B
an ngày, mưa ngớt dần.
Bố và anh cả nâng cao bậc thềm bằng gỗ tấm, dùng chậu gỗ múc từng chậu nước tràn vào trong nhà đổ ra sân.
Sân nhà biến thành sông, không ai dám tuỳ tiện ra ngoài, chị em Lan Nhi đứng trước cửa sổ nhìn khoảnh sân ngập nước. Trong sân, cây lựu già, cây hương thung, cây xoan, cây hòe mùa xuân nở hoa trắng như tuyết đều đã bị mưa to xối cho đổ rạp, vô số cành gãy, lá rụng nổi trên mặt nước, rồi chẳng mấy chốc lại bị nước cuốn đi.
Lan Nhi chợt nghĩ, trận lũ này đã biến những thứ không có chân trong chốc lát mọc thêm chân, có thể đến nhà nhau chơi ở một nơi rất xa.
Đúng vậy mà!
Giày dép kết bạn đến các nhà trong thôn tán dóc, gáo múc nước làm từ quả hồ lô trong bếp cũng len lén chuồn ra ngoài từ trong vại nước, túm tụm lại trôi ra đồng. Sơ mướp dùng để rửa nồi cũng trôi mất, chúng giống như bầy thiên nga trắng, lặng lẽ bơi đến vùng nước mới sinh sống, chắc chúng đã chán với việc quanh năm chỉ có thể rửa nồi từ lâu rồi. Nên nhớ rằng, chúng vốn là những quả mướp xanh lủng lẳng trên giàn một cách kiêu ngạo!
Những chiếc ga trải giường vải hoa, vải xanh, vải mộc đen nhà tự dệt, vải mộc trắng còn chưa kịp nhuộm màu chàm, chỉ cẩn sơ ý không trông cẩn thận là chúng len lén trườn xuống nước, biến thành một bông hoa khổng lồ, dọc đường vừa hát vừa chạy khỏi thôn. Chắc là từ lâu chúng đã muốn được nhìn thấy thế giới rộng lớn hơn Hoàng Phượng Khoát.
“Nắp anh hai” làm bằng thân cây cao lương rất nhẹ, lơ đễnh một chút là nó trôi ra khỏi bếp. Nắp nồi ông nội buộc đều tăm tắp và tinh xảo làm sao, vừa nhẹ vừa tiện, bình thường hấp bánh, xào rau đều dùng nó để đậy, dùng thích hơn “nắp anh cả” làm bằng gỗ táo.
Lúc “nắp anh hai” nhẹ nhàng trôi ra, “nắp anh cả” chỉ có thể giương mắt nhìn. Hết cách, ai bảo “nắp anh cả” làm bằng gỗ táo nặng trình trịch chứ? “Nắp anh cả” gánh vác nhiệm vụ hấp bánh, nắp dày, giữ nhiệt, một mẻ bánh vừa làm xong cho vào nồi, đậy “nắp anh cả” lên, chẳng mấy chốc thì hấp xong mẻ bánh nóng hôi hổi, thơm phưng phức, “nắp anh cả” là đại công thần trong bếp đấy! Nhưng lúc này, đại công thần đành phải ghen tị nhìn “nắp anh hai” vừa hát vừa trôi đi, trôi đến thế giới rộng lớn bên ngoài.
..........
Lan Nhi nhìn dòng nước mênh mông bên ngoài suy nghĩ vẩn vơ.
Đã lâu không dám ra khỏi cửa, bên ngoài khắp nơi là nước, ngày nào cũng ru rú trong nhà nên thấy chán ngắt.
Hôm nay trời hửng nắng, ông và bố dỡ những tấm gỗ mộc gác trên xà nhà xuống, đặt trên bàn đã được lau sạch sẽ, ông nội lấy bộ đồ nghề ra bắt đầu đóng thuyền.
Vừa nghe thấy ông nói đóng thuyền, Lan Nhi sung sướng nhảy cẫng lên: “Ông ơi, thuyền là chân đi trên nước! Có chân rồi, chúng ta muốn đi đâu thì đi ông nhỉ!”
“Xem kìa, Lan Nhi đúng là vô tư, lúc nào cũng ham chơi! Vừa nghe thấy đóng thuyền, việc nghĩ đến đầu tiên không phải đánh bao nhiêu cá, mà là ngồi thuyền đi chơi!” chị hai trêu cô, “đợi ông đóng thuyền xong, Lan Nhi muốn đi đâu chơi nào?”
