Ô
ng nội ngồi đan lưới cạnh bậc cửa.
Chiếc ghế tre cao đỡ những cuộn sợi đan lưới trắng tinh, tay trái ông cầm miếng tre mỏng hình chữ nhật, tay phải cầm thoi, hai tay đan lươn lướt thành thạo khéo léo như mây bay nước chảy, chẳng mấy chốc tấm lưới đánh cá đều đặn từng mắt từng hàng hiện ra trước mắt.
Ông nội đan cả lưới mắt to và lưới mắt bé, lưới mắt to dùng để đánh cá to, lưới mắt bé dùng để đánh cá bé và tôm tép.
Lũ kéo dài hơn ba tháng, hoa màu trên đồng đều bị ngập úng, ban đầu mọi người còn sống qua ngày bằng chỗ lương thực từ năm trước, nhưng lương thực ngày một vơi dần, mọi người dần nhận ra thiếu cái để ăn, nấu nướng ít đi, nên trong lòng không tránh khỏi hoang mang.
Có nhà thấy nước lũ mênh mông, cuộc sống ngày càng chật vật, dẫn theo già trẻ trong nhà chạy về miền nam ở nhờ nhà họ hàng. Nghe nói, cứ đi thẳng về phía nam, thôn làng ở đó không bị lũ lụt, mùa màng sinh trưởng tươi tốt, thế là quyết định ở lại sinh sống một thời gian, giúp họ hàng cày cấy, chờ lũ rút thì về. Miền nam rất rộng, người dân Hoàng Phượng Khoát gọi chung tất cả các thôn trang ở miền nam là “nam hương”.
“Chú ơi, chúng cháu cũng đi nam hương đây!” hôm nay cả nhà thím hoa ớt chèo chiếc bè gỗ thô xơ đến từ biệt ông.
“Mẹ Thất Xảo này, nhà chị đứt bữa rồi sao? để Bảo Thư mang sang cho anh chị ít bột ngô”. Ông dừng đan lưới nói.
“Chú đã bảo Bảo Thư mang lương thực cho chúng cháu vài lần rồi”. Thím hoa ớt nói, “nhà cháu không thể tiếp tục sống dựa vào nhà chú nữa, nhà chú đông người, lương thực cũng thiếu thốn. Cháu đã nghĩ rồi, thôi thì cắn răng đi miền nam, giúp người ta làm ruộng, cháu và bố Thất Xảo còn sức khỏe, việc vất vả nặng nhọc đều làm được, chẳng mong gì hơn, cốt sao cho Thất Xảo được no cái bụng thôi!”.
“Thất Xảo, cậu đừng đi!” Lan Nhi lưu luyến nhìn Thất Xảo nói.
“Lan Nhi, mẹ tớ bảo nhà tới đến miền nam làm ruộng thuê một thời gian, đợi nước rút sẽ trở về”.
“Ôi, dứt áo ra đi!” ông thở dài nói, “ổ vàng ổ bạc không bằng ổ chó nhà mình, anh chị...... nghĩ kỹ chưa? ở đó có họ hàng không?”
“Chúng cháu nghĩ kỹ rồi, dù sao cũng là con đường sống. Ở đó tuy không có họ hàng, nhưng chúng cháu có tay có chân, không chết đói được!”
“Ông ơi, cháu sẽ cầu xin người ta cho việc làm, mẹ cháu dạy đấy. Gõ cửa nhà người ta, nếu trông thấy người lớn tuổi thì chào ông chào bà, nếu gặp người trẻ tuổi thì chào cô chú.” Thất Xảo nói rồi ngây thơ biểu diễn, “Ông bà tốt bụng ơi, quê cháu gặp lũ lớn, nhà cửa ruộng vườn đều chìm trong nước, ông bà làm ơn làm phúc cho nhà cháu được ở lại đây giúp việc, sau này khôn lớn, sẽ không bao giờ quên ơn của ông bà....”
Nghe giọng nói còn non nớt như đứa trẻ của Thất Xảo, ông nội bỗng ứa nước mắt, ông không lau mà cứ để nó chảy dài trên khuôn mặt già nua.
Ông nhìn bầu trời hoàng hôn, lẩm bẩm: “Ông trời ơi, ông mở to mắt nhìn bà con thôn Hoàng Phượng Khoát đi, ông thu nước về đi, cho người dân Hoàng Phượng Khoát một con đường sống!”
