B
a muốn đi đến nơi nào tiếp theo ạ? Khi cửa cảng mở ra lần nữa?
Nếu thôi, Isa! Nếu cửa được mở ra, ba muốn đi Amrica đầu tiên, dĩ nhiên, nhưng đến Ấn Độ đã.
Tại sao?
Ấn Độ là một đất nước ngập sắc màu xa hoa. Màu hồng rực nóng trong mắt con, màu xanh khiến con chìm đắm.
Điều đó nghe chẳng tốt chút nào.
Ồ, nhưng nó là vậy đấy! Sự phong phú, mọi vật liệu. Chỉ cần nghĩ về thuốc màu! Bản đồ của ba sẽ làm cả thế giới thèm khát. Ba sẽ đến Ấn Độ. Qua Afrik, để mua trầm hương rồi ướp thơm tho giấy cói được mua từ Afrik. Còn con?
Con sẽ đi với ba, đến Ấn Độ. Con muốn giúp ba tìm đủ màu sắc tô điểm cho bản đồ mỹ lệ đủ để tặng cho nữ hoàng.
Nhưng không phải vậy. Tôi muốn khám phá Joya, lấp vào những khoảng trống trung tâm của hòn đảo chúng tôi ở. Tôi đã nói dối.
Và giờ tôi ở đây. Tôi nhìn rừng cây đen xào xạc và bờ biển trải dài, tôi đã thường xuyên mơ tưởng về nơi này, một nơi cho cảm giác không gian xa xôi và nhiệm màu như ở Ấn Độ mà ba đã đi. Nhưng bây giờ cơ thể tôi đau nhức và vòng đeo tay của Lupe đã bị hỏng nằm trong túi của tôi. Ít nhất thì ba không ở đây. Với chân cẳng đau của mình, ông sẽ không bao giờ có thể đối phó với việc cưỡi ngựa liên miên nhiều ngày, hoặc chiến đấu với những kẻ tấn công như tôi đã gặp.
Hoặc, một giọng nói thì thầm, dĩ nhiên ông ấy có thể làm được. Có lẽ tôi đang thiên vị và quá tử tế với chính bản thân mình. Có lẽ là tôi quá ích kỷ khi tham gia cuộc viễn chinh này. Có thể điều này thật ngu ngốc.
Một chiếc bóng đổ lên cổ tôi một lần nữa, nhưng tôi biết sẽ không có ai sau lưng tôi. Không có bím tóc sau đầu làm tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng lại thiếu sự bảo vệ. Tôi nghiêng người cách xa lưng của Pablo.
Tất cả đều có liên kết với nhau bằng cách nào đó. Không chỉ Cata, mà cả động vật ở vịnh cũng vậy, lẩn trốn như loài sơn ca. Ngôi làng bị phá hủy. Cuộc tập kích. Mối liên quan phải ở đó, nhưng chúng như mạng tơ nhện, lóe sáng trong một phần tâm trí của tôi.
Phong cảnh thay đổi qua từng giờ, qua ngôi làng hoang sơ này đến ngôi làng hoang sơ khác và đến giữa ngày thứ ba thì có chút thay đổi. Mây tan đi và ánh mặt trời gay gắt rọi xuống lưng chúng tôi. Đất nâng lên cao hơn biển tạo nên một vách đá phía trái chúng tôi, nước xô vào đá bắn từng giọt lên má tôi, một cơn gió thổi giật chiếc mũ của Marquez xuống biển.
Thống đốc không nói chuyện gì trừ lúc ra lệnh cho chúng tôi ngủ nghỉ vài canh giờ, tất cả chúng tôi trằn trọc với tiếng gió hú trong đêm. Vai của ông ta cong lên, và tôi tự hỏi ông ta có cảm thấy sức nặng trong lồng ngực của mình giống như tôi, cảm giác nghẹn thít trong thanh quản.