“Chèo thuyền đến miếu cổ!” Lan Nhi nói trôi chảy, “Đã lâu lắm rồi em không gặp Thạch Sinh, nước lớn thế này không biết con chim ngói anh Thạch Sinh nuôi được cho ăn gì”.
Lan Nhi lo lắng.
“Úi giời, xem kìa, lũ tràn về lâu thế rồi, ngay cả người còn không có cái ăn, Lan Nhi còn lo cho mấy con chim đó!” chị hai cười giòn tan.
Lan Nhi nhìn dòng nước bên ngoài, chăm chăm nghĩ về ngôi miếu, nghĩ đến đôi mắt đen láy bình thản biết nói của anh Thạch Sinh, nghĩ đến những chiếc lồng chim được phủ vải đen treo trong miếu, còn cả những hàng cây bách xanh rì tỏa ra mùi thơm dịu nhẹ xung quanh miếu.
Lan Nhi hỏi Thạch Sinh: “Bên ngoài nhà của chim ngói sao phải phủ vải đen vậy anh?”
Thạch Sinh nói: “Anh cũng không biết nữa, từ đời ông, đời cụ, đời kỵ lúc nuôi chim ngói đã thế rồi. Theo em thì vì sao?”
Lan Nhi nghẹo đầu nghĩ rất nghiêm túc, nói: “Em đoán chắc là chim ngói sợ mặt trăng, đến tối phủ vải đen lên để ánh trăng không lọt vào được”.
“Vì sao chim ngói lại sợ ánh trăng?” Thạch Sinh hỏi.
“Anh không thấy trên cung trăng có chị Hằng và thỏ ngọc sao?” Lan Nhi tỏ ra là người trên thông thiên văn dưới tường địa lý, “chị Hằng uống tiên dược bay lên cung trăng, thỏ ngọc không biết bắt được ở đâu, cũng ở trên cung trăng, chim ngói chắc chắn sợ sẽ như thỏ ngọc, bị bắt lên cung trăng, sống cô độc trên đó, chán ngắt. Vì thế chim ngói mới sợ thấy mặt trăng”.
Lan Nhi và Thạch Sinh cứ ngồi với nhau là nói không hết chuyện.
Chuyện mà Lan Nhi và Thạch Sinh nói không như những đứa trẻ bình thường khác, đông một câu trên trời tây một câu dưới đất, câu trước đang ở cánh đồng, câu sau đã chạy đến sông Hoàng Phượng. Người ngoài nghe thấy chắc chắn sẽ rất ngạc nhiên, nghĩ rằng hai đứa trẻ này bị sốt thành ra nói nhảm.
Nhưng chỉ có Lan Nhi và Thạch Sinh biết, cách nói chuyện đó thú vị đến nhường nào.
Ông và bố nào là cưa, nào là bào, nào là mài, tiếng cưa, tiếng bào gỗ vang lên trong gian chính.
Lúc ông làm việc, Lan Nhi đứng cạnh quan sát một bước cũng không rời. Cô nghĩ, một cái cây trải qua mưa gió bão bùng, lớn dần lên, được chặt về nhà xẻ thành những tấm gỗ như mây trắng, rồi gỗ tấm lại được đóng thành thuyền, quả là một việc vô cùng thú vị.
Cũng may trước khi lũ về, ông đã gác những tấm gỗ đó lên xà nhà. Bây giờ vừa hay có thể dùng để đóng thuyền. Bố cầm chiếc thước dây sắt, cố định một đầu trên tấm gỗ, “roạt” một cái kéo ra đo kích thước.
Muốn đóng một chiếc thuyền gỗ dài một trượng tám thước, khích thước từng miếng gỗ ông đã có tính toán trước. Lòng thuyền tám thước, mũi thuyền rộng bốn thước, đáy thuyền rộng hai thước rưỡi, thành thuyền cao một thước ba..... ông không cần dùng thước, đôi mắt hiền từ và tinh anh của ông chính là thước.
Bố làm những việc nặng, còn ông làm những việc đòi hỏi kỹ thuật cao. Những việc chân tay như xẻ gỗ, bào gỗ thì bố làm, những tấm gỗ dài ngắn xếp thành đống, tỏa ra mùi thơm dễ chịu của gỗ tươi.
