N
gười ta vào nghĩa trang xuyên qua một tòa nhà cổ có mặt tiền giống như chị em sinh đôi của mặt tiền Phòng Đăng ký Trung ương. Cũng ba bậc thềm đá đen, cũng cánh cửa cổ xưa ở giữa, cũng năm cửa sổ hẹp phía trên. Ngoài khung cửa hai cánh lớn dọc theo mặt tiền, khác biệt duy nhất có thể nhận ra là tấm bảng bên trên lối vào, cùng kiểu chữ sơn men, ghi Nghĩa trang. Cánh cửa lớn đã đóng nhiều năm trước, khi người ta thấy rõ rằng đi qua đó đã trở nên không thực tế, rằng nó không còn thỏa mãn mục đích được dự tính, đó là tạo một lối đi dễ dàng không những cho người chết và thân bằng quyến thuộc, mà cả cho những ai sẽ đến thăm người chết sau đó. Như mọi nghĩa trang trên cõi trần này hoặc cảnh giới nào khác, lúc khởi đầu nó nhỏ bé, một mảnh đất nhỏ ở vùng ven của một thành phố còn trong trứng nước, hướng ra cánh đồng thoáng đãng, nhưng sau đó, chao ôi, với thời gian trôi qua, điều không thể tránh đã xảy ra, nó cứ lớn dần và lớn dần và lớn dần, đến khi trở thành bãi tha ma khổng lồ ngày nay. Thoạt tiên, nó có một bức tường bao quanh, và sau nhiều thế hệ, mỗi khi áp lực bên trong bắt đầu gây trở ngại cả cho việc thu xếp chỗ một cách có trật tự cho người chết lẫn sự đi lại tự do cho người sống, họ làm giống như Phòng Đăng ký Trung ương, họ sẽ phá các bức tường và xây lại hơi xa hơn. Một hôm, chắc là gần bốn thế kỷ trước, người quản lý nghĩa trang khi ấy có ý kiến để ngỏ mọi phía, trừ mặt hướng ra đường, viện lẽ đây là cách duy nhất để khơi lại mối quan hệ thắm thiết khi đó đã giảm bớt rất nhiều giữa kẻ bên trong và kẻ bên ngoài, như ai cũng có thể thấy chỉ cần nhìn tình trạng bị bỏ bê của các ngôi mộ, nhất là những ngôi mộ cổ nhất. Ông ta tin rằng tuy các bức tường đáp ứng được mục đích tích cực là vệ sinh và lịch thiệp, rốt cuộc chúng gây hậu quả éo le là giúp cho sự xao lãng, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì từ thuở khai thiên lập địa tục ngữ đã nói rằng xa mặt cách lòng. Chúng ta có nhiều lý do để nghĩ rằng động cơ đằng sau quyết định của Trưởng phòng muốn cắt đứt với truyền thống và thói thường để thống nhất hai văn khố của người chết và người sống, do đó tái hội nhập xã hội loài người trong lãnh vực tài liệu đặc thù thuộc phạm vi quyền hạn của ông là việc nội bộ hoàn toàn. Vì thế, chúng ta càng khó hiểu hơn tại sao không ai lập tức áp dụng bài học ngày trước của viên quản lý nghĩa trang khiêm tốn và thô thiển, một người hiển nhiên không được học hành gì nhiều, một điều tự nhiên đối với loại việc của ông và ta hãy nhớ tới thời đại ông sống, nhưng lại là một người có bản năng cách mạng, và rất tiếc phải nói ra rằng thậm chí ông ta không được ai xây cho tấm bia mộ tươm tất để các thế hệ tương lai biết đến. Ngược lại, trong bốn thế kỷ qua, những lời nguyền rủa, sỉ nhục, vu khống và lăng mạ chất đống lên ký ức về nhà cải cách bất hạnh, vì ông bị xem là kẻ chịu trách nhiệm lịch sử cho tình trạng hiện thời của bãi tha ma, mà nó được mô tả là thảm họa và hỗn độn, phần lớn không chỉ vì Nghĩa trang vẫn không có bức tường bao quanh mà vì nó không thể nào xây tường bên ngoài được nữa. Xin cho phép chúng tôi có lời giải thích. Chúng tôi đã nói ở trên rằng nghĩa trang lớn lên, tất nhiên không vì năng lực tái sinh sản nội tại nào của chính nó, như thể, nếu bạn cho phép chúng tôi đưa ra một thí dụ khá rùng rợn, người chết sinh ra thêm người chết, nhưng chỉ vì dân số thành phố gia tăng và do đó tầm vóc của nghĩa trang cũng lớn lên. Ngay cả khi Nghĩa trang vẫn còn các bức tường bao quanh, một số việc đã xảy ra, trong ngôn ngữ của bộ máy quan liêu thành phố gọi là bùng nổ dân số đô thị, và điều này xảy ra nhiều lần và trong nhiều thời đại kế tiếp. Dần dần, người ta đến sống trên các mảnh đất rộng phía sau nghĩa trang, những nhóm nhà nhỏ xuất hiện, làng mạc, thôn xóm, những căn nhà nghỉ hè lần lượt mọc ra, đôi khi kế cận nhau, nhưng vẫn chừa khoảng trống lớn ở giữa để dùng làm đất trồng trọt hay lấy củi hay chăn nuôi hay cho cỏ dại mọc. Đó là những chỗ Nghĩa trang tràn tới khi các bức tường của nó bị phá bỏ. Như nước lụt bắt đầu xâm lấn vùng đất thấp, uốn khúc theo các thung lũng, rồi từ từ bò lên sườn đồi, các ngôi mộ lấn đất như thế thường gây thiệt hại cho nông nghiệp, vì những chủ nhân bị vây bủa không còn cách nào khác hơn là bán quách các dải đất, những lúc khác, các ngôi mộ vòng quanh những vườn cây, các cánh đồng lúa mì, các sân đập lúa và chuồng gia súc, luôn luôn trong tầm mắt căn nhà, và ta có thể nói là thường ngày bên cạnh cửa. Nhìn từ trên không trung, Nghĩa trang trông như một cái cây khổng lồ bị đốn ngã, với khúc thân to ngắn là chỗ tập trung của các ngôi mộ ban đầu, từ đó bốn cành cây vạm vỡ vươn ra, tất cả từ cùng một điểm sinh sôi, nhưng sau đó những nhánh rẽ kế tiếp vươn