Nhà thím hoa ớt chèo chiếc bè gỗ rời khỏi Hoàng Phượng Khoát trong ánh mắt tiễn đưa của mọi người.
Lưới đan xong, bố và anh cả chèo thuyền gỗ đi đánh cá.
Anh cả Thư Bảo năm nay mười bảy tuổi, cao to vạm vỡ, mặt mũi phúc hậu, mọi việc trong nhà anh đều học làm dần.
Ông nội bốn mươi tuổi mới đẻ được mụn con trai duy nhất là bố, bà nội mất sớm, một tay ông nuôi bố khôn lớn, lúc Lan Nhi hiểu chuyện thì ông cũng đã bảy mươi.
Ông nội tuổi cao sức cũng yếu đi, không giong thuyền được nữa, đành phải ở nhà đan lưới.
Lúc ông nội đan lưới, Lan Nhi luôn quanh quẩn bên ông, lúc thì giúp ông kéo sợi đan lưới, lúc thì bưng cho ông cốc trà.
Đến sẩm tối, bố và anh cả phấn khởi trở về nhà, Lan Nhi, Lê Nhi như hai chú chim nhạn bay ra đón, Hà Nhi vội vàng rót hai cốc trà nóng, đặt trên chiếc bàn vuông.
Mẹ đã chuẩn bị sẵn một chiếc chậu gỗ to, anh cả phấn khởi đổ cá vào chậu, nào là cá chép đỏ rực, cá quả đen bóng, cá mè trắng óng ánh, cá ngừ ngũ hầu, cá trạch hoa, cá trê đen, Lan Nhi nhìn mà hoa cả mắt, tim đập rộn ràng.
Lớn bằng ngần này rồi nhưng chưa bao giờ cô nhìn thấy nhiều cá như vậy!
“Lũ về thích thật! lũ về mới có cá ăn!” Lan Nhi sung sướng vỗ tay.
“Tội lỗi, tội lỗi!” ông nội chưa bao giờ nói một câu nặng lời với Lan Nhi liền cúi đầu nhắm mắt, miệng không ngớt cầu nguyện trước Quan Thế Âm Bồ Tát: “Trẻ con chưa biết gì, toàn nói nhăng cuội, cầu xin Ngài đừng trách tội!”
Nói rồi ông nội trách nhẹ Lan Nhi: “Sau này không được nói lung tung nữa nghe chưa! Lũ lụt là kiếp nạn ông trời giáng xuống thôn Hoàng Phượng Khoát! Cháu không thấy sao, Hoàng Phượng Khoát biến thành hồ lô ngâm nước rồi!”
Ông lắc mái đầu tóc bạc như sương: “Hoàng Phượng Khoát vốn là quả hồ lô căng mọng, bây giờ bị ngập trong nước lũ, hoa màu mất sạch, còn kéo dài thì chúng ta sẽ thành kiến trong quả hồ lô, sống hay chết nghe theo ý trời thôi!”
Chưa bao giờ Lan Nhi thấy ông nghiêm túc như vậy, sợ quá không dám nói lung tung nữa.
Bố cẩn thận móc từ trong người ra một chiếc khăn tay vải màu trắng, nhẹ nhàng giở ra từng lớp, bên trong là chiếc bánh tỏa mùi thơm mạch nha.
“Ôi, chiếc bánh trắng quá!” mắt Lê Nhi sáng lên, nhìn chiếc bánh không chớp mắt.
Lan Nhi cũng ngửi thấy mùi bánh thơm đầy cám dỗ.
Lũ kéo dài mấy tháng, hiếm khi được ăn tinh bột, Lan Nhi gần quên bánh nướng mùi vị ra sao rồi. Trong mắt Lan Nhi và chị hai lúc này, chiếc bánh nhìn còn đẹp hơn cả mặt trăng trên trời.
Bố nhìn mấy chị em cô, Lan Nhi liền nhìn sang chỗ khác, Lê Nhi nghịch ngợm làm mặt quỷ, nhảy sang một bên bưng trà cho bố.
Bố đỡ chiếc bánh bằng hai tay, cung kính đặt trước mặt ông, ông nhìn một cái, nói: “Mang vào nhà bếp đi”.
Mẹ vội vàng đỡ chiếc bánh, nâng niu nhưbáu vật, cẩn trọng mang vào trong bếp.
