Ngoại ô Tô-ky-ô một buổi chiều mùa thu. Mặt vịnh phẳng lặng in hình những ngôi nhà cao vút, những ống khói vươn cao trên bầu trời xám xịt. Xa xa ở ngoài khơi, những con tàu ngoại quốc đang cập bến rúc những hồi còi rộn rã chào hải cảng.
Huyền Trang đi thơ thẩn trên bến cảng, mắt đăm đắm nhìn ra khơi xa. Cứ mỗi lần thấy bóng một con tàu từ xa tiến vào cô lại chăm chắm nhìn lên đài chỉ huy tìm lá cờ thân yêu của Tổ quốc. Đã mấy chiều, ngày nào cô cũng xin phép ba đi đón Hải rồi lại thất vọng trở về. Nỗi nhớ mong làm cô cồn cào gan ruột, cô như người mất hồn, bỏ cả thói quen chơi đàn hằng ngày. Kinnaxan Thu, đứa em gái kế sau cô hồn nhiên, suốt ngày vui đùa, thấy chị như vậy càng trêu nhiều. Nhiều lúc Huyền Trang bực đến phát khóc vì nó khiến ba cô phải quát lên nó mới buông tha chị. Nhà có hai chị em mà mỗi đứa một tính, Trang dịu dàng chín chắn còn Thu sôi nổi hiếu động, mang tên Nhật, ăn mặc nói năng như một người Nhật chính cống. Trang cũng không trách em, từ ngày má cô mất đi, ba bận việc kinh doanh, cô thì đang lo cho kỳ thi tốt nghiệp đại học thương mại. Thu đi học với bạn bè, tiếp thu lối sống của người Nhật nhưng nó rất quý và thương chị.
*
Màn đêm đang buông xuống, thành phố đã lên đèn, mặt nước vịnh lung linh dưới ánh sáng của những ngọn đèn cao áp tỏa ra. Cả một vùng rực sáng, trên con đường nhấp nháy phát ra từ những bảng quảng cáo và dòng xe nườm nượp lao nhanh.
Lại một ngày thất vọng, mong chờ vô ích. Trang bần thần trở về. Ba cô vẫn làm việc ở hãng chưa về. Thu cũng vắng mặt, chắc nó lại đi khiêu vũ với lũ bạn rồi. Bước lên thềm căn nhà rộng rãi, chỉ có con chó bông xinh xắn chạy ra cọ mình vào chân cô chủ kêu ư ử vui mừng. Bồng con chó trên tay, Trang về phòng của mình, căn phòng trên lầu hai có ban công nhìn ra vịnh Tô-ky-ô qua một con đường nhỏ yên tĩnh. Thỉnh thoảng một chiếc xe du lịch lao vút qua một vài người mặc ki-mô-nô đang đi dạo dưới bóng những cây liễu rủ. Kéo chiếc ri đô hoa sang một bên, bất giác Trang thở dài, bần thần nhìn cây pi-a-nô với hàng phím đen vương một làn bụi mỏng do hơn cả tuần nay không dùng đến.