Ông nội bắt đầu ghép ván. Lan Nhi luôn tay đưa cho ông những chiếc đinh gỗ đầu to mũi nhọn, ông đóng đinh vào các mắt đã đục sẵn, ghép những tấm gỗ dài ngắn thành mạn thuyền, đáy thuyền, khoang thuyền.
Bước tiếp theo là hoàn thiện, bước này đòi hỏi tay nghề cao nhất.
Ông ghép tấm đáy khoang giữa với các vách ngăn, sau đó cùng bố kéo siết chặt mũi thuyền và đuôi thuyền bằng các dụng cụ như dây thừng, cút nối, ốc vít, kìm mỏ nhọn, ghép tấm chắn sóng phía trước và sau, bên trong lại dùng đinh chữ u đóng cạp chặt các tấm ván, sau đó dùng miếng tôn gia cố thêm ở mũi thuyền, con thuyền gỗ đáy nhọn vểnh hai đầu dần hiện ra trước mắt.
Con thuyền trắng phau sau khi hoàn thiện mới đẹp làm sao!
Đáy thuyền hình viền cá, mũi và đuôi thuyền vểnh lên đầy kiêu ngạo, trông rất bắt mắt.
Thuyền đóng xong còn phải dùng vôi sống trộn với dầu trẩu, phải trộn thật nhuyễn, sau đó trát trong và ngoài thuyền, trát kín các khe hở, con thuyền nhìn thật ngon ngẻ, trong ngoài bóng loáng, cứ như trái cây vừa hái xuống.
Sau đó, lại quét dầu trẩu ba lượt, để vài ngày, đợi dầu khô hẳn thì có thể hạ thủy.
Hạ thủy thuyền mới là việc lớn và tưng bừng nhất.
Quãng thời gian ông đóng thuyền, Lan Nhi cũng bận rộn quang quẩn bên ông từ đầu đến cuối, xem ghép gỗ, rồi hoàn thiện thuyền, giúp ông trát vôi sống, vì thế sau khi đóng xong thuyền, ông nắm tay Lan Nhi, hai ông cháu mỗi người một nét, khắc chữ “Hỷ” to tướng lên tấm chắn sóng, sau đó dùng sơn đỏ làm bằng chu sa quét lên chữ “Hỷ”. Sơn chu sa bền, dày, ngoài ý nghĩa tươi vui còn toát lên vẻ sang trọng.
Cạnh chữ “Hỷ” còn khắc một chiếc đầu rồng sống động như thật, sơn màu vàng kim.
Ông nội cho rằng ngày Thất Tịch mùng bảy tháng bảy âm lịch là ngày tốt, nên chọn ngày này để hạ thủy.
Mới sáng sớm, anh cả Bảo Thư đã đốt một bánh pháo dài “Tứ Hải Mai” ở trước cửa, trong tiếng pháo rộn rã, ông châm lửa đốt thỏi vàng, thỏi bạc giấy đã gấp sẵn và giấy tiền vàng, sau đó cả nhà đứng trước bàn thờ màu đỏ trước cửa, thành kính vái ba vái.
Trên bàn thờ bày một miếng thịt ba chỉ luộc, bên trên cắm đôi đũa tre, xung quanh bày các loại quả đúng mùa như mơ vàng, táo xanh, bên cạnh thắp hai cây nến đỏ trang trọng, nến cháy lép bép, hương khói lượn quanh, càng tôn thêm vẻ trang nghiêm.
Con thuyền mới được hạ thủy trong tiếng cầu nguyện lặng lẽ của ông.
Bố lắc lắc cây sào chống thuyền, anh cả ngồi ở mũi thuyền, ông bế Lan Nhi ngồi ở đuôi thuyền, con thuyền mới bắt đầu hành trình trong thôn.
Chị hai Lê Nhi cũng muốn đi, nóng lòng đứng giậm chân ở bậc cửa. Nhưng ông nói, thuyền mới hạ thủy chỉ cho hai người ngồi ở mũi và đuôi thuyền, vì thế chỉ anh cả và Lan Nhi được đi.
Chị cả đôn hậu không tỏ ra bất mãn chút nào, chỉ tựa cửa nhìn con thuyền lướt trong dòng nước với lòng ngưỡng mộ.
Đây không phải lần đầu tiên Lan Nhi ngồi thuyền, nhưng ngồi thuyền mới vừa hạ thủy di chuyển trong thôn thì là lần đầu tiên trong đời.