Lúc nấu cơm tối, ông nội bắc nồi, Lan Nhi như chú mèo con quanh quẩn cạnh ông, lăng xăng kéo mớ cành đậu tích góp được từ trước khi lũ về ra cạnh ông, để ông chỉ cần với tay là lấy được.
Hồi lũ chưa về, mỗi lần nấu cơm ông thích vùi vài thứ ngon vào đống tro nóng, nướng thơm phức cho mấy đứa cháu ăn.
Ngô vừa bẻ xong, trong đống tro nóng, luôn vùi vài bắp ngô vàng ươm, khi ngô tỏa ra mùi thơm ngọt mát, ông bình tĩnh dùng chiếc que sắt khều ra, bóc lớp lá đã cháy đi, trước mắt là bắp ngô vàng óng, bốn đứa cháu mỗi đứa một bắp, mùi vị thơm ngọt không biết bao nhiêu mà kể! Gặm lấy gặm để, đứa này chỉ đứa kia cười sằng sặc: “Mặt em chẳng khác gì con mèo lười!”, “Hừ, còn cười em, mặt chị còn lem nhem hơn cả mặt mèo mướp!”
Lúc thu hoạch đậu tằm, trong đống tro nóng sẽ vùi một đống đậu tằm xanh. Đậu tằm rất hay, bóc lớp vỏ xanh đi là có thể làm chiếc nhẫn đậu tằm màu xanh biếc, đeo lên ngón tay, nhìn rất sang trọng. Đậu nướng chín xong, bóc lớp vỏ cứng đeo vào ngón tay, ôi, mười đầu ngón tay đều được đội mũ vàng tinh xảo, ngón tay hơi cử động, những chiếc mũ vàng liền nhảy múa, nhìn vô cùng sinh động! Đậu tằm nướng chín vừa tươi vừa mềm, nếu rắc thêm vài hạt muối, ăn ngon không gì sánh bằng. “Cho đĩnh vàng cũng không đổi!” ông nội lúc nào cũng cười đắc ý nói.
Đến khi thu hoạch khoai tây thì vùi trong tro nóng là những củ khoai tây vàng nhạt. Nhìn chúng giống những khuôn mặt xinh xinh mọc lấm tấm tàn nhang, nứt nhẹ sau khi đã nướng chín, lộ ra lớp khoai tây xốp màu vàng bơ. Khoai tây không ngọt, nhưng ăn lại vừa mềm vừa nhuyễn, thơm nức mũi.
Bông lúa mì xanh vừa trổ bông căng tròn không thể cho vào tro nóng, mà phải hơ trên ngọn lửa trước cửa bếp. Ông sẽ bó lúa thành bó đều tăm tắp, nhẫn nại vừa nấu cơm vừa hơ bó lúa trên ngọn lửa, cứ thế hơ cho đến khi nhân hạt lúa tỏa ra mùi thơm, bông lúa xanh nướng chín chà nhẹ trong lòng bàn tay, sau đó thổi nhẹ lớp vỏ, nhân hạt lúa xanh mướt nằm gọn trong lòng bàn tay.
Chà bông lúa rất ráp tay, ông không nỡ để Lan Nhi làm, lúc nào ông cũng chà xong một vốc nhân gạo mới đổ vào tay cho Lan Nhi ăn. Lan Nhi lại không nỡ ăn tất, mà chia làm hai phần, chia cho ông một nửa, rồi hai ông cháu vừa cười vừa nhìn nhau ăn, ăn từng hạt một cách trân quý.
Trong đống tro nóng đó, ông còn nướng chạch, nướng cá to bằng bàn tay và chim sẻ đông cứng bọc đất cho cả nhà ăn, những thứ có vị tanh này đều phải rắc muối lên rồi mới nướng, lúc chín mùi thơm tỏa khắp gian bếp, bốn đứa trẻ con thèm thuồng hít lấy hít để như chú cún con.
.......
Tối hôm nay, ông cận thận dè dặt nướng chiếc bánh đã lạnh ngắt thầy mua từ chợ phiên về.
Lan Nhi mê mẩn nhìn chiếc bánh bột mì chuyển dần sang màu vàng trong ngọn lửa cháy đượm, mùi thơm khiến cô không kìm được nuốt nước miếng ừng ực.
“Lan Nhi hát một bài cho ông nghe đi”. Ông nội khẽ nói.