Mặt dây chuyền nặng nề trên cổ tôi, nhưng tôi sẽ không cởi nó ra. Tôi không thể làm thế cho đến khi chúng tôi tìm ra Lupe. Cơn gió tạt qua bờm ngựa và đôi mắt tôi cay xè rơi lệ, tia nắng mặt trời buổi chiều như tan ra.
Chúng tôi sớm khởi hành qua cánh đồng mọc um tùm, rõ ràng là bị bỏ hoang. Chúng tôi đang đến gần ngôi làng kế tiếp, có lẽ cũng là một đống hoang tàn. Mặt trời tiến đến gần chân trời, và những trận chiến liên tục với gió đã làm chúng tôi cũng như lũ ngựa kiệt quệ dần.
Gió biển thổi rất mạnh từ Vòng Tròn Băng Giá quanh Carment, ba từng giải thích lần theo đường gió trên bản đồ của mẹ. Cây trồng phát triển theo chiều ngang, người ta nói Carments cũng ở sát mặt đất như thể bị bao bọc bởi luồng khí. Chúng ta là tổ hợp của mọi vật quanh mình. Da thịt của mỗi người đều ẩn chứa một tấm bản đồ dẫn lối theo từng bước chúng ta đi và thậm chí là cách chúng ta trưởng thành.
Cuối cùng, đường dốc đổ mình tới những tòa nhà. Không phải một đống đổ nát bất thường, mà là những ngôi nhà nguyên vẹn.
“Thưa ông,” Tôi ngập ngừng. “Những vết rãnh quanh đây.”
“Thằng bé nói đúng,” Marquez nói. Các vết rãnh đi men xung quanh hoang làng Carment, rồi rẽ hướng và chạy thẳng vào khu rừng ở chân dốc.
Tôi quan sát các vết ố của rừng cây lá kim, cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng. Có phải chúng đang quan sát chúng tôi?
“Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta dừng lại ở đây, thưa ngài,” Marquez nói, trước khi Thống đốc có thể ngắt lời. “Mọi người đều mệt lả, những con ngựa cũng cần được nghỉ ngơi.”
“Ngươi có ý kiến gì?” Thống đốc Adori cáu kỉnh hỏi.
“Tốt hơn cần chắc rằng ngôi làng này an toàn, hãy cử người canh gác, và khi trời sáng chúng ta sẽ dò xét nó sau,” Marquez nói, hạ thấp giọng khiến tôi phải căng tai nghe. “Ở gần rừng sẽ rất bất lợi.”
Thống đốc cằn nhằn và quay về phía tôi. “Nhóc, những dấu rãnh đi đến nơi nào?”
Tôi kiểm tra trên bản đồ của mẹ, mặc dù tôi biết chẳng có mấy thông tin cụ thể trong đó. “Là Marisma, thưa ông.”
“Chỉ có đầm lầy? Không có ngôi làng nào?”
“Không có trên bản đồ này, thưa ông.”
Thống đốc đấm tay vào tường, bùn nứt vỡ. Tôi co rúm người lại và Pablo bước một bước về phía chúng tôi, nhưng Thống đốc chỉ phân công nhiệm vụ và sải bước đi thẳng.
Chúng tôi buộc những con ngựa gần máng ăn. Pablo ở lại để chăm chúng trong khi chúng tôi bước vào ngôi làng tĩnh mịch kia. Tôi đi vào giữa đoàn, tay siết chặt chuôi kiếm, nhưng không có gì xảy ra. Không có ai ở đó ngoài chúng tôi.
Carment như những gì tôi nghĩ. Nó trông khá giống Gromera nhưng ngược lại, dốc lên về phía bờ biển thay vì xuống. Ngay cả các bản lề cửa đều đặt ngược lại với làng tôi. Một số ngôi nhà lớn như thể ghép cả nhà của Pablo và tôi vào, với cửa bằng gỗ mun Tôi lau sạch mạng nhện bám trên một chiếc cửa. Sóng biển được khắc xoáy sâu và cuộn tròn trên đó. Tôi quét tiếp và một con tàu lớn hoàn chỉnh với buồm hiện ra giữa tâm cánh cửa. Màu sơn đỏ bong tróc còn tàn dư trên cánh buồm.