xa như ta thấy, tạo thành, theo lời của một nhà thơ đa cảm, một vòng lá trong đó sự sống và sự chết hòa lẫn, giống như chim chóc và hoa lá hòa vào nhau trên cây cối. Đó là lý do cánh cửa chính của Nghĩa trang không còn được dùng làm lối đi cho các đám tang. Nó chỉ được mở ra rất thất thường, khi một nhà nghiên cứu đá cổ đã nghiên cứu một trong những bia mộ buổi ban đầu tại đó, xin phép đúc khuôn nó, với các nguyên vật liệu tất nhiên phải triển khai, như thạch cao, sợi bố và dây kẽm, và một món bổ sung không phải hiếm hoi là những tấm ảnh chụp tinh vi, chính xác, loại đòi hỏi đèn pha, màn phản quang, bình điện, dụng cụ đo ánh sáng, ô dù và các vật dụng khác, không thứ nào được phép đi qua cánh cửa nhỏ dẫn từ tòa nhà vào trong nghĩa trang vì nó sẽ quấy rầy công việc hành chính nơi đó.
Mặc dù đã tích lũy thấu đáo hết mọi chi tiết này, mà một số người có thể xem là không quan trọng, giống như, ta hãy dùng cách so sánh thực vật một lần nữa, là trường hợp thấy cây mà không thấy rừng, rất có thể một số người thận trọng lắng nghe chăm chú câu chuyện này, những người chưa đánh mất ý thức về chuẩn mực, một thứ được thừa hưởng từ quá trình tâm linh và được định đoạt trước hết bởi logic đạt được từ tri thức, rất có thể người đang lắng nghe đó sẽ quyết liệt tuyên bố chống lại sự hiện hữu, và còn đang lan tràn thêm, của các nghĩa trang hoang dã vô chính phủ như nơi này, nó đã lớn tới mức vai kề vai với những chỗ người sống đã dự tính dành riêng cho họ, đó là nhà ở, đường sá, quảng trường, vườn tược và những công trình công ích khác, nhà hát và rạp xi nê, quán cà phê và hiệu ăn, bệnh viện, dưỡng trí viện, trạm cảnh sát, vườn chơi, sân thể thao, bãi họp chợ và khu triển lãm, bãi đậu xe, đại thương xá, hiệu buôn nhỏ, đường ngang, ngõ tắt, đại lộ. Vì trong khi biết đến nhu cầu phát triển khôn cưỡng của Nghĩa trang, trong sự cộng sinh với việc phát triển của thành phố và dân số gia tăng, họ cho rằng khu vực dành cho nơi an nghỉ cuối cùng vẫn nên được giữ trong vòng giới hạn chặt chẽ và tuân theo những luật lệ chặt chẽ. Một vòng tường cao hình tứ giác bình thường là quá đủ, không trang trí hay hoa văn kiến trúc lồi lõm hão huyền, thay vì là con bạch tuộc khổng lồ này, nó giống con bạch tuộc hơn cái cây, tuy như thế đau lòng cho những tưởng tượng thơ phú, nó vươn tám, mười sáu, ba mươi hai, sáu mươi bốn cái vòi ra, như để ôm lấy cả thế giới. Trong các quốc gia văn minh, cách thực hành đúng đắn, với những thuận lợi đã được chứng minh qua kinh nghiệm, là để thân xác nằm dưới đất vài năm, thường là năm năm, đến cuối thời hạn đó, ngoài trường hợp hi hữu của những xác không thối rữa một cách thần diệu, những gì ít ỏi còn sót lại sau khi chất vôi gặm mòn và dòi bọ tiêu hóa sẽ được đào lên để lấy chỗ cho người mới tới. Trong các quốc gia văn minh, họ không có cái lệ vô lý là đất chôn vĩnh viễn, cái ý tưởng xem bất cứ ngôi mộ nào cũng mãi mãi không được đụng đến, như thể vì sự sống không thể vĩnh cửu thì sự chết phải được. Điều này dẫn đến những hậu quả hiển nhiên, cánh cửa chốt chặt, hệ thống lưu thông bên trong hỗn loạn, các đám tang phải đi con đường vòng quanh Nghĩa trang ngày càng dài trước khi đến nơi mãi tận cuối của một trong sáu mươi bốn chiếc vòi bạch tuộc, họ sẽ không bao giờ tìm thấy đường nếu không có một người hướng dẫn đi cùng. Tuy vậy, giống như Phòng Đăng ký Trung ương, vì một xao lãng đáng tiếc nào đó, thông tin này không được đưa ra đúng lúc, khẩu hiệu bất thành văn của Nghĩa trang là Mọi Cái Tên, mặc dù đúng ra nên nói rằng ba chữ này vừa khít khao với Phòng Đăng ký Trung ương như đeo găng tay, vì nơi đó người ta tìm thấy mọi cái tên, cả tên người chết lẫn tên người sống, trong khi nghĩa trang với vai trò là chốn đến cuối cùng và nơi cất giữ cuối cùng phải đành chấp nhận chỉ có tên của người chết. Tuy nhiên, chứng cứ chính xác này không đủ để làm im tiếng những người quản lý Nghĩa trang, phải đối diện với điều họ gọi là sự thua kém hiển nhiên về số lượng của mình, họ luôn nhún vai và cãi, Với thời gian và nhẫn nại mọi người rồi sẽ kết thúc ở đây, theo quan điểm này Phòng Đăng ký Trung ương chỉ là một nhánh của Nghĩa trang. Không cần phải nói, đối với Phòng Đăng ký Trung ương gọi nó là một nhánh là một điều sỉ nhục. Mặc dù sự kình địch này, sự cạnh tranh nghề nghiệp này, mối liên hệ giữa những người làm ở Phòng Đăng ký Trung ương và những người làm ở Nghĩa trang là thân thiện cởi mở và hoàn toàn tương kính lẫn nhau, vì rốt ráo ra, ngoài mối cộng tác nghề nghiệp không thể tránh khỏi giữa họ, với nét giống nhau về hình thức và sự gần gũi về nội dung trong các quy chế riêng của họ, họ biết rằng họ đang sống dựa vào hai đầu của cùng một cây nho, cây nho tên gọi cuộc đời và nằm giữa hai khoảng hư không.