Lau sạch bụi, Trang ngồi trước cây đàn chơi một bài dân ca Nam Bộ, âm thanh làm lòng cô dịu lại truyền tình cảm vào đôi bàn tay trắng ngần. Hết bản dân ca, Trang chuyển sang bản Tiến quân ca. Những ngón tay đã ngừng nhưng âm thanh dạt dào sôi động còn âm vang mãi trong căn phòng và lan xa ra ngoài khung cửa sổ gợi ký ức cô về một miền đất quê hương xa xăm:
Nghe kể ngày ấy - khi cô chưa ra đời, ba cô còn là một du kích can trường của Chiến khu Đồng Tháp Mười dọc ngang kênh rạch, sình lầy, sau một trận chống càn của quân phát xít Nhật, ba cô trở lại ấp. Trên đường về ba cô gặp một người lính Nhật lạc đơn vị đã ba ngày, anh ta đang thụt sâu vào một đìa cỏ lác ngập đến tận cổ. Cái đói mệt và những con đỉa kềnh càng hút no máu làm người lính ấy kiệt sức không sao lên được chỉ còn chờ chết. Phải vất vả lắm ba cô mới kéo được người lính Nhật lên. Anh ta đói lả, ba cô phải cõng trên lưng. Trên đường về ấp, hai người lại vấp phải quả lựu đạn do giặc rút đi cài lại. Người lính Nhật bị hất ra xa, ba cô trên người chi chít mảnh đạn, ngất đi. Khi tỉnh lại thấy mình nằm trong bệnh viện của đơn vị quân Nhật. Số là khi nghe tiếng nổ, một đơn vị quân Nhật đóng đồn trú gần đó đã kéo đến và đưa hai người vào bệnh viện. Đang điều trị, vết thương chưa lành thì Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Quân đồng minh kéo vào giải giáp tước khí giới quân Nhật. Đội quân Nhật thất trận tháo chạy về nước, mang theo cả ba cô. Về nước, người lính Nhật ấy nhờ có vốn của gia đình mở xưởng sản xuất giày dép. Ba cô vốn là người thông minh tháo vát được giao công việc quản lý. Thời gian trôi đi, ba cô lập gia đình, má cô là con gái một gia đình Việt kiều lưu lạc sang Nhật từ trước. Hai người sống hòa thuận và sinh được Trang và Thu. Huyền Trang lớn lên thừa hưởng sắc đẹp và tính nết dịu dàng của má. Hằng ngày sau giờ đi học, Trang được má dạy khâu vá thêu thùa, nấu những món ăn dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam. Má cô còn dạy Trang học nhạc và hát những làn điệu dân ca Nam Bộ mượt mà sâu lắng tình cảm quê hương. Thức dậy trong cô nỗi nhớ nhung ao ước được một lần trở về đất nước, thăm lại cội nguồn sau những năm tháng biến động. Rồi má cô chết đột ngột sau một tai nạn giao thông. Chiến tranh chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam đã làm mất hết những sợi dây liên lạc với quê hương. Ba cô ở vậy nuôi chị em Trang và lao vào công việc kinh doanh của hãng.
Sau khi má cô mất, một hôm lục lại hành trang, ba cô tìm thấy một kỷ vật thiêng liêng: Cuốn sổ tay ông dùng từ hồi còn trẻ khi còn đứng chân trong Vệ quốc đoàn. Cầm cuốn sổ, ông Năm run run xúc động mắt nhòa đi chớp chớp ngăn không cho những giọt nước mắt chảy dài trên gò má cương nghị. Khi xem cuốn sổ ba đưa, Trang vô cùng xúc động và rất thích bài Tiến quân ca. Thế là từ đấy ngoài những bản nhạc của Mô-da, Bét-thô-ven cô được học ở trường còn thường chơi bài Tiến quân ca khi mỗi lần nhớ về quê cha đất tổ.
*
Một buổi chiều cũng như mọi lần, sau khi chơi xong bản Tiến quân ca, Trang đứng dậy định khép cửa sổ chợt cô trông thấy một thanh niên Việt Nam, một thủy thủ đang đứng bên kia đường dưới bóng cây liễu, ngóng lên lầu nơi có tiếng đàn vừa phát ra. Mấy ngày sau đó, chiều nào Trang cũng thấy người thanh niên ấy đứng dưới bóng cây nghe Trang chơi đàn rồi lại lững thững quay về bến cảng. Chột dạ, một hôm cô không chơi đàn vào giờ đã định nữa. Đang đọc sách, nghe tiếng chuông ngoài cửa. Trang đứng dậy ra mở. Trước mặt cô, người thanh niên có vẻ lúng túng:
- Xin lỗi, có phải chính chị là người mọi hôm vẫn chơi bài Tiến quân ca đó không?