Tôi đứng dậy và cố hình dung toàn bộ bề mặt sơn phủ. Màu xanh của những con sóng, cánh buồm đỏ nhấp nhô trên bọt biển trắng. Thật đẹp làm sao!
Nỗi nhớ nhà nhức nhối trong tôi, với cánh cửa bong lớp sơn màu xanh lá cây và bức tường bao phủ bản đồ, và ba. Tôi quay đi và mau chóng lau nước mắt trong khi Marquez lảng vảng qua lại.
Tôi theo hắn ta lên triền dốc ngược gió. Chúng tôi đi qua nhiều cánh cửa chạm trổ, nhiều ngôi nhà với lớp sơn tường bị bong, cho đến khi chúng tôi đến một không gian trống rỗng, giống như một quảng trường hình cung, những tòa nhà được đặt dọc theo cạnh vòng cung trông như một khán đài. Vách đá ở bên ngoài. Gió biển ở đây lạnh hơn bất cứ điều gì tôi từng cảm nhận, và tôi quấn áo khoác của Gabo kín người.
Xa xa dưới kia, biển cuộn sóng và những tảng đá vỡ ra nhiều mảnh lăn lông lốc. Ba nói rằng ở đâu đó hướng này là Vòng Tròn Băng Giá, nơi những con gấu trắng ở và hơi thở từ mũi cũng đóng băng lại.
Ở ngay bên dưới tôi là một bến cảng, được bảo vệ bởi một tường đá. Bất kỳ tàu nào đi qua đều neo lại đây. Một hàng đá tạo thành vách núi dẫn xuống vịnh và không chút nghĩ ngợi, tôi bắt đầu đi xuống, bấu chặt vào đá đến nỗi các khớp tay tê tái. Gió lặng dần khi tôi đi vào hang đá, và tôi nhảy qua ba bậc cuối, hạ cánh xuống hạt cát mịn. Cát ở đây có màu trắng sáng kỳ lạ còn ở Gromera thì đen.
Tôi lấy đôi ủng của Gabo ra và cuộn lại dưới gấu quần. Lòng bàn chân của tôi phồng rộp mụn nước, còn gót chân nứt nẻ.
Tôi nhìn lên vách đá tối tăm trải dài trên cao để chắc rằng mình không bị theo dõi, nhưng tôi phỏng đoán hẳn có ai đã nhận thấy tôi bỏ đi. Tự trấn an mình, tôi bước về phía trước và đi vào vùng nước nông.
Nước châm vào da tôi, ngứa ngáy như bị côn trùng đốt, nhưng ngay sau đó ngón chân của tôi tê cóng. Tôi đang ở biển, còn kẻ đã cấm đoán chúng tôi xuống biển chỉ ở bên kia vách đá. Tôi nhắm mắt lại. Tôi muốn bơi, nhưng dẫu cho mẹ đã dạy tôi và Gabo xử trí như thế nào trong một hồ nhỏ gần mỏ, tôi cũng không dám liều mình.
Ba nói rằng Thống đốc cấm bơi để ngăn chặn bất cứ ai cố tình bỏ trốn.
Dù rằng cũng chẳng ai đi xa được. Hải lưu luôn thay đổi và đại dương đầy nỗi kinh hoàng - sứa, cá mập, rắn biển.
Tại sao rời khỏi đại dương khiến mọi người buồn vậy, ba?
Bởi vì nó cũng đầy ắp những điều kỳ diệu, và có thể đưa con đến bất cứ nơi nào trên thế giới này.
“Bất cứ nơi nào trên thế giới này”, tôi thì thầm với mặt mề đay. “Cậu nghe thấy mà phải không Lupe? Có rất nhiều nơi chúng ta phải thấy.”