Đây không phải là lần đầu tiên Senhor José đến Nghĩa trang. Việc hành chính đòi hỏi kiểm tra một vài số liệu, làm sáng tỏ những dị biệt, so sánh các sự kiện, xóa bỏ những khác biệt, khiến những người làm việc trong Phòng Đăng ký Trung ương phải đến Nghĩa trang tương đối thường xuyên, một công việc gần như luôn luôn rơi vào các viên thư ký, khó bao giờ đến tay các thư ký thâm niên, và có cần phải nói là không bao giờ tới các phó phòng hay Trưởng phòng. Đôi khi, vì những lý do tương tự, các thư ký, rất hiếm khi có các cấp trên, từ Nghĩa trang đến Phòng Đăng ký Trung ương, ở đó họ được tiếp đãi thân mật như Senhor José sẽ được đón tiếp nơi đây. Tương tự như mặt tiền, bên trong tòa nhà là bản sao đúng y của Phòng Đăng ký Trung ương, mặc dù tất nhiên ta phải lưu ý rằng những người làm việc ở Nghĩa trang luôn luôn nói rằng Phòng Đăng ký Trung ương là bản sao đúng y của tòa nhà Nghĩa trang, thật ra là một bản sao không đầy đủ, vì nó thiếu cánh cửa lớn, để đáp lại những người ở Phòng Đăng ký Trung ương trả lời rằng đó chỉ là cánh cửa to đùng vô tích sự, vì nó lúc nào cũng đóng. Tuy vậy, ở đây chúng ta cũng thấy cái quầy dài kéo suốt chiều ngang căn phòng khổng lồ, cũng những ngăn kệ cao ngất, cũng cách xếp đặt nhân viên thành một hình tam giác với tám thư ký ở dãy đầu, bốn thư ký thâm niên phía sau họ, rồi hai viên phụ tá quản lý, vì đó là cách họ gọi ở đây, chứ không phải phó phòng, cũng như người quản lý ngồi ở đỉnh không phải là trưởng phòng, mà là người quản lý. Tuy nhiên, nghĩa trang còn có các nhân viên khác ngoài các viên thư ký. Ngồi trên hai băng ghế nối dài ở hai bên cửa ra vào, đối diện với cái quầy, là các hướng dẫn viên. Một số người cứ lỗ mãng gọi họ là phu đào huyệt như thời xưa, nhưng chức vụ nghề nghiệp của họ ghi trong công báo thành phố là hướng dẫn viên nghĩa trang, trái với điều ta có thể nghĩ hay tưởng tượng, nó không chỉ là một uyển ngữ với hảo ý nhằm che giấu hành động hung bạo đau đớn của cái xẻng đào một lỗ hình chữ nhật trên mặt đất, mà đúng hơn nó mô tả chính xác một vai trò không chỉ là vấn đề hạ người chết xuống huyệt sâu, mà cả việc dẫn dắt họ trên mặt đất. Những người này làm việc từng cặp, im lặng đợi đám tang đến, rồi tay cầm giấy phép đã được viên thư ký phụ trách vụ việc điền vào, họ lên một trong những chiếc xe đang đợi nơi bãi đậu xe, những chiếc có đèn hiệu tỏa sáng nhấp nháy phía sau và nói Theo tôi, giống như những chiếc xe dùng ở phi trường, ít nhất viên quản lý Nghĩa trang rất đúng về mặt này, khi ông nói rằng họ tiến bộ hơn trong những vấn đề kỹ thuật hiện đại so với Phòng Đăng ký Trung ương, nơi mà truyền thống vẫn còn buộc các viên thư ký dùng quản bút và lọ mực lỗi thời. Khi thấy chiếc xe tang và những người bên trong ngoan ngoãn theo sau các hướng dẫn viên trên những con đường được chăm sóc cẩn thận của thành phố và trên các con lộ gồ ghề ở ngoại ô, với ánh đèn nhấp nháy suốt quãng đường tới mộ, Theo tôi, ta không thể không đồng ý rằng không phải mọi thay đổi trên thế giới đều dở. Và mặc dù tiểu tiết có thể không quan trọng gì cho việc hiểu tổng thể câu chuyện, nhưng cũng đáng để giải thích một đặc điểm nhân cách rõ rệt của các hướng dẫn viên này là họ tin rằng vũ trụ quả thật được điều khiển bởi một quá trình tư duy ưu việt thường xuyên lưu tâm tới những nhu cầu của nhân loại, vì họ cãi, nếu không như thế xe cộ đã không được phát minh ra đúng vào thời điểm mà người ta cần chúng nhất, đó là khi Nghĩa trang đã trở nên mênh mông đến nỗi đúng là một cực hình nếu phải mang người chết tới đồi Golgotha của họ bằng những phương pháp truyền thống6, là dùng gậy và dây thừng hay một chiếc xe hai bánh. Khi người ta nhắc khéo họ nên cẩn thận hơn trong cách dùng chữ, vì Golgotha và calvary nguyên thủy có cùng một nghĩa, và chẳng có nghĩa lý gì khi dùng những thuật ngữ biểu thị sự đau đớn và buồn khổ để chỉ việc chuyên chở một người không còn bao giờ đau khổ nữa, ta có thể bảo đảm rằng họ sẽ khiếm nhã trả lời là ai tự biết người ấy, nhưng chỉ có Thượng đế biết tất cả mọi người.
