"Ngày mai tan học cậu qua nhà tớ nhé," Howard hẹn tôi trên xe buýt sáng hôm sau. "Tớ có kế hoạch rồi."
"Kế hoạch gì cơ?" tôi tò mò. "Kế hoạch để bắt con chó đó."
"Xương Chạc," tôi vặc lại. "Tên nó là Xương Chạc." Howard cắn một miếng bánh mì nướng nó đem theo. "Sao cũng được," nó đáp. "Tụi mình cần có một kế hoạch cẩn thận hơn cái bản đồ đó."
"Tớ không hiểu sao tụi mình không thể…" tôi ngồi thẳng dậy và túm lấy đầu gối của Howard. "Đừng cử động," tôi nói.
Nó tròn xoe mắt. "Sao vậy?"
"Cậu cởi kính ra," tôi nói. "Thật chậm rãi nhé." "Tại sao?"
"Cậu cứ làm vậy đi," tôi hơi to tiếng ngắt lời nó dù không cố tình.
Nó cởi kính rồi nheo mắt nhìn tôi.
"Có một sợi lông mi ở ngay đó kìa," tôi chỉ vào một bên mắt kính dày cộm của nó. "Tớ cần sợi lông mi đó."
"Tại sao?" "Để ước." "Ước á?"
"Nếu cậu thổi sợi lông mi, cậu có thể ước một điều." Tôi lấy cặp kính trên tay nó và dí ngón tay vào mắt kính. Tôi giơ cao mắt kính lên để Howard nhìn thấy sợi lông mi màu đỏ bé xíu. "Cậu thấy chưa?" tôi nói.
Sau đó tôi nhắm mắt, thầm ước, rồi thổi phù một cái để sợi lông mi đó biến mất vào không trung. Có lẽ nó sẽ hạ cánh xuống sàn xe buýt cùng với đống bụi bẩn, bã kẹo và những bài kiểm tra đánh vần bị lũ nhóc trên xe giày xéo.
"Cậu vừa ước gì thế?" Howard tò mò.
"Tớ không kể cho cậu được," tôi đáp. "Sao lại không chứ?"
Tôi ngả người vào lưng ghế và đảo mắt. "Trời ạ, Howard," tôi ca cẩm.
“Gì?”
Tôi giải thích rằng nếu bạn tiết lộ điều ước của mình cho người khác, thì điều ước sẽ không bao giờ thành sự thật được nữa. “Cả thế giới đều biết điều đó mà,” tôi nói.
Howard lấy vạt áo phông lau kính rồi lại đeo lên. “Từ hồi lớp bốn, ngày nào tớ cũng ước.” tôi nói. Howard trố mắt nhìn tôi. “Chắc cậu muốn có nhiều thứ lắm nhỉ.”
Tôi lắc đầu. “Không, chỉ một thứ thôi,” tôi đáp. “Ngày nào tớ cũng chỉ ước đúng một điều.”
Tôi biết mình đã lỡ lời ngay khi thốt ra câu đó. Tôi biết chắc chắn tiếp theo nó sẽ nói gì, và nó đã nói vậy thật.
“Ờm, nếu cậu ước đi ước lại một điều, thì chắc chắn nó không thành hiện thực được đâu,” nó nói. “Thế thì ước để làm gì? Tớ thấy việc đó thật ngớ ngẩn.”
Tôi thấy mặt mình đỏ bừng, và cảm xúc giận dữ quen thuộc lại bắt đầu sục sôi trong ruột. “Vì chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ trở thành hiện thực!”. Tôi hét lớn nên bị mấy đứa hàng trên quay đầu lại nhìn chòng chọc.
Howard nhìn tôi qua cặp kính dày cộp và nói, “Dứa.” Tôi đá mạnh vào ba lô của nó, khiến chiếc ba lô bay ra tận giữa lối đi. Thú thực là tôi đã hơi hối hận một xíu khi thấy những đứa nhóc khác cười hệnh hệch vì cái ba lô đó. Nhưng thằng Howard chỉ nhặt cái ba lô lên, rồi phủi bụi trên đó và nói, “Dứa, Charlie. Cậu nhớ chứ?”.
Tôi tiếp tục giận nó cả buổi sáng hôm đó, và tôi lúc nào cũng chực lườm nó mỗi khi có cơ hội, hoặc cố tình va vào người nó thật mạnh khi đang cầm gọt bút chì. Đáng lẽ tôi không nên kể về điều ước của mình cho nó. Tôi chưa từng kể chuyện đó với ai, và bây giờ sau khi kể cho thằng Howard thì tôi thấy nó ngớ ngẩn thực sự. Làm gì có ai ngày nào cũng ước đi ước lại một điều dù biết nó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực? Có lẽ tôi nên bỏ cuộc thôi.
Nhưng sau đó bạn biết tôi đã thấy gì không? Tôi ngước lên nhìn đồng hồ, và nó điểm đúng 11 giờ 11 phút. Tôi liền nhắm chặt mắt và thầm ước điều mình hằng mong muốn.