Một cú đập mạnh từ phía sau tôi. Một ngón tay lạnh chạy dọc sóng lưng tôi. Trước khi tôi có thể quay lại, cánh tay ôm lấy eo tôi. Nhấc bổng tôi lên.
Tôi đá chân, xoắn người và loay hoay một cách tuyệt vọng, nhưng cánh tay vẫn ôm cứng và người đó đang chạy, mang tôi đến với những con sóng.
Pablo bật cười. Anh dừng chạy nâng cao đùi, giữ tôi trên mặt nước.
“Hít một hơi nào!”
Và anh ấy ném tôi xuống biển.
***
Cơ thể tôi thả lỏng trôi theo dòng nước. Tôi đã quên mất cảm giác không trọng lượng, nhớ cả khi bật cười Gabo khi em ấy xoay xở để mẹ nâng nửa người trong hồ. Bơi trên biển thì rất khác. Làn nước đen kịt, và không lâu sau tôi đã lên bờ ngay vì sợ sẽ có thứ gì đó từ dưới biển tóm lấy mình.
Tôi chà hai tay vào nhau để lấy hơi ấm, nhìn Pablo bơi, cái đầu trơn bóng của anh ấy như con hải cẩu. Anh lội ra khỏi mặt nước và ngồi phịch xuống bên cạnh tôi khi chân tôi bắt đầu khô.
Anh tiếp tục cuộc trò chuyện, “Điều này lạ hơn những gì anh tưởng.”
“Em cũng thấy thế,” tôi nói, và anh ấy khịt mũi. “À, thì, em kỳ lạ nhất ở đây đấy.”
“Anh biết em muốn nói gì mà.” Tôi cảm thấy gò má nóng bừng. “Đừng có cười em!”
“Anh xin lỗi.” Giọng anh chân thành. “Anh cũng từng bị cười nhạo, em biết đấy. Vì chơi cùng em và Gabo.”
“Tại sao chứ?”
“Vì mấy đứa nhỏ hơn. Họ thường gọi anh là một thằng ngố.”
“Ai chứ?”
“Mấy thằng bạn đồng trang lứa.” Anh nói, cho hạt cát rơi xuống kẽ tay. “Một thằng ngố. Đơn giản là vậy.”
“Nhạt thật đấy.”
Anh phát ra tiếng cười ôn hòa. “Có lẽ vậy.”
Tôi liếc xéo anh. “Có phải đó là lý do anh ngừng tới thăm và chơi cùng tụi em?”
Pablo vẫn tiếp tục. “Anh xin lỗi vì đã không tới lúc Gabo…”
Tôi cảm thấy thanh âm quen thuộc trong cổ họng mình. “Được rồi.”
“Em ổn chứ? Tất cả những chuyện này…” Bàn tay anh tiến tới gần tay tôi nhưng rồi anh dừng lại, rút tay lại và buông thõng trên đùi mình. “Em hẳn là đang sợ hãi.”
“Em không có.”
“Anh có.”
Lại sự yên lặng khác.
“Anh có nghĩ chúng ta sẽ tìm thấy cậu ấy không?”, Tôi nói. “Lupe ấy.”
“Có chứ”, Pablo nói nhanh, chắc chắn, hơi ấm truyền qua tôi. Tôi lần tìm chiếc vòng tay qua túi quần bị ướt của mình.
“Tốt rồi.”
Chúng tôi ngồi ngắm sao sáng lờ mờ trên bầu trời. tôi đã cố gắng để đọc chúng, không giống cách bà Masha tìm điềm báo, mà theo cách ba chỉ, tìm phương hướng. Sao Bắc Đẩu luôn soi tỏ trên đầu chúng tôi, không phải là vì tinh tú sáng nhất trên bầu trời nhưng cố định nhất. Ba luôn luôn gọi nó là một mỏ neo, một ngôi sao dẫn lối trên bầu trời.
“Mảnh gỗ, cái thứ phát sáng đó.” Giọng nói của Pablo làm tôi giật mình. “Đó là từ cây gậy của ba em, phải không?”