Lúc nấu nướng trong bếp, ông thích nghe Lan Nhi hát.
Người trong thôn đều biết, Lan Nhi có chất giọng vàng, cô hát còn hay hơn chị hai Lê Nhi, cô là người trầm tính, dịu dàng, không đanh đá mạnh dạn như chị hai.
Chỉ có ở trước mặt ông, Lan Nhi mới nhanh nhẹn hoạt bát, ông bảo cô hát một bài, cô liền hất nhẹ bím tóc ra sau, mạnh dạn cất tiếng hát.
Chất giọng của Lan Nhi mềm mại du dương, tiếng hát như tiếng suối reo, lại như hoa đào nở rộ, nghe tiếng hát mà có cảm giác bay bổng, như đàn bướm trong suốt bay lượn trên trời.
Cô hát bài dân ca “Mười hai tháng đi thăm mẹ”:
“Tháng Giêng thăm mẹ, tay phải thịt lợn tay trái thịt cừu, bánh ngọt xếp đầy hộp;
Ngày hai tháng hai, rồng ngóc đầu, mang biếu mẹ thịt vịt thịt ngan;
Tháng ba có ngày ba tháng ba, biếu mẹ ức gà và trứng gà, bánh trứng hợp khẩu vị mẹ, quạt vải thưa che ngày nắng, xuân về hoa nở mẹ đi du xuân, khấu đầu tế bái trong miếu cổ;
Tháng tư đi thăm mẹ, mang theo cối xay làm bánh ngọt;
Tháng năm Đoan ngọ đi thăm mẹ, mang theo bánh chưng kẹo vừng, cắt nắm ngải cứu giắt lên cửa, mẹ ngửi thấy mùi ngải, biết ngay con gái đến;
Tháng sáu nắng thiêu đốt, ôm quả dưa hấu đi thăm mẹ, mẹ đang nóng ruột ăn miếng dưa hấu ngọt mọng nước;
Tháng bảy có ngày bảy tháng bảy, đổi cho mẹ một con gà;
Ngày rằm tháng tám đi thăm mẹ, bánh táo bánh trung thu đều mang theo, hồng khô đỏ thắm, lê giòn vàng ươm;
Tháng chín cửu trùng dương, nhà nhà bận thu hoạch, mang cho mẹ tinh bột mì, gạo ngon bột trắng cũng mang theo;
Tháng mười có ngày mười tháng mười, mang biếu mẹ há cảo nhân thịt, mẹ ăn xua đi cái rét;
Tháng mười một thăm mẹ trời mưa tuyết, tấm chăn lụa đỏ chỉ tây dương, đường trơn khó đi, vác cho mẹ hai sọt than củi, để mẹ sưởi ấm;
Tháng mười hai thăm mẹ tròn một năm, con đi nghìn dặm lại trở về, bạc hai lạng, tiền đồng hai xâu, tuỳ mẹ ăn, tuỳ mẹ xem, áo bông lụa đỏ, chân đi bốt đen, tay đi găng, chuẩn bị tiếp họ hàng đến chúc Tết.....
Lan Nhi hát liền một mạch mười hai tháng, giọng hát trong trẻo, ngọt ngào. Cô vừa hát, ông vừa vỗ tay gõ nhịp, hai ông cháu chìm trong bài bát, đầu lắc lư, hát đến từ cuối cùng, ông nội cười rạng rỡ, vỗ tay hô to: “Tuyệt! Lan Nhi của ông đúng là Phượng Hoàng vàng, chất giọng quá tuyệt!”
Lan Nhi cười sung sướng, hai má ửng hồng như hoa đào nở rộ.
“Lan Nhi, em hát thì rất hay, nhưng sau này có hiếu thảo với mẹ như lời bài hát không? chị hai Lê Nhi cười nói.
“Đương nhiên rồi! Em còn hiếu thảo với cả ông và bố!” Lan Nhi không cần nghĩ ngợi nói.
“Em phải nhớ những gì em vừa nói đấy!” Lê Nhi làm mặt quỷ, “cả nhà sẽ nhớ giúp em, sau này lớn lên mà không hiếu thảo thì em sẽ bị trời đánh!”
Lan Nhi chưa kịp nói thì ông đã quát: “Lê Nhi nói linh tinh gì thế? Trẻ con không được tuỳ tiện thề thốt!”