Đến khi về nhà, tôi đã hoàn toàn hết giận Howard. Tôi thấy rất vui vì nó đã lập kế hoạch bắt Xương Chạc. Khi tôi nói với bác Bertha rằng hôm sau tôi sẽ đến nhà nó, bác ấy mừng ra mặt. Bác ấy cứ nhắc đi nhắc lại rằng tôi thật tốt khi làm bạn với Howard, vì những đứa trẻ khác đều trêu chọc nó.
“Ngay cả lũ trẻ ở nhà thờ,” bác ấy nói. “Cháu thấy kì không?”.
Tôi chỉ nghĩ trong đầu chứ không nói với bác ấy rằng tôi thấy chuyện đó hết sức bình thường, vì bọn nhóc ở cái nhà thờ kia chắc cũng đều giống con bé Audrey Mitchell cả thôi.
Chiều hôm đó, Howard ngồi phịch xuống cạnh tôi trên xe buýt và nói, “Cậu có thể mượn xe đạp của anh Lenny.”
“Để làm gì?”.
“Để về nhà chứ làm gì. Còn hơn là phải đi bộ.” Nó lôi từ trong ba lô ra một gói vụn bim bim khoai tây và dốc toàn bộ đống đó vào miệng. "Tớ có kế hoạch này hay lắm," nó nói. "Kế hoạch đi bắt Xương Chạc ấy."
Đúng là chỉ có Howard mới sẵn lòng giúp đỡ tôi, dù chỉ mới hôm qua thôi, tôi vẫn còn giận dữ đá ba lô và đối xử thật tệ với nó.
Khi xe buýt dừng ở trước nhà Howard, tôi đã theo chân nó và Dwight bước qua khoảng sân cỏ mọc um tùm lên những bậc thang ọp ẹp, đi qua chiếc tràng kỷ chuột gặm cũ kĩ để vào căn nhà thảm hại đó. Khi vào đó, tôi chẳng biết mình nên nhìn vào đâu trước. Chiếc lồng chuột hamster trên bàn nước. Bộ trống trong góc nhà. Sách báo chất thành chồng dọc theo mấy bức tường. Một cái cây được trồng trong một chiếc xô gỉ sét bên cửa sổ. Trên sàn nhà vương vãi đầy những chăn, gối, giày dép, cờ bàn10, và những chiếc bát nhựa vẫn còn chút bỏng ngô và vụn bánh pretzel dưới đáy.
10 board game
Những bức tường trong căn nhà dán chi chít những tác phẩm nghệ thuật vẽ bằng sáp màu trên giấy thủ công, những bài kiểm tra ở trường có hình dán ngôi sao vàng và lời khen "Làm tốt lắm" của các thầy cô trên đầu mỗi bài. Có thể thấy câu thần chú “củ cải cực cứng” của mẹ Howard không hiệu nghiệm lắm khi áp dụng với đứa em trai Cotton của nó, vì dưới chân tường có rất nhiều hình vẽ bằng bút dạ.
Howard bước qua đống chăn gối và những thứ khác trên sàn nhà, và ra hiệu gọi tôi theo nó vào bếp. "Mẹ ơi," nó nói, "Charlie đến này."
Bác gái đang đứng ở bồn rửa bát liền quay người lại và mỉm cười rạng rỡ. "Ồ, chào cháu!" Bác ấy lau tay lên tạp dề, rồi vòng tay ôm tôi. "Howard đã kể với bác rằng hai cháu là Bạn Kèm Cặp ở trường," bác ấy nói. "Và về chú chó Xương Chạc đó nữa." Sau đó bác ấy tiếp tục nói rằng bác Gus và bác Bertha đã vui mừng khôn xiết khi được đón tôi về Colby, và dãy Blue Ridge thật xứng đáng được gọi là thiên đường trên trần thế. Bác ấy lấy một chiếc bánh ga tô có những đóa hoa kem bơ màu hồng và tím từ trong chiếc hộp của hàng tạp hóa, rồi đặt lên bàn bếp và mời chúng tôi ăn. Tôi còn chưa kịp định thần thì mấy đứa con trai đã lao vào căn bếp, xô đẩy và chen lấn nhau để được ăn bánh. Tụi nó thậm chí còn chẳng cần dùng đến đĩa hay nĩa, mà chỉ cần cắt lấy một miếng rồi dùng tay bốc ăn ngay tại đó. Và mặc dù tụi nó làm vương vãi đầy vụn bánh lên sàn nhà, nhưng bác gái có vẻ chẳng hề bận tâm.
Burl là anh cả, ổng là người duy nhất có tóc đen trong mấy anh em. Burl là kiểu người ăn to nói lớn, ổng có gương mặt khá thân thiện và đã bắt đầu lún phún ria mép. Kế tiếp là Lenny đang mặc chiếc áo dính đầy vết dầu mỡ. Hai cánh tay dài, khẳng khiu và đầy tàn nhang của ổng đang cố thụi Dwight và xô đẩy Burl. Sau Lenny là Howard và Dwight, hai đứa chỉ hơn kém nhau khoảng một hay hai tuổi gì đó, và nếu Howard không đeo kính và không bị cà nhắc, thì trông tụi nó cũng giống sinh đôi ra phết. Đứa bé nhất nhà là Cotton với khuôn mặt nhem nhuốc và lấm lét. Hai chân nó chi chít vết xước, vết bầm và băng cá nhân.
