Tôi đã tưởng tượng cảnh bác Bertha nổi giận lôi đình vì tôi đá vào chân con bé đó, nhưng tôi đã bất ngờ khi bác ấy choàng tay ôm tôi và nói, “Ngày mai rồi sẽ khác.” Bác ấy ôm chặt tôi hơn chút nữa, rồi nói thêm “Cá nhân bác lại thấy rất thích đôi bốt đó đấy.”
Bác Bertha không hề nhắc đến hành vi sai trái của tôi. Nếu là mẹ, thì đây không biết đã là lần thứ bao nhiêu mẹ phải rầy la và nhắc nhở tôi rồi. Mẹ luôn nói rằng tôi đúng là một đứa chuyên gây rối, hệt như ông bố Thích Gây Gổ của mình vậy.
Sau bữa tối, tôi đã ước khi ăn món bánh nướng nhân việt quất tráng miệng. Nếu bạn cắt phần chóp nhọn của miếng bánh để dành ăn sau cùng, bạn có thể ước trong khi ăn miếng đó. Tôi đã học điều đó từ ông anh họ Melvin. Ổng đã thề với tôi là cách này hiệu nghiệm, vì anh trai ổng ngay sau đó đã trốn khỏi nhà và lấy vợ, và Melvin được độc chiếm toàn bộ phòng ngủ đúng như ổng mong ước.
Tôi biết bác Gus và bác Bertha đã nhìn thấy tôi cắt riêng đầu miếng bánh rồi đẩy ra ngoài rìa chiếc đĩa, nhưng họ chẳng hề thắc mắc. Vả lại, tối nay bác Bertha có vẻ ít nói hơn mọi hôm. Có lẽ bác ấy thực sự bực mình vì tôi đã đá vào chân con bé Audrey. Có lẽ bác ấy đang nghĩ, đúng là cha nào con nấy. Có lẽ trước khi đi ngủ, bác ấy sẽ thầm thì với bác Gus rằng tôi đúng là chẳng khác gì ông bố Thích Gây Gổ của mình, và bàn về những rắc rối họ sắp phải đối mặt khi đón tôi về nhà.
Sau khi ăn miếng chóp bánh và thầm ước, tôi ra ngoài sân để xem bác Gus cắt cỏ trong vườn rau. Một “quả bóng lông” đen cọ người vào chân tôi và liên tục kêu gừ gừ. Tôi dùng cành cây viết tên mình lên mặt đất rồi lại xóa đi. Trong khoảng sân này chẳng có ngọn cỏ nào mà chỉ toàn đất đá, đâu đó điểm xuyết vài đóa hoa đủ sắc màu. Vài bụi hoa dại nép mình khiêm nhường bên cột dây phơi quần áo. Những đóa thù du màu hồng khoe sắc cạnh con đường vào gara. Những cây bồ công anh xếp hàng thẳng tắp như những chú lính dọc theo hàng rào lưới quanh khu vườn.
Bác Gus vừa huýt sáo vừa xới đất quanh cây cà chua bé xíu. Bác ấy thận trọng bước từng bước giữa những mầm đậu que và bí ngồi mới trồi lên từ mặt đất ấm áp mùa xuân. Hôm đầu tiên tôi đến Colby, bác Bertha đã bảo bác Gus, “Mình đưa Charlie ra thăm vườn đi!”. Thế là tôi phải theo chân hai bác ấy ra vườn để nghe giới thiệu về từng cái mầm cây nhỏ xíu ấy. Bác Bertha đã giải thích cho tôi cách những cây đậu que kia leo giàn, và nói rằng những cây bí ngồi sẽ trổ những đóa hoa vàng thật to. Tôi chỉ gật đầu và đáp, “Ồ,” vì bạn còn có thể nói gì hơn về những cây rau trong một khu vườn nữa đây? Nhưng bác Gus ư? Bạn sẽ nghĩ mình đang lạc trong Vườn Địa đàng khi nhìn thấy cách bác ấy chăm sóc khu vườn, kiểm tra từng chiếc lá non của cây mướp tây, hay gạt một dây bí khỏi lối đi.
Tôi tiếp tục viết nguệch ngoạc trên nền đất đỏ, còn bác Gus thì tập trung huýt sáo và xới đất. Thi thoảng, bác ấy lại ngừng tay để kéo cái vành mũ lưỡi trai hoặc đập muỗi. Tôi nghe thấy tiếng bác Bertha trò chuyện cùng mấy chú mèo trong bếp khi cho tụi nó ăn. Có đứa vừa bị bác ấy mắng vì tội ăn thịt chim. Một đứa khác thì bị bác ấy chê là mập quá.
Tôi định vào nhà thì đột nhiên thấy thứ gì đó chạy sượt qua. Một con vật vừa chuyển động phía sau mấy lùm cây ngăn cách giữa khoảng sân và khu rừng. Chú mèo đen cạnh tôi đột ngột lao vút đi trốn phía sau nhà kho trong vườn. Tôi đứng im và nheo mắt nhìn vào bóng tối trong rừng. Đột nhiên, một chú chó ló đầu ra từ phía sau những bụi cây. Chú chó đó gầy gò, có bộ lông đen đốm nâu, và đôi tai dài rủ xuống. Nó chính là chú chó tôi vừa nhìn thấy chiều nay!
Nó hếch đầu nhìn tôi. Tôi nhón chân khẽ bước một bước về phía nó. Nó cúi đầu dè chừng và tiếp tục quan sát tôi. Nhưng khi tôi tiến thêm bước nữa, thì nhanh như chớp, nó liền chạy biến vào rừng.
“Chết tiệt,” tôi hậm hực.
“Cháu vừa nói gì thế?”, từ trong vườn, bác Gus nói vọng ra.
“Vừa nãy có con chó đứng đằng kia ạ.” Tôi chỉ về phía mấy lùm cây.
“Con chó lông đen đốm nâu à? Tai nó rủ xuống phải không?”.
“Vâng,” tôi đáp. “Vừa nãy bác cũng thấy nó ạ?” “Không, nhưng bác từng thấy nó đến đây nhiều lần rồi.”
“Nó là chó nhà ai vậy ạ?”
Bác Gus dựng cuốc vào hàng rào rồi ngồi lên một chiếc ghế gập trong sân. "Nó là chó hoang thôi," bác ấy nói. "Nó thường xuyên xuất hiện ở đây nhiều tháng rồi. Bác Bertha vẫn mang thức ăn thừa ra ngoài đó cho nó đấy. Nó chẳng phiền khi phải ăn món thịt băm của bác Bertha đâu.”
Tôi nhìn về phía khu rừng. "Cháu cá là cháu có thể bắt nó," tôi nói.
Bác Gus nhấc chiếc mũ bóng chày lên để gãi đầu. "Con chó lai già nua đó có vẻ nhát người lắm đấy."
"Nếu cháu bắt được nó thì cháu có thể giữ nó lại để nuôi không ạ?".
"Bác nghĩ nó thích được làm chó hoang hơn đấy," bác Gus đáp.
Nhưng tôi hiểu nó hơn bác ấy. Tôi hiểu cảm giác bị bỏ rơi, không gia đình, không ai muốn nuôi dưỡng là thế nào. Và chú chó đó là một chiến binh. Hệt như tôi ấy. Tôi và nó có rất nhiều điểm chung. Đột nhiên tôi cảm thấy yêu thương chú chó gầy gò đó thật nhiều.
Tôi đã lập một lời thề nghiêm túc ngay tại khoảng sân đó, và tự hứa với lòng mình rằng tôi chắc chắn sẽ bắt được chú chó đó.