Tiếng anh trầm và ấm. Trang ngập ngừng:
- Vâng! Mời ông vào nhà, xin lỗi tôi chưa được hân hạnh tiếp xúc với ông.
Cầm ly nước Trang đưa, người thanh niên cười:
- Xin đừng gọi tôi là ông. Chị cứ gọi tôi là Hải - thuỷ thủ tàu Hoa phượng đỏ thuộc VOSCO Công ty Vận tải biển Việt Nam.
- Thế tàu… anh Hải cập bến lâu chưa? Sao anh lại biết gia đình chúng tôi người Việt Nam mà tìm đến thăm?
- Tàu chúng tôi cập bến đã gần chục ngày rồi. Đang dỡ và chờ bốc xếp hàng lên tàu chở về Việt Nam. Tranh thủ thời gian nghỉ, tôi xin phép lên bờ. Mấy hôm trước tình cờ đi qua đây chợt nghe tiếng đàn và giọng hát Việt Nam, khiến tôi sửng sốt - Hải cười - Tôi vốn cũng rất yêu âm nhạc mà chị. Hôm nay đi qua, thấy vắng tiếng đàn, tưởng người chơi đàn bị ốm, tôi đánh liều rẽ vào thăm. Thật không ngờ lại được gặp chính chị.
Trang xấu hổ:
- Tôi chơi đàn dở lắm phải không anh?
Đặt ly nước xuống, Hải nhìn sâu vào đôi mắt xinh đẹp của Trang anh nói:
- Không! Chị chơi đàn hay lắm, nhất là những bản nhạc cổ điển. Riêng bản Tiến quân ca và một số bản dân ca Việt Nam chỉ cần chị sửa lại một chút làn điệu là được thôi mà.
Kéo Hải đến bên cây đàn, Trang nói:
- Anh hướng dẫn cho tôi đàn và hát đi. Từ khi má mất chẳng có ai bày cho cả.
- Tôi toàn tự học đó thôi, nên chẳng biết hay dở thế nào.
Thoáng chút ngần ngại rồi Hải mạnh bạo:
- Vâng! Nếu cô cho phép.
Giọng Hải trầm và ấm, lần đầu tiên được nghe một người con trai từ quê hương xứ sở hát những bài hát của quê hương khiến Trang xúc động bồi hồi. Ngồi nghe anh hát mà tâm trí cô để tận ở đâu kia, nơi mảnh đất mà cha mẹ cô thường nhắc tới cho hai con của họ về chân trời xa xăm chỉ có ở trong trí tưởng tượng. Nơi dưới bầu trời rực rỡ nắng vàng là mảnh đất chằng chịt dọc ngang kênh rạch, xuồng ghe tấp nập dưới bóng của hàng dừa xứ sở. Cánh đồng Tháp Mười mênh mông giữa hoa sen bát ngát trong mùa con nước trở…
Bài hát đã dứt, nhưng tâm hồn người con gái chưa được biết quê hương vẫn còn để ở nơi xa. Hải im lặng để cho Trang sống với những ước mong của mình. Có tiếng còi xe, cả hai cùng giật mình nhìn xuống: Chiếc Toyota màu sữa vừa đậu trước sân.
- Ba em về đó anh, anh cứ ngồi đó nghen, để em xuống đón.
Chẳng hiểu Trang giới thiệu thế nào mà Hải vừa lúng túng “Chào bác”, ông đã ôm chầm lấy anh lắc mạnh:
- Trời ơi! Cơn gió lành nào đã run rủi cho tôi gặp người đồng hương thế này.
- Trang! Lấy bia ra đây cho ba mời khách nghe con.
- Dạ!
