc làm của mình. Buổi chiều đang tàn lúc anh tìm thấy tấm phiếu lý lịch cuối cùng. Anh tắt đèn trong tầng gác sát mái nhà, đóng cửa, và như một kẻ mộng du, mặc áo khoác và áo mưa, xóa đi mọi dấu vết về sự có mặt của mình càng nhiều càng tốt rồi ngồi xuống đợi đêm đến.