6 Nguyên văn: “it would be a real calvary to bear the deceased to his or her particular Golgotha by the traditional methods”. Chữ calvary nghĩa là cực hình, và cũng là Golgotha, tiếng Hebrew, chỉ ngọn đồi bên ngoài thành Jerusalem thời xưa, nơi Jesus bị đóng đinh.
Senhor José đi vào và tiến thẳng đến quầy, ném một cái nhìn lạnh lùng lên bọn hướng dẫn viên đang ngồi, anh không ưa họ vì sự hiện diện của họ làm nghiêng cán cân số lượng nhân viên về phía Nghĩa trang. Vì các nhân viên ở đó biết anh, anh không cần trình thẻ chứng minh anh là nhân viên Phòng Đăng ký Trung ương, còn tờ thư ủy nhiệm lừng danh anh không mảy may nghĩ đến việc mang nó theo, vả lại, ngay cả một viên thư ký ít kinh nghiệm nhất chỉ liếc mắt qua là thấy nó giả mạo từ đầu đến cuối. Đối với tám viên thư ký xếp hàng sau quầy, Senhor José chọn người mà anh hợp ý nhất, một ông hơi lớn tuổi hơn anh, có dáng vẻ miệt mài của một người không còn trông đợi gì nữa từ cuộc đời. Giống như các viên thư ký kia, ông ta có vẻ như ở đó quanh năm suốt tháng. Hồi đầu, Senhor José nghĩ rằng những người làm việc ở nghĩa trang không bao giờ nghỉ ngày nào hay nghỉ lễ, họ làm việc quanh năm, đến khi có người bảo anh rằng không phải như vậy mà có một nhóm nhân viên ngoài biên chế làm hợp đồng ngày Chủ nhật, mình đâu còn sống ở thời nô lệ nữa đâu Senhor José. Không cần phải nói, các thư ký ở Nghĩa trang từ lâu đã hy vọng rằng những nhân viên ngoài biên chế nói trên có thể làm luôn chiều thứ Bảy, nhưng vì những lý do ngân sách và tài chính, yêu cầu đó chưa được đáp ứng, và thật là vô ích nếu nhân viên nghĩa trang viện dẫn thí dụ nhân viên Phòng Đăng ký Trung ương chỉ làm việc sáng thứ Bảy, vì theo bản thông cáo thần bí từ trên ban hành xuống từ chối yêu cầu của họ, Người sống có thể đợi, nhưng người chết thì không. Dù thế nào đi nữa, người ta chưa bao giờ nghe nói có một nhân viên Phòng Đăng ký Trung ương xuất hiện ở đó vì lý do công việc vào chiều thứ Bảy, lúc mọi người nghĩ rằng anh ta đang vui hưởng thời gian nhàn rỗi mỗi tuần với gia đình, làm một chuyến đi về thôn quê, hay bận rộn vì những việc nhà đang chờ đợi đến khi anh có một chút thời giờ rảnh, hay chỉ là vô công rồi nghề, hoặc thậm chí đang tự hỏi có thời giờ rảnh rỗi để làm gì nếu chúng ta không biết làm gì với nó. Để tránh bất cứ câu hỏi rầy rà nào có thể dễ dàng gây lúng túng, Senhor José khéo léo chặn trước lòng tò mò của người kia, đưa ra lý do anh đã chuẩn bị, Đây là trường hợp đặc biệt, rất khẩn, phó phòng của tôi cần thông tin này ngay sáng sớm thứ Hai, vì vậy ông ấy yêu cầu tôi đến Nghĩa trang hôm nay, trong giờ nghỉ của tôi, À ra thế, vậy anh cho tôi biết chuyện gì, Đơn giản thôi, chúng tôi chỉ muốn biết người phụ nữ này được chôn cất hồi nào. Người đàn ông cầm tấm phiếu Senhor José đưa cho ông, ghi lại tên và ngày chết trên một mảnh giấy, rồi đi hội ý với viên thư ký thâm niên liên hệ. Senhor José không nghe được họ nói gì, nơi đây cũng như tại Phòng Đăng ký Trung ương, ta chỉ có thể nói thấp giọng, và họ cũng cách anh khá xa, nhưng anh thấy viên thư ký thâm niên gật đầu, và xét đoán theo môi ông ta, anh đoán chắc ông ta đã nói, Được, cứ làm. Người đàn ông đi tra bộ phiếu danh mục dưới quầy, nơi cất tất cả các tấm phiếu của những người đã chết năm mươi năm qua, những phiếu khác chất đầy các hàng kệ cao kéo dài vào bên trong tòa nhà, ông ta mở một ngăn kéo, tìm tấm phiếu của người phụ nữ, ghi ngày được hỏi xuống và quay lại nơi Senhor José đang đứng, ông nói, Đây này, và nói thêm, như thể ông nghĩ thông tin này có thể hữu ích, Cô ta trong khu những người tự tử. Senhor José bỗng cảm thấy nhói trong lõm thượng vị, mà theo một bài viết anh đã có lần đọc trên tạp chí khoa học phổ thông, đó là khoảng chỗ ngôi sao nhiều cánh của hệ thần kinh, chỗ gặp nhau tỏa ra gọi là cụm thần kinh bụng, tuy nhiên, anh cố giấu nỗi ngạc nhiên của mình sau chiếc mặt nạ lãnh đạm máy móc, dĩ nhiên nguyên nhân của cái chết có ghi trên tờ khai tử bị thất lạc mà anh chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng là một thư ký trong Phòng Đăng ký Trung ương, nhất là đến Nghĩa trang vì công việc như anh, anh không thể để lộ ra rằng anh không biết. Anh gấp mảnh giấy lại rất cẩn thận và cất vào ví rồi cảm ơn viên thư ký, không quên nói thêm, như một viên chức đối với một viên chức khác, mặc dù đơn thuần chỉ là cách nói, vì cả hai đều là thư ký quèn, rằng anh luôn luôn sẵn sàng phục vụ ông ta trong quyền hạn của anh nếu ông ta cần gì ở Phòng Đăng ký Trung ương. Khi đã đi hai bước ra hướng cửa, anh quay lại, Nhân thể đang ở đây, tôi chợt có ý sẽ tản bộ chiều nay trong nghĩa trang, nếu ông có thể cho tôi băng qua chỗ này thì tôi không phải đi vòng xa, Đợi đây, để tôi đi hỏi, viên thư ký nói. Ông ta mang lời yêu cầu đến viên thư ký thâm niên mà ông vừa nói chuyện trước đó, nhưng thay vì trả lời, ông này đứng lên và đi tới viên phụ tá quản lý phụ trách phần vụ của ông. Tuy lần này ông ta còn ở cách xa hơn, Senhor José có thể thấy cái gật đầu của viên phụ tá quản lý và cử động đôi môi của ông ta cho biết anh sẽ được phép dùng cánh cửa bên trong. Viên thư ký không trở lại quầy ngay, trước tiên ông mở tủ lấy một tấm bìa lớn rồi ông đặt dưới nắp một bộ máy có những bóng đèn màu nhỏ. Ông ấn một nút, có tiếng máy kêu, nhiều ngọn đèn sáng lên, và khi ấy một mẩu giấy nhỏ chạy ra cái khe bên hông. Viên thư ký cất tấm bìa vào tủ rồi quay lại quầy, Anh nên mang theo bản đồ, đã có nhiều vụ người ta bị lạc, và tìm lại họ khó không thế tưởng, các hướng dẫn viên phải đi xe ra tìm họ khiến cho công việc bị đình trệ, trong khi các đám tang dồn ứ bên ngoài, Người ta dễ phát hoảng, họ chỉ cần đi thẳng một hướng thì sẽ đến một chỗ nào đó, dạo này văn khố của người chết ở Phòng Đăng ký Trung ương thật phức tạp vì không có đường thẳng, Trên lý thuyết ông nói đúng, nhưng đường thẳng ở đây giống như đường thẳng trong hành lang mê hồn trận, chúng liên tục gãy góc, đổi hướng, ông bước vòng một ngôi mộ rồi bỗng nhiên ông không biết mình đang ở đâu, Trong Phòng Đăng ký Trung ương, chúng tôi dùng sợi chỉ Ariadne, chưa bao giờ thất bại, Có dạo chúng tôi cũng dùng nó, nhưng không được lâu, nhiều khi sợi chỉ bị cắt và không tìm ra thủ phạm là ai hay tại sao họ cắt, Chắc chắn không phải là người chết, dứt khoát như vậy, Ai mà biết, Những người bị lạc là những người không có sáng kiến, đáng lẽ họ có thể tự định hướng bằng mặt trời, Có thể một số người cũng dùng mặt trời nếu họ không xui xẻo bị lạc vào một ngày u ám, Ở Phòng Đăng ký Trung ương chúng tôi không có cái máy đó, Chúng tôi thấy nó rất hữu ích. Cuộc đối thoại không thể kéo dài thêm nữa, viên thư ký thâm niên đã nhìn họ hai lần, và lần thứ nhì ông ta nhăn mặt, Senhor José là người thấp giọng nhận xét, Ông thư ký thâm niên đã nhìn mình hai lần, tôi không muốn ông gặp rắc rối vì tôi, Tôi sẽ chỉ cho ông chỗ chôn người phụ nữ, thấy cuối con đường này không, đường gợn sóng ở đây là dòng suối, đến nay vẫn còn dùng làm đường ranh giới, ngôi mộ trong góc đó, ông có thể nhận ra nó bằng số, Và bằng tên, Vâng, nếu có ai đề tên ở đó, nhưng con số mới đáng kể, tên không vừa vào bản đồ, nếu ghi tên ông sẽ cần tấm bản đồ to cỡ thế giới, Tỉ lệ một trên một, ừ, tỉ lệ một trên một, và dù vậy tên sẽ phải viết chồng lên nhau, Bản đồ này cập nhật chứ, Chúng tôi cập nhật nó mỗi ngày, À, sao ông nghĩ là tôi muốn thấy ngôi mộ của người phụ nữ, Chẳng có lý do gì, có lẽ vì nếu ở địa vị của ông thì tôi cũng làm vậy, Vì sao, Cho đích xác thôi, Là cô ta chết, Không, cho đích xác là cô ta đã sống. Viên thư ký thâm niên nhìn họ lần thứ ba, làm một cử động như thể ông ta sắp đứng lên, nhưng rồi thôi, Senhor José vội vàng chào từ giã người thư ký, Cảm ơn ông, cảm ơn ông, anh nói, đồng thời anh khẽ gật đầu về hướng ông quản lý nghĩa trang, một người mà ta nên luôn luôn cúi chào, như ta cảm ơn thiên đường, ngay cả khi nó bị mây che, với một điểm khác biệt quan trọng là khi cảm ơn thiên đường ta không cúi thấp đầu mà ngẩng đầu lên.