Lê Nhi nghe vậy liền tinh nghịch thè lưỡi ra cười, rồi chạy vụt ra ngoài.
Bánh đã nướng xong, chiếc bánh trên tay vàng ươm thơm phức, nướng bánh thơm giòn kiểu này người Hoàng Phượng Khoát gọi là “bánh cháy”.
Ông nội tỉ mỉ bóc lớp vỏ bánh cháy vàng còn nóng thơm nức đặt vào tay Lan Nhi. Đây là phần ngon nhất của chiếc bánh, vừa xốp vừa giòn vừa thơm, ngon tuyệt.
Lan Nhi hầu như đã không còn nhớ lần trước được ăn bánh cháy vàng là lúc nào nữa rồi, cúi xuống nhìn lớp vỏ bánh trong tay, thấy còn thơm hơn cả ngô, nhân lúa mì và đậu tằm.
“Ông ơi, ông ăn đi!” Lan Nhi lại giơ hai tay đưa cho ông vỏ bánh.
“Ngốc ơi, răng ông không cắn được, cháu ăn đi!” Ông cười hiền hậu.
“Thế thì cháu chia cho anh chị cùng ăn!” Lan Nhi nói rồi định chạy đi tìm các anh chị.
Mẹ nghe thấy, nói: “Con ăn đi, các anh chị lớn rồi, không tranh ăn với con đâu”.
Lan Nhi không chịu, chạy ra ngoài gọi: “Anh cả, chị cả, chị hai ơi!”
Bên ngoài yên lặng như tờ, trong sân không có một ai.
“Con mau ăn đi, không cần tìm anh chị nữa, lát nữa là nguội hết”. Mẹ nói.
“Các anh chị cũng đã lâu không được ăn bánh cháy rồi”. Lan Nhi cố chấp nói.
“Ôi”. Mẹ khẽ thở dài, “biết hôm nay nướng bánh cháy, mấy đứa đều tránh đi rồi.....”
Lan Nhi sực nhớ ra năm nay là năm chịu nhiều thiên tai, không còn những ngày tháng ăn uống đầy đủ những năm trước nữa, trong nhà có thứ gì ngon một chút là mọi người lại muốn để dành cho ông người cao tuổi nhất và mình nhỏ tuổi nhất nhà ăn.
Lan Nhi móc chiếc khăn tay màu xanh lam hoa mai trắng ra, cẩn thật đặt vỏ bánh cháy vàng vào trong khăn, để bánh khỏi bị nguội.
Lan Nhi lặng lẽ ngồi lên bậc cửa, chờ anh chị về, cô muốn cùng anh chị ăn vỏ bánh cháy.
Lan Nhi mặc chiếc áo bông đỏ vừa khít, chải hai bím tóc dài mượt, mái trước trán cắt bằng, ngồi trên bậc cửa, nhìn đẹp như bức tranh.
Bữa tối ăn món cá hấp.
Cá ngừ chặt thành nhiều khúc, trộn với chút bột mì, rắc thêm ít muối, đặt lên vỉ hấp.
Hấp xong, mở nắp nồi gỗ táo ra, mùi thơm nhẹ tỏa ra, mang theo chút vị tanh của cá.
Mẹ lấy mấy cái bát hoa xanh, múc mỗi bát hai miếng cá to, lần lượt đưa cho Lê Nhi và Lan Nhi, nói: “Các con mang sang cho hàng xóm sát vách”.
“Bảo Thư, cháu mang cho ông tôm vài miếng, chọn thêm cho ông ấy đầu và đuôi, hồi trẻ ông ấy ăn thịt quen rồi, kén ăn lắm, thích ăn đồ tươi” ông nói với anh cả.
Anh cả vâng một tiếng, rồi bưng chiếc bát to, chọn vài miếng cá, thêm hai cái đầu và hai cái đuôi cá mang đi.
Nhà Lan Nhi ở sát phố, nên theo lệ cũ, Lê Nhi mang sang nhà cô Phượng ở mé bắc, Lan Nhi mang sang nhà Lục Hổ đối diện.
Anh cả chèo thuyền đưa đưa Lan Nhi sang nhà Lục Hổ trước, sau đó lại chèo thuyền cùng Lê Nhi qua nhà cô Phượng gần hơn một chút. Lê Nhi bưng hai bát cá, cười khì khì nói với Lan Nhi: “Xem đây, chiếc thuyền này thuộc về một mình chị rồi!”