Bác gái đưa cho chúng tôi những cốc giấy đựng nước và lần lượt ôm hôn từng đứa con trai trong nhà. Chẳng cần là thiên tài, tôi cũng hiểu được rằng bác Bertha có lý khi nói về lòng tốt của người nhà Odom. Bất chợt tôi thấy mình thật ngại ngùng và lạc lõng giữa những tiếng ồn ã, năng lượng dồi dào và lòng tốt ngập tràn trong căn nhà đó.
Howard và tôi ngồi trên chiếc tràng kỷ ngoài hiên, và nó giải thích kế hoạch bắt Xương Chạc cho tôi. Nó đã viết tất cả mọi thứ trong một cuốn sổ, thậm chí còn cẩn thận vẽ hình minh họa và tô màu nữa.
"Cậu nghĩ liệu kế hoạch sẽ thành công chứ?" tôi hỏi. "Chắc chắn rồi." Howard gập cuốn sổ rồi ôm chặt nó vào lòng. Chúng tôi im lặng ngắm Lenny và Cotton nhặt đầy một xô đá và kéo chiếc xô đó ra mép sân để xây tường thành.
Dwight thì đi xe đạp lòng vòng làm cả khoảng sân mù mịt bụi đất đỏ, còn Burl thì rầy la bắt nó dừng lại, vì ổng đang muốn thay dầu xe tải.
Một lúc sau, tôi và Howard quyết định ra ngoài tìm Xương Chạc thêm chút nữa. Chúng tôi dành cả nửa buổi chiều còn lại lang thang tìm Xương Chạc khắp rừng và dọc vệ đường, nhưng cuối cùng hai đứa đành bỏ cuộc. Đến khi chúng tôi về đến nhà Howard thì bác gái đang gọi mọi người đi rửa tay chuẩn bị ăn tối.
"Cháu ở lại nhà bác ăn tối nhé, Charlie," bác ấy nói. Trước khi tôi kịp mở miệng thì bác gái đã nói tiếp,
"Bác sẽ gọi điện hỏi ý kiến bác Bertha xem sao nhé. Bác trai đang trên đường chở đống gỗ xẻ sang Charlotte, nên cháu có thể ngồi vào chỗ của bác ấy này."
Vậy là chúng tôi ngồi vào bàn, và trước khi tôi kịp định thần thì đã bị Howard nắm lấy tay phải, còn Dwight nắm tay trái, và tất cả mọi người đều cúi đầu trong khi Burl nói lời tạ ơn. Ổng tạ ơn Chúa vì tất cả mọi thứ dưới vòm trời này, kể cả món trứng "quỷ"11 trên chiếc đĩa trước mặt ổng.
11 Nguyên văn: deviled egg, món trứng “quỷ” truyền thống của các nước phương tây. Tác giả chơi chữ khi sử dụng từ “quỷ” đối lập với hành động “tạ ơn Chúa.”
Sau đó mọi người đồng thanh nói "Amen," rồi tập trung ăn uống như thể cả tuần nay chưa có gì bỏ bụng vậy.
Bác gái liên tục đứng lên để lấy thêm sườn heo, hay rót thêm sữa, và có vẻ bác ấy chẳng bao giờ quên vỗ vai hay thơm nhẹ lên đỉnh đầu các con mỗi lần đi ngang qua chúng.
Tôi thử tưởng tượng mình mời Howard đến chơi nhà ở Raleigh. Cả căn nhà đều im lặng và tối tăm. Bài kiểm tra của tôi không được dán lên tường nhà, và mẹ cũng chẳng bao giờ thơm lên đỉnh đầu tôi. Cũng chẳng có chiếc bánh ga tô với những đóa hoa tím hồng nào cả. Và nếu Howard ở lại ăn tối, thì tôi và nó sẽ cùng nhau ăn món thịt heo hầm đậu đóng hộp, hoặc bim bim khoai tây, hoặc bánh mì kẹp xúc xích bologna12 trước màn hình tivi, và sẽ chẳng có ai trong nhà tôi nói tạ ơn Chúa trước khi ăn.
12 Món xúc xích thịt heo to, khi ăn phải thái từng lát mỏng.
Tới thời điểm nên rời đi, tôi cảm ơn bác gái, rồi đạp xe của Lenny về nhà. Khi đạp xe ra đến đường cái, tôi quay người nhìn ngôi nhà của Howard một lần nữa. Lần đầu tiên nhìn thấy căn nhà này qua cửa sổ xe buýt, tôi đã nghĩ nó trông thật buồn bã. Nhưng khi tưởng tượng lũ con trai được người mẹ yêu thương, vỗ về trong căn bếp nhỏ xíu đó, tôi chẳng thấy căn nhà đó buồn bã hay thảm hại chút nào nữa.