Khu đất cổ nhất của Nghĩa trang, nằm cách phía sau tòa nhà hành chính vài chục mét, là khu được các nhà khảo cổ thích nghiên cứu. Những phiến đá cổ, một số bị mòn nhẵn vì thời gian đến nỗi ta chỉ thấy được vài vết mờ có thể dễ dàng nhận ra là những chữ còn lại từ các nét nguệch ngoạc của một cây đục không khéo, vẫn tiếp tục là đối tượng tranh cãi và bút chiến gay gắt, mà trong đa số trường hợp không hy vọng gì biết ai đã được chôn bên dưới, các nhà khảo cổ chỉ thảo luận ngày tháng khả dĩ của các ngôi mộ, như thể nó là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Những sai biệt không đáng kể vài trăm năm chỗ này chỗ nọ đã là động cơ cho những cuộc tranh cãi dài dài, cả trong công chúng lẫn giới hàn lâm, hầu như luôn dẫn đến đổ vỡ thô bạo trong mối liên hệ cá nhân và thậm chí biến thành mối thù chí tử. Sự việc còn tệ hại hơn, nếu có thể tệ hơn, khi các sử gia và các nhà phê bình nghệ thuật quyết định chõ mũi vào, vì trong nhiều trường hợp, trong khi ủy ban các nhà khảo cổ tương đối dễ đạt đến thỏa thuận về một khái niệm rộng rãi về tính cổ xưa khả dĩ chấp nhận được cho mọi người, bỏ ra ngoài những niên đại thực, thì vấn đề sự thật và vẻ đẹp đã tạo ra cảnh kéo co giữa các ông và các bà chuyên về thẩm mỹ và lịch sử, mỗi bên kéo về phía mình, và không phải là hiếm thấy một nhà phê bình bỗng nhiên đổi ý chỉ vì ý kiến thay đổi của một nhà phê bình khác làm cho cả hai bây giờ đều đồng ý. Qua nhiều thế kỷ, vẻ yên bình khôn tả của Nghĩa trang, với những hàng cây tự phát, bông hoa, cây leo, bụi rậm, vòng lá và tràng hoa, cây gai và bụi dại, cây cổ thụ cường tráng lan rễ xô ngã các bia mộ và đẩy lên ánh mặt trời một vài khúc xương hoảng hốt, vừa là mục tiêu vừa là chứng nhân của các cuộc đấu khẩu dữ dội và của một hai vụ bạo động. Mỗi khi các biến cố loại này xảy ra, trước tiên viên quản lý sẽ ra lệnh cho các hướng dẫn viên có mặt tách rời các đối thủ lừng lẫy ra, và khi một tình huống khó khăn đặc biệt nào đó nổi lên, ông sẽ đích thân ra tới nơi để mỉa mai nhắc nhở các kẻ kình địch rằng không có lý gì để vò đầu bứt tóc vì những vấn đề nhỏ nhặt như thế trong cuộc đời họ, vì chẳng sớm thì muộn họ sẽ cùng kết thúc tại nghĩa trang trọc lóc như sư cụ. Cũng giống như Trưởng phòng, viên quản lý Nghĩa trang rất có tài mỉa mai, do đó xác nhận giả thuyết chung là cá tính tiêu biểu này không thể thiếu trong quá trình leo lên cấp cao của họ, dĩ nhiên là với kiến thức thành thạo về kỹ thuật văn khố, cả về thực tế lẫn lý thuyết. Tuy nhiên, các sử gia, nhà phê bình nghệ thuật và nhà khảo cổ đều đồng ý trên một vấn đề, một sự kiện hiển nhiên rằng Nghĩa trang là bảng danh mục hoàn hảo, một phòng trưng bày, một bản tóm tắt của mọi phong cách, nhất là về kiến trúc, điêu khắc và trang trí, và vì thế là một bản kiểm kê mọi cách nhìn, cách ở và cách sống đã có từ xưa tới nay, từ hình vẽ nguệch ngoạc đầu tiên đường nét bên ngoài của thân thể con người, sau đó được khắc và chạm lên đá thô, cho tới thép mạ kền, bảng phản chiếu, sợi tổng hợp và gương soi đang được dùng hầm bà lằng trong thời đại gần đây.