Lan Nhi cười không kìm được vẫy vẫy tay như thể Lê Nhi sắp đến một nơi nào xa lắm.
Lục Hổ đang ngồi ở bậc cửa, chăm chú làm chiếc xe bằng thân cây cao lương khô, cơ bản đã thành hình, hai chiếc càng xa khá dài, bánh xe là 4 chiếc hạt bàn tính màu táo đỏ, Lục Hổ đang lắp thêm thanh chống như bốn cái trụ.
Trông thấy Lan Nhi, Lục Hổ vui mừng ngẩng đầu lên cười, lộ ra hai chiếc răng khểnh, chiếc răng khiến nụ cười phúc hậu của Lục Hổ càng thêm lanh lợi, nhìn vô cùng đáng yêu.
Chú Thái Thăng xưa nay luôn hiếu thắng, bình thường chẳng để ý đến ai, nhưng mẹ Lục Hổ lại là người rất hòa nhã, trên môi luôn nở nụ cười thân thiện, khuôn mặt hiền lành chất phác, rất gần gũi với bà con trong thôn, nên mọi người gọi cô là thím Thái tốt bụng.
“Lan Nhi mau vào đây, thím để dành cháu đồ ăn ngon”. Thím Thái vừa nhìn thấy Lan Nhi liền cười mừng rỡ vẫy cô lại.
Lan Nhi bưng bát cá hấp vào nhà, nói: “Thím ơi, đây là cá bố cháu đánh được hôm nay, mẹ bảo cháu mang sang cho nhà mình nếm thử”.
“Thơm quá! Mới ngửi đã biết ngay mẹ con mang cho nhà hàng xóm những miếng cá ngon nhất rồi”, thím Thái cười đỡ bát cá, đổ sang bát nhà mình, rồi rửa sạch bát Lan Nhi vừa mang qua, cho vào mấy cái bánh ngô vừa hấp.
Đúng lúc đó chú Thái Thăng từ phòng ngoài bước vào, liếc nhìn cá hấp trong bát nhà mình, rồi lại nhìn bánh ngô trong bát của Lan Nhi, không nói gì, chỉ khẽ gật đầu với Lan Nhi, rồi lại ra ngoài làm việc của mình.
Thím Thái thấy chú Thái Thăng đã đi ra ngoài, vội kéo tay Lan Nhi vào gian trong, Lan Nhi trông thấy góc tây bắc có đặt một chiếc chum sành tráng men màu xanh nước biển, cao đến ngang người, có rồng nổi màu vàng kim, trông vừa oai phong vừa sang trọng, được lau sạch bóng, một hạt bụi cũng không có.
Thím Thái cẩn thận mở nắp chum, lấy ra một cái muôi gỗ cán dài, rồi múc một thứ màu trắng ra, đặt vào chiếc túi vải xanh xinh xắn của Lan Nhi, sau đó lại múc thêm lần nữa, giờ Lan Nhi mới nhìn rõ, hóa ra là quả trứng ngỗng to.
Lan Nhi hơi chột dạ, cô biết thím Thái đã dấu chú Thái Thăng cho nhà cô trứng ngỗng, nếu để chú Thái Thăng biết, không cần nói cũng biết kết quả ra sao.
Lúc này thím Thái mới đứng thẳng người dậy, nhẹ nhàng đặt cái túi vải xanh vào tay Lan Nhi, mỉm cười nói: “Đây là của thím để dành riêng cho Lan Nhi, lẳng lặng mang về, đừng để người khác nhìn thấy!”
Lan Nhi thừa biết, “người khác” mà thím nói thực ra là chú Thái Thăng.
“Thím Thái, cháu không lấy đâu, thím để lại cho Lục Hổ ăn”. Nói rồi Lan Nhi đặt chiếc túi vải xanh xuống, chạy vội ra ngoài.
“Con bé này thật là!”, thím Thái vội đuổi theo, kéo Lan Nhi lại, nói khẽ: “Trứng ngỗng mới muối vị nhạt vừa miệng, ăn rất ngon! thím để dành cho Lan Nhi”.
Lan Nhi quay lại nhìn khuôn mặt tươi tắn hiền hậu của thím Thái, mắt đỏ hoe, ngoan ngoãn nhận chiếc túi.
Lúc này thím Thái mới cười thư thái.