Tất nhiên rồi, có nhiều cơ hội để ngồi thuyền, nhưng nếu không phải nước lũ về thì nằm mơ cũng không dám nghĩ có thể ngồi thuyền di chuyển trong thôn.
Bố thong dong lắc cây sào, con thuyền chậm rãi di chuyển trên con phố họp chợ ngày thường, Lan Nhi mở to đôi mắt đen láy lạ lẫm nhìn trưsc nhìn sau, không nỡ chớp mắt.
Ngồi trên thuyền nhìn thôn xóm thân quen hàng ngày, tất cả dường như đã khoác lên diện mạo mới.
Lúc thuyền di chuyển về phía trưsc, những ngôi nhà xây bằng đất sét vàng hai bên như mọc thêm chân, từ từ chạy về phía sau Lan Nhi, lá cỏ lau và thân lúa khô dập dềnh, cứ như mái tóc màu vàng đất của ngôi nhà, cảm giác đó khiến Lan Nhi thấy vô cùng mới lạ, còn các ngôi nhà thì như đàn chó vàng biết bơi, ngoan ngoãn nhìn theo họ từ phía sau thuyền.
Thuyền mới di chuyển đến đầu phố phía bắc, thím hoa ớt tinh mắt đang từ nhà người quen đi ra liền hét toáng lên: “Ôi, chú đúng là tay nghề cừ khôi, đóng thuyền sao mà đẹp, mà tinh xảo thế! Trắng tinh, bóng loáng, chẳng khác gì chú thiên nga trắng!”
Ông nội nghe thím hoa ớt khen, nụ cười thân thiện nở trên môi, nói: “Mẹ Thất Xảo đi uống trà về rồi đấy à?”
Ở Hoàng Phượng Khoát, lúc gặp mặt, mọi người đều hỏi nhau một câu rất khách sáo ăn cơm chưa, nhưng họ không nói ăn cơm mà nói là “uống trà”, nghe vừa sang vừa nhã, bữa sáng là uống trà sáng, bữa trưa là uống trà trưa, bữa tối là uống trà tối.
“Cháu uống trà sáng rồi, nước mênh mông thế này không đi đâu được, đóng cái thuyền đúng là quá tiện! Có thuyền rồi, con người thành ra vịt trên sông, tiêu diêu tự tại, muốn đi đâu thì đi!” thím hoa ớt hâm mộ nói.
Lan Nhi trông thấy thím hoa ớt đang đứng trên chiếc ghế đẩu như cái cà kheo, lúc này đang đứng như trời chồng giữa dòng nước, một tay còn chống chiếc gậy trúc.
Thấy Lan Nhi nhìn mình với con mắt hiếu kỳ, thím hoa ớt đỏ mặt, giơ tay khua khua chiếc gậy trúc nói: “Nước lớn quá, ở nhà buồn như chấu cắn! Chú xem này, cháu đã làm một bộ đồ lội nước, chuẩn bị sang nhà hàng xóm tán dóc đây!”
Nói rồi thím lắc la lắc lư lội bì bõm trong dòng nước như con vịt bầu, vừa lội vừa ngẩng đầu hát vang trích đoạn Dự kịch “Hoa Mộc Lan”: “Lưu đại ca nói quá thiên vị, ai bảo nữ tử hưởng an nhàn? Nam tử đánh trận ngoài biên ải, nữ tử dệt vải nơi quê nhà, ban ngày cày cấy, tối đến dệt vải, bất kể ngày đêm cần cù làm lụng, tướng sĩ mới có cái ăn cái mặc. Không tin cứ nhìn lại mọi thứ trên người xem, nào là giày, là tất, là áo, là quần, từng đường kim mũi chỉ đều do các chị em làm ra....... có rất nhiều nữ anh hùng làm nên công trạng, giết giặc báo quốc, anh dũng hiền tài để lại muôn đời, những nữ tử đó không hề thua kém nam nhân.......”
Lời lẽ trong trích đoạn Dự kịch dí dỏm sinh động khiến mọi người trên thuyền phì cười.
Thuyền tiếp tục di chuyển về phía trước, những người biết tin đều lội nước ra xem, có người trèo lên cây, có người đứng trên chiếc “cầu khỉ” dựng bằng tấm gỗ, có người mặc luôn quần cộc, lộ cả hai cẳng chân lội bì bõm trong nước.