Các đài lễ tang đầu tiên là những bàn mộ đá, vòng mộ đá và cột mộ đá thời tiền sử, sau đó, như một trang phù điêu để trống khổng lồ, xuất hiện những hốc tượng, án thờ, hòm thánh, bát đá hoa cương, quách cẩm thạch, bia đá láng và chạm trổ, các cột trụ kiểu Dorian, Ionian, Corinthian và kiểu hỗn hợp, cột tượng người nữ, trụ ngạch, lá ô rô trang trí, mũ cột và trán tường, vòm giả, vòm thật, cũng như những vách tường gạch kéo dài, đầu hồi của bức tường kiểu Cyclopean, cửa sổ nhọn đầu, cửa sổ tròn hoa hồng, miệng máng xối, cửa sổ lồi tầng trên, hốc gờ mái, tháp nhọn, đá lát sàn, giàn chống, cột chống, trụ bổ tường, tượng người đàn ông nằm nghiêng đội mũ sắt, cầm gươm và mặc áo giáp, đầu cột có và không có trang trí, quả lựu, hoa huệ, cúc trường sinh, gác chuông, vòm bát úp, tượng người đàn bà nằm nghiêng có bầu vú nhỏ cứng, tranh, vòm, con chó trung thành đang nằm, đứa trẻ quấn tã, người bưng phẩm vật, người khóc đội khăn, cột tháp, đường gờ, cửa sổ kính mờ, bệ đài, bục giảng, ban công, lại thêm tháp nhọn, thêm hốc gờ mái, thêm đầu cột, thêm vòm, thiên thần xoải cánh, thiên thần xếp cánh, tranh hình tròn, bình đựng cốt rỗng, hay bình đựng cốt đầy lửa giả bằng đá hay có một miếng băng tang bơ phờ quấn xung quanh, sầu khổ, nước mắt, đàn ông uy nghi, đàn bà tráng lệ, trẻ con xinh đẹp vẻ hoa đời, đàn ông già nua và đàn bà già nua chán chường, cây thánh giá nguyên và cây thánh giá gẫy, bậc thềm, đinh, vòng gai, cây giáo, hình tam giác bí ẩn, bồ câu cẩm thạch lạ khác thường, hàng đàn bồ câu thật bay lượn trên nghĩa trang. Và im lặng. Một sự im lặng chỉ đôi lúc bị phá vỡ vì những bước chân của kẻ yêu cô đơn thỉnh thoảng thở dài bị lôi cuốn đến đây vì nỗi buồn bất chợt từ vùng ven biển xào xạc, nơi ta có thể vẫn nghe tiếng khóc bên một ngôi mộ mà họ đã đặt những bó hoa tươi còn đẫm nhựa sống, có thể nói là làm nhức nhối con tim thời gian, ba ngàn năm mộ chí đủ hình dáng, đủ ý nghĩa và diện mạo, hợp nhất trong cùng một sự lãng quên, cùng một niềm cô đơn, vì nỗi buồn đã từng có lần dành cho họ, nay đã quá cũ đối với bất cứ kẻ thừa kế còn sống sót nào. Tự định hướng bằng bản đồ, tuy đôi lúc anh ước gì có một chiếc la bàn, Senhor José bước tới khu dành riêng cho những người tự tử, nơi chôn người phụ nữ có tên trên tấm phiếu, nhưng bước chân anh lúc này chậm hơn, ít thôi thúc hơn, thỉnh thoảng anh dừng lại ngắm một chi tiết điêu khắc bị vấy bẩn vì nấm hay bạc màu vì mưa, một vài người xót xa than khóc, vài nét lắng đọng trang nghiêm, vài nếp áo thầy tu, hay anh cố giải đoán một câu viết mà nét chữ tình cờ lôi cuốn anh, ta có thể hiểu được rằng ngay dòng đầu tiên cũng khiến anh rất lâu mới giải đoán được, vì tuy đôi lúc đã phải khảo sát các bản viết cổ vào khoảng cùng thời kỳ với những câu này trong Phòng Đăng ký Trung ương, viên thư ký này không thông thạo các dạng chữ viết cổ, đó là lý do anh không bao giờ lên cao hơn bậc thư ký. Trên đỉnh một gò đất tròn nhỏ, trong bóng râm của một cột tưởng niệm có thời là cột mốc đo đạc, Senhor José nhìn ra xa quanh mình, và anh không thấy gì ngoài những nấm mồ nhấp nhô theo đường cong của khu đất, các ngôi mộ lơ lửng trên mép dốc đứng đó đây rồi trải rộng ra trên các khu đất phẳng, anh lẩm bẩm, Có đến hàng triệu ngôi mộ, rồi anh nghĩ về khoảng đất bao la có thể tiết kiệm nếu người chết được chôn đứng, sát cạnh nhau, khít hàng, như quân lính đứng nghiêm, và dấu hiệu duy nhất về sự hiện diện của họ nơi đó là trên đầu họ đặt một khối đá vuông ghi các sự kiện chính về cuộc đời của người quá cố trên cả năm mặt, năm mặt đá vuông như năm trang giấy, tóm tắt cả một cuốn sách đã từng chứng tỏ là bất khả viết ra. Xa như đến tận chân trời, xa, xa vào khoảng không, Senhor José thấy những ngọn đèn đang di chuyển chậm chạp, như tia chớp vàng, nhấp nháy bật tắt đều đặn, đó là những chiếc xe của hướng dẫn viên gọi những người phía sau, Theo tôi, Theo tôi, một chiếc bỗng dừng lại, ngọn đèn biến mất, nghĩa là nó đã đến nơi. Senhor José nhìn lên mặt trời, rồi nhìn đồng hồ của mình, ngày đã muộn, anh sẽ phải bước nhanh nếu muốn đến chỗ người phụ nữ vô danh trước hoàng hôn. Anh tham khảo tấm bản đồ, dò ngón tay trỏ trên nó để tái dựng một cách phỏng chừng con đường anh đã đi từ tòa nhà hành chính tới chỗ anh đang đứng, so sánh nó với khoảng cách còn phải đi, và hầu như nản chí. Đường thẳng theo tỉ lệ là khoảng ba dặm, nhưng như chúng ta đã nói, trong Nghĩa trang đường thẳng liên tục không bao giờ kéo dài, ba dặm đường chim bay đó phải cộng thêm hai hay có thể ba dặm nữa khi đi trên mặt đất. Senhor José tính toán số thời gian còn lại và sức lực