Tôi gật đầu, tội nhận ra mình gần như đã quên mất Thống đốc đang giữ nó.
“Em thực sự không biết nó đến từ đâu sao? Tại sao nó phát sáng được?”
“Em không biết sao nó lại phát sáng. Nhưng nó đến từ chiếc thuyền. Con thuyền lớn của ông tổ nhà em.”
“Một chiếc thuyền ư? Chuyện gì đã xảy ra?”
“Pablo,” tôi trêu chọc, “Anh có muốn nghe em kể chuyện không?”
“Không,” anh gắt gỏng, nằm ngửa trên bãi cát. Một khoảnh khắc yên lặng. “Có thể.”
Tôi nằm bên cạnh anh ấy, đôi mắt nhìn thẳng về sao Bắc. Giọng nói của ba văng vẳng, mạnh mẽ và sâu sắc, và tôi nói những lời như cách ông đã kể rất nhiều lần vào những đêm đầy sao như tối nay.
Gỗ là tất cả những phần trên con tàu của ông tổ nhà Riosse. Nó được xây dựng từ một cây gỗ đặc biệt, nhẹ như xương của loài diệc bạch. Nhưng đó không phải là điều đặc biệt nhất. Khi ông bào gỗ, vỏ cây dưới móng tay của ông tỏa sáng. Mỗi vết cắt lại làm tấm ván sáng lên lấp lánh. Móng tay dễ dàng đẽo gỗ mà không làm nó nứt vỡ. Chiếc thuyền dần hình thành bên dưới ngón tay ông một cách đơn giản, cứ như cái cây tự biến đổi và tiếp nhận một hình thể mới. Hai tháng sau Luna Flotante - Trăng Treo - đã được hoàn thành, tráng bên ngoài một lớp nhựa cây máu rồng để khi màn đêm buông xuống nó sáng lên như một đài lửa khổng lồ. Cá bị thu hút bởi ánh sáng nên ông có thể vớt chúng ra khỏi đại dương chỉ bằng đôi bàn tay của mình. Nhưng vận may của ông không kéo dài được lâu.
Một đêm kia, một cơn gió mạnh đã cuốn ông đi thật xa. Một đám mây đen cuộn từ bờ biển xa xôi của Afrik và tới ngay chỗ thuyền của ông. Mưa trút như lũ, và thuyền văng ra vỡ vụn trên mặt nước, gió cuốn chúng đi. Ông tự trói mình vào cột buồm nhưng nó gãy đổ. Ông bị cuốn xuống biển khi thuyền nhấp nhô trên làn sóng khổng lồ nhưng vẫn trôi trên mặt biển. Giông tố của đại dương đẩy con thuyền lên trời như một con chim kỳ dị. Rồi ông bị lôi xuống dưới. Ông biết rằng cái chết cận kề; phổi dồn ép và đầu choáng váng.
Nhưng ông đã không chết.
Cột buồm hỏng trôi trên mặt nước, và giữ ông ấy ở đó cho đến khi bão tan. Ông được một con tàu đi qua giải cứu. Các phi hành đoàn đã rất kinh ngạc bởi lời kể lắp bắp. Họ chẳng nhìn thấy cơn bão nào và dĩ nhiên cũng không có thuyền bay. Bằng chứng duy nhất là cột buồm đỡ ngang cơ thể của ông.
Ba biết là con đang nghi ngờ ba, Isa, nhưng ba tin chắc. Ba tin rằng thuyền đó không phải của trái đất này, hay ít nhất, là không phải của người trái đất. Hòn đảo đã tặng nó cho ông và rồi lấy lại. Tất cả mọi thứ đều có một chu kỳ, Isabella, thói quen trở về với cội nguồn. Mùa màng, nước, cuộc sống, có lẽ ngay cả cây. Con không cần một bản đồ để tìm đường về. Mặc dù có nó giúp ích hơn nhiều. Giờ con đã tin chưa?