Mặc dù ba và Trang cố giữ ở lại dùng cơm với gia đình. Hải vẫn xin phép phải trở lại tàu vì đã hết giờ. Biết không thể giữ được anh, ba Trang tiễn Hải ra tận cổng, nắm tay anh thật chặt, ông nói:
- Tôi xa quê hương đã lâu, lại bận làm ăn không về thăm được. Anh về cho tôi gửi lời hỏi thăm anh em trên tàu. Nếu rảnh, anh cứ đến đây chơi với gia đình tôi, kể chuyện quê hương mình cho chúng tôi nghe, anh Hải nhé. Đừng ngại điều gì cả.
- Dạ cám ơn bác và gia đình.
Mấy ngày sau đó, Hải xin phép thuyền trưởng được đến thăm gia đình bác Năm. Nghe Hải nói, thuyền trưởng cười lớn, vỗ vai anh:
- Thuận lợi đấy! Thế nào xem tình hình ra sao rồi xin phép ông đưa cô ấy về Việt Nam hàn gắn vết thương lòng của cậu đi chứ.
Hải đỏ mặt:
- Anh cứ đùa, người ta xinh đẹp, công việc đàng hoàng, cuộc sống của người ta đầy đủ ai người ta chấp nhận hoàn cảnh khó khăn của tôi?
- Đùa là thế nào? Nghiêm túc đấy! Thôi đi đi, cho mình gửi lời hỏi thăm gia đình nghe.
Chiều nay Trang nghỉ việc sớm ở hãng, về đến nhà ba vẫn chưa về. Chỉ có tờ giấy ở phòng khách gia đình: “Chiều nay em bận cùng các bạn họp bàn chuẩn bị cho đoàn biểu tình phản đối tàu Mỹ mang tên lửa hạt nhân sắp cập bến nước mình. Chị và ba cứ ăn cơm trước. Nếu anh Hải đến, chị kêu ảnh chờ em nghen chị”.
Cái con bé, suốt ngày hội họp, đến bữa chẳng chịu về ăn nữa. Thầm nghĩ vậy, Trang dọn dẹp nhà cửa và vào bếp làm món bánh xèo má dạy hồi trước. Ba đã về, vừa cởi áo khoác ngoài vừa nói vang vang:
- Trang về lâu chưa con? À mà anh Hải hôm nay không đến hả con?
- Dạ, con vừa về. Không thấy ảnh đến ba ạ, chắc ảnh mắc công chuyện đó ba. A, mà ba ơi! Ảnh đến kìa…
- Ủa, anh Hải! Ba con tôi vừa nhắc anh xong, vào nhà đi anh.
- Dạ!
- Trang ơi! Xem có cái gì mang ra tiếp khách con.
- Chu cha! Bánh xèo! Trang giỏi quá ha! - Hải kêu lên, ngạc nhiên.
- Đâu có anh! Má em bày cho đó, em vụng về lắm, có biết làm chi đâu anh.
*
Gần 40 năm xa quê hương, do điều kiện bận kinh doanh nên ông Năm ít có thời gian ngồi hàn huyên tâm sự với những người Việt Nam mà ông thường gọi là “người mình”. Hôm nay bên ly cà phê đặc sánh ông Năm đã kể cho Hải nghe về cuộc đời của mình. Ôn lại những kỷ niệm của thời thơ ấu trên quê hương và những tháng năm tuổi trẻ đi đánh giặc cùng đồng đội, ông nói:
- Quê tôi vốn ở tít miệt vùng đất mũi Cà Mau, ba má tôi chỉ sanh được tôi và một đứa em gái, con nhỏ đau quặt quẹo luôn. Ba tôi, ông vốn là một tay thợ săn cá sấu cừ khôi, một tài công lão luyện. Trong một lần đi biển, tàu của ông gặp bọn hải tặc Thái Lan, ông cùng các bạn đã chiến đấu đến cùng để bảo vệ con tàu. Cả sáu người đàn ông đều bị giết. Ba tôi không về, gia đình tôi lâm vào cảnh khó khăn, con em tôi đau bệnh rồi mất, má tôi đau buồn lâm bệnh rồi bả cũng mất sau đó ít lâu. Tôi sống trong vòng tay của bà con chòm xóm; một hôm có một võ sư lưu lạc đến vùng tôi. Ổng vốn sống độc thân, mở một lò dạy võ ở Cần Thơ. Do không chịu nổi bất công, ổng đã đánh chết một tên “cò” của Sở mật thám Nam Kỳ. Bị truy nã, ổng phải trốn xuống vùng tôi. Thấy hoàn cảnh tôi, ổng thương tình cho tôi đi theo. Hai thầy trò tôi lưu lạc đến vùng Tháp Mười, rồi ổng mất ở đó; tôi lớn lên tham gia du kích rồi số phận đã run rủi đưa tôi đến mảnh đất Phù Tang này. Không một tin tức người thân ở quê hương. Tôi chỉ mong gặp lại một người mình để trò chuyện và một ngày nào đó được về thăm quê hương đất nước. Còn anh Hải, kể chuyện quê hương gia đình cho tôi nghe với.