còn trên đôi chân mình, anh nghe một tiếng nói thận trọng bảo anh hãy để hôm khác, khi anh có nhiều thời giờ hơn để viếng mộ của người phụ nữ vô danh, vì bây giờ anh biết nàng ở đâu, bất cứ chiếc taxi hay xe buýt nào cũng có thể chạy bọc vòng ngoài nghĩa trang để thả anh xuống gần địa điểm hơn, như các gia đình vẫn làm khi họ đến than khóc bên người thương và cắm hoa mới vào lọ hay thay nước, nhất là vào mùa hè. Senhor José vẫn cân nhắc vấn đề rắc rối này khi anh nhớ vụ mạo hiểm ở trường học, đêm mưa tầm tã, mái bao lơn dốc đứng như triền núi trơn trợt, và khi ấy ướt sũng từ đầu đến chân, đầu gối anh bị xước và cạ đau đớn vào quần, cuộc tìm kiếm nôn nóng của anh bên trong tòa nhà, rồi nhờ kiên trì và khôn khéo, anh đã xoay xở chiến thắng nỗi sợ hãi của chính mình và vượt qua muôn vàn khó khăn ngăn lối, đến khi anh khám phá ra và rốt cuộc vào được tầng gác bí ẩn sát mái nhà, đương đầu với một bóng tối còn đáng sợ hơn trong văn khố của người chết. Bất cứ ai đã đủ can đảm để làm tất cả những việc đó sẽ không có quyền cảm thấy nản lòng vì ý nghĩ phải đi bộ, dù xa đến mấy, nhất là khi đi dưới ánh rực rỡ thẳng thắn của mặt trời tươi sáng, người bạn của những đấng anh hùng, như chúng ta đều biết. Nếu bóng hoàng hôn đến trước khi anh tới nấm mồ của người phụ nữ vô danh, nếu đêm đến cắt mọi lối về, gieo rắc nỗi kinh hoàng vô hình và ngăn anh đi xa hơn, anh có thể nằm xuống trên một trong những phiến đá rêu phong này, với một thiên thần đá buồn bã canh chừng giấc ngủ của anh, rồi đợi một ngày mới ra đời. Hoặc anh có thể trú dưới một giàn chống như cái giàn đằng kia, Senhor José nghĩ, nhưng rồi anh chợt biết rằng mình sẽ không tìm thấy giàn chống nào xa hơn chỗ này. Nhờ các thế hệ chưa ra đời và sự phát triển tất yếu của kỹ thuật xây cất, chẳng mấy chốc người ta sẽ phát minh ra những cách ít tốn kém hơn để chống đỡ một bức tường, thật vậy, Nghĩa trang là nơi trưng bày những kết quả của tiến bộ trước con mắt của các nhà nghiên cứu hay những người chỉ tò mò, thậm chí có kẻ nói nghĩa trang kiểu này là một loại thư viện không chứa sách mà là chứa người, thật ra đâu có sao, ta có thể học rất nhiều từ người cũng như từ sách vở. Senhor José ngoái nhìn lại, từ nơi anh đứng anh chỉ thấy chóp mái của tòa nhà hành chính trên những đài tang lễ cao, anh lẩm bẩm, Mình đâu ngờ là đã tới chỗ này, và nói câu đó như thể để đi tới một quyết định, anh chỉ cần nghe tiếng nói của chính mình, một lần nữa anh lại tiếp tục con đường của anh.
Cuối cùng anh đến khu dành cho những người tự tử, bầu trời đã rắc những đám tro trắng tĩnh mịch của hoàng hôn, anh nghĩ chắc mình đã đi nhầm đường hay tấm bản đồ có gì sai. Trước mặt anh là dải đất bao la, cây cối rậm rạp, gần như khu rừng, các nấm mồ giống như những búi cây cỏ thiên nhiên, ngoại trừ các bia mộ lẩn khuất. Từ nơi đó ta không thể thấy dòng suối, nhưng có thể nghe tiếng rì rào rất nhỏ trượt trên những phiến đá, và trong bầu khí quyển giống như tấm kính xanh, hơi mát bay lơ lửng khác với khí mát thông thường vào lúc đầu giờ hoàng hôn. Vì mới chôn, chỉ vài ngày qua, nấm mộ của người phụ nữ vô danh phải nằm trên mép ngoài khu đất, vấn đề là hướng nào. Senhor José nghĩ để khỏi bị lạc, tốt nhất là đi tới dòng suối nhỏ rồi khi ấy men theo bờ tới khi tìm thấy những ngôi mộ mới nhất. Bóng cây lập tức phủ lên anh, như thể đêm đã xuống bất chợt. Mình không nên sợ hãi, Senhor José lẩm bẩm, giữa sự im lặng này, giữa những nấm mồ này, với cây cối bao quanh, thay vào đó mình cảm thấy điềm tĩnh như đang ở nhà, ngoại trừ chân đau vì đi bộ quá nhiều, dòng suối đây rồi, nếu sợ, mình có thể rời nơi đây ngay giây phút này, mình chỉ cần băng qua dòng suối, mình chỉ phải cởi giầy vớ và xắn ống quần lên, đeo giầy quanh cổ rồi lội qua, nước chưa tới đầu gối, chẳng mấy chốc mình sẽ trở về lại với vùng đất của người sống, với những ngọn đèn phía đó vừa mới bật lên. Nửa giờ sau, Senhor José tới cuối khu đất, mặt trăng gần rằm, hầu như tròn hẳn, vừa lên khỏi chân trời. Những nấm mồ nơi đây chưa khắc bia cũng chưa có bất cứ trang trí điêu khắc nào, chúng được nhận ra chỉ nhờ những con số trắng sơn trên tấm nhãn đen gắn ở đầu mộ, như những con bướm đang bay lượn. Ánh trăng trải dần trên khu đất, từ từ xuyên qua cây lá như một bóng ma quen thuộc và nhân từ. Trong khoảng đất trống, Senhor José tìm thấy nấm mồ anh đang tìm. Anh không lấy trong túi ra mẩu giấy viên thư ký nghĩa trang đã đưa anh, anh đã không cố nhớ con số, nhưng anh biết nó khi anh cần đến, và bây giờ nó ở ngay trước mặt anh, sáng rực rỡ, như thể được viết bằng sơn lân quang. Cô ấy đây rồi, anh nói.