Ông tôm ôm con Phát Tài, nhìn con thuyền mới tấm tắc khen: “Thuyền làm đẹp quá! Cũng chỉ có ông anh mới làm được thôi! Cái thuyền đẹp thế này, có các ba con lợn béo và ba chiếc thủ lợn cũng không đổi!”
“Nếu cộng thêm một nồi thịt hầm thơm phưng phức thì chú sẽ đổi phải không?” không biết thím hoa ớt từ đâu chui ra nói mát mẻ ông tôm, nhưng người xúm lại xem thuyền đều cười ồ lên.
“Ôi dào, đừng nhắc đến nồi thịt hầm đó của tôi nữa, chỉ sợ nhắc đến cô lại chảy nước miếng vì thèm thôi! Nồi thịt hầm của tôi, chưa nói đến thịt, chỉ cần hầm đậu phụ, đậu lông, đậu tằm, rau dền đỏ thôi, múc lên hương thơm cũng bay xa chục dặm! Tôi không nói khoác đâu, nồi thịt hầm tôi đây nấu không ai sánh kịp! Đó là bí kíp tổ tiên truyền lại đấy!” ông tôm nhớ lại chuyện xưa, bất giác lắc đầu thở dài.
"Chú tôm nói rất đúng”. Cô Phượng nói, “Ngày trưsc tôi ngồi bán bánh nướng ngay cạnh nồi thịt hầm của chú tôm nên cũng đắt hàng lây! Vừa mở hàng, mùi thịt thơm đến mức mọi người chen nhau xếp hàng! Mua hai cái bánh nướng kẹp thịt hầm, gọi thêm bát rượu ngũ cốc, đúng là sướng hơn tiên!”
Ông tôm nhìn cô Phượng với ánh mắt cảm kích, âu yếm vuốt ve cái đầu đen trắng rõ ràng của Phát Tài như vuốt ve châu báu hiếm có vậy.
Mọi người trong thôn cười nói vui vẻ, chỉ có chú Thái Thăng đứng như cây sam cắm rễ ở đó, lặng thinh nhìn con thuyền di chuyển trong dòng nước.
Từ bé Lan Nhi đã lờ mờ hiểu rằng, chú Thái Thăng hình như không thích bố lắm. Từ những lời bán ra tán vào của người lớn, Lan Nhi nhận ra có lẽ là vì chú Thái Thăng ghen tỵ với bố.
Chú Thái Thăng bằng tuổi bố, nhưng từ nhỏ bố có người bao bọc, nhất là có người giỏi giang tháo vát như ông nội hỗ trợ, vì thế gia cảnh cũng khấm khá hơn người khác. Còn chú Thái Thăng như con khỉ chui ra từ hòn đá, từ nhỏ đã phải vất vả kiếm sống mưu sinh, một hào chia đôi để tiêu, một giọt mồ hôi rơi xuống đất vỡ thành tám mảnh, mỗi bước đi đều không hề dễ dàng. Chú Thái Thăng lại là người hiếu thắng, việc gì cũng muốn hơn người khác, dựa vào tài cán của mình chú quả thật có cuộc sống dư dả hơn đa phần các hộ trong thôn, nhưng lại không bì được với nhà Lan Nhi. Chắc là trong lòng không phục, nên lúc nào cũng có thái độ lạnh nhạt với mọi người trong nhà Lan Nhi.
Lúc đó, Lục Hổ đang nhìn Lan Nhi ngồi trên thuyền một cách ngưỡng mộ, Lan Nhi vẫy Lục Hổ gọi thân mật: “Lục Hổ!”
Lục Hổ bẽn lén đáp lại, nở nụ cười đôn hậu.
Lục Hổ khác xa bố mình, cậu chân chất, khoẻ khoắn, tốt tính, Lan Nhi rất thích chơi với Lục Hổ.
“Đến giờ cho ngỗng ăn rồi!” chú Thái Thăng lạnh lùng nói với Lục Hổ, rồi quay ngoắt về nhà.
Sau khi lũ về, nhìn đâu cũng chỉ thấy nước mênh mông, người giỏi giang như chú Thái Thăng cũng biết tính toán. Chú mua một đàn ngỗng trắng chân vàng, dày công chăm sóc, ban ngày thả trong sân, những chú ngỗng trắng như những bông hoa súng vừa nở ai nhìn cũng thích.
Công việc chính của Lục Hổ bây giờ là chăm sóc chu đáo đàn ngỗng, chú Thái Thăng còn đợi chúng lớn để lấy trứng nữa!
Lục Hổ sợ chú Thái Thăng như sợ cọp, hễ nghe thấy mệnh lệnh của bố là cup cúp chạy về nhà.
Ra đến ngoài thôn, thuyền từ từ di chuyển đến chỗ nước thấp đất trũng cạnh ngôi miếu cổ.
Lan Nhi sốt ruột dướn người ra, ngẩng đầu nhìn ngôi miếu, thầm nghĩ, chắc anh Thạch Sinh biết hôm nay nhà mình hạ thuyển mới, sao anh ấy không ra nhỉ?
Hai cánh cửa chính sơn đỏ đóng im ỉm, rặng cây bách xanh rì đứng bảo vế ngôi miếu cổ, lặng lẽ, trầm mặc, ngôi miếu yên tĩnh đến mức không nghe thấy cả tiếng chim hót.
Lan Nhi cúi đầu thất vọng.
Đúng lúc này, Lan Nhi bỗng nghe thấy tiếng chim ngói hót lanh lảnh: “Cúc cu! cúc cu!”
Âm thanh đó quen thuộc làm sao, nghe hệt tiếng chim hót, nhưng Lan Nhi nghe là biết ngay, đó là tiếng ai đó ngậm chiếc lá dẹt để thổi.
Cô ngẩng đầu lên, nhìn về hướng tiếng “chim ngói” hót.
Trước cửa miếu có hai cây dâu to cao không biết đã mọc ở đó bao nhiêu năm rồi. Một cây là dâu tím có thể thấy ở mọi nơi, cứ đến mùa hè, những quả dâu tím đỏ ra chi chít, khiến lũ chim thèm thuồng sà xuống, đậu trên ngọn cây hót ríu rít suốt ngày, chúng thò cái mỏ nhỏ xíu màu hồng mổ những quả dâu chín mọng. Cây kia là dâu trắng rất hiếm gặp, hè về cây kết trái, những quả dâu màu trắng sữa mềm như bông, ngọt như mật.
Cứ mỗi dịp dâu ra quả, nhìn hai cây dâu đẹp không bút nào tả xiết!
“Một cây là tử ngọc quả, một cây là bạch ngọc đan! Đi qua 99 ngọn núi, cầy cấy 99 thửa ruộng, chưa bao giờ trông thấy cây dâu cổ thụ xanh mướt như vậy, cũng chưa bao giờ được ăn những quả dâu ngọt như vậy!” cứ đến mùa dâu ra quả, bà con trong thôn lại nghêu ngao đoạn ngắn ông nội sáng tác này, ông thích gọi những trái dâu là “tang thậm hoàn”.
Lúc này, trên cây dâu tím lộ ra khuôn mặt của một cậu bé da ngăm ngăm, đôi mắt sáng long lanh đến lạ, cậu trông thấy Lan Nhi liền toét miệng cười, hàm răng vừa trắng vừa đều, nhìn thật đẹp!
Cậu hái một chùm dâu vừa chín, nhanh nhẹn ném xuống cho Lan Nhi từ trên cây, Lan Nhi đón lấy rất gọn, chùm dâu chắc nịch rơi trúng vào đôi tay trắng nõn của Lan Nhi.
Lan Nhi vặt một quả đưa lên miệng ông, vặt một quả đưa vào miệng bố, vật tiếp quả nữa đưa cho anh cả, sau cùng mới vặt một quả dâu bé xíu cho vào miệng, cắn nhẹ bằng hàm răng trắng phau.
Ôi, vừa chua vừa ngọt! Hương vị chua mà ngọt lịm ấy cứ thế thấm vào ruột gan cô.
Chỉ có Thạch Sinh biết, người khác thích ăn dâu tím chín mọng, nhưng Lan Nhi lại thích ăn nhất những trái dâu đỏ nhạt chín vừa tới khoảng bảy tám phần.
Cây sào mới, chèo chống lay động dòng nước, sóng nước dạt sang hai bên, dập dờn sóng nước lăn tăn, những gợn sóng lăn tăn đó trông như chiếc váy mỏng manh của các bé gái.
Nước sông cũng mặc váy. Lan Nhi nghĩ một cách vô thức.
Đôi mắt đen láy với hàng mi dày của cô nhìn đăm đăm vào dòng nước mênh mông trước mặt, nhìn con thuyền mới từ từ đi vào cửa nhà mình.