- Thưa bác, mấy chục năm chiến tranh tàn khốc đã làm cho bao gia đình ly tán, bao người thân lưu lạc, cũng như bác, chiến tranh cũng để lại cho gia đình cháu một hậu quả nặng nề.
Cháu sinh ra và lớn lên ở bên dòng kinh Xáng, dưới bóng của hàng dừa, ba má cháu hiếm hoi chỉ sinh được mình cháu, do đó hai ông bà cố sức nuôi cháu ăn học. Năm cháu hăm hai tuổi, ba má cháu bắt cháu lấy vợ để ông bà muốn sớm có cháu để bồng bế mà. Vợ cháu là con gái một người hàng xóm hiền lành, tốt bụng. Lúc ấy là năm 1971, cháu đang học tại Nhạc viện Cần Thơ. Chiến tranh ngày càng ác liệt, để bù đắp lại sự thiếu hụt về quân số, chúng cháu nhận được lệnh gọi vào quân dịch. Vốn căm ghét cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ và tay sai gây ra, cháu bỏ quân trường trốn về quê. Bọn ngụy quân, ngụy quyền truy lùng ráo riết quá, cháu suốt ngày phải trú dưới căn hầm bí mật do chính tay ba má và vợ cháu đào trong góc vườn. Vào giữa năm 1973, sau Hiệp định Pa-ri được ký kết, lúc này chúng cháu đã có một cháu trai hai tuổi. Có lẽ suốt đời cháu sẽ không quên được một buổi chiều hè năm 1973 bi thảm ấy: Bữa đó cháu đang cầm chén cơm mà vợ cháu vừa đưa xuống của bữa trưa. Vừa bưng chén cơm, cháu vội đặt ngay xuống áp tai vào vách hầm, nghe như có tiếng máy bay. Vừa lúc đó vợ cháu đi tới gần cửa hầm nói nhỏ vọng vào: “Anh Hải! Tụi nó tới đó, cẩn thận nghe anh. Không được lên đó nghe!”. Rồi mặt đất rùng mình chao đảo dưới mưa bom và pháo bầy, ngớt tiếng bom pháo là tiếng tiểu liên cực nhanh nổ từng tràng dài, tiếng lửa cháy rần rật. Tiếng người, heo gà kêu hoảng loạn đến gần. Một tràng tiểu liên cực nhanh đanh giòn, nổ rất gần, tiếng những trái dừa rơi bùm bụp. Hé mắt nhìn qua cửa hầm thấy một tốp lính dù đang hùng hổ vào sân, cháu vội ngồi thụp xuống, kéo kín cửa hầm lại, tim thắt lại lo lắng. Một giọng hùng hổ quát lên: “Ê, bà già kia! Con bà đâu, sao không ra trình diện chánh quyền quốc gia. Bộ muốn tiếp tay cho Việt cộng hả?”. “Mô Phật, má con tui già cả yếu đuối đâu có biết Việt cộng ra sao mà mấy ông nói vậy mang tội đó”. “Bà đừng có giả đò, con trai bà trốn quân dịch còn lẩn quất đâu đây, mau gọi nó lên trình chánh quyền, nếu không tụi tui mà tìm thấy thì đừng có trách đó nghe”. Tiếng một thằng khác: “Ê tụi bay, con nhỏ trông ngon dữ ha. Cô em, chiều tụi anh chút xíu nghen”. Tiếng giằng co trên sân, bọn ngụy cười ré lên man rợ; thằng nhỏ khóc ré lên kêu thét: “Má ơi!”. “ Bớ làng xóm, cứu với…”. “Tụi bay, bịt miệng mụ già và thằng nhỏ lại…”. Một tràng tiểu liên cắt ngang tiếng kêu của má cháu và tiếng vợ cháu la thất thanh: “Anh ơi! Cứu em với!…”. Không chịu được nữa. Cháu vớ cây rựa ở góc hầm, đạp cửa lao vọt lên: Má cháu và thằng nhỏ nằm gục bên vũng máu, bên thềm ba bốn tên lính đang chận ngửa vợ cháu giữa sân. Lao tới chỉ kịp vung rựa chém xả vai một tên, cháu bị một báng súng đập mạnh xuống gáy té sấp, mấy tên nhảy tới và một trận mưa báng súng, đấm đá giội xuống, cháu ngất xỉu trong tiếng kêu la tuyệt vọng của vợ và tiếng cười man rợ của tụi lính. Tỉnh dậy cháu thấy mình và nhiều người khác bị bốc lên máy bay chở tới căn cứ Đồng Dù. Tại đây sau một tháng huấn luyện cấp tốc, tụi cháu bị ném ra mặt trận đường 13, ứng cứu Phước Long. Ra trận lần đầu, lừa lúc lộn xộn cháu bắn chết tên chỉ huy cùng mấy anh em bỏ trốn. Trên đường trốn chạy, tụi cháu gặp một đơn vị Quân giải phóng đang chốt giữ đường 13, được các ảnh đối xử tử tế, cung cấp lương thực phẩm cho về quê. Còn cháu xin ở lại gia nhập Quân giải phóng. Hiểu rõ hoàn cảnh của cháu, mấy ảnh động viên và nhận luôn vào đơn vị.
Hải chợt ngừng lời, đôi mắt sáng cương nghị của anh vụt tối sầm, nuốt khan trong cổ họng. Ông Năm nắm chặt tay anh, đưa ly nước lạnh cho anh, đôi mắt đầy thông cảm. Trang đứng chết lặng bên bàn nghe Hải kể chuyện; hai tay bíu chặt vào mép bàn trắng bệch, run rẩy, mắt nhòa đi vì xúc động.
Uống cạn ly nước, Hải chậm rãi kể tiếp:
- Không có một tin tức gì về bà con chòm xóm, cháu chiến đấu đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở về quê, xóm làng xơ xác tiêu điều, quá nửa dân làng người chết, kẻ phiêu bạt đi nơi khác. Đứng trước nấm mồ gia đình, một nỗi đau đớn thất vọng đến tột cùng, không gì an ủi nổi. Cháu tu sửa lại phần mộ người thân rồi lên Cần Thơ vào nhà người bà con ở đó. Muốn quay trở lại với nhạc viện, nhưng âm nhạc chỉ làm cho cháu thêm u buồn. Cháu quyết định xin thi vào Đại học Hàng hải, chu du đây đó cho vợi bớt nỗi buồn. Rồi tốt nghiệp, cháu được phân công về làm máy trưởng tàu Hoa phượng đỏ thuộc Công ty Vận tải biển Việt Nam VOSCO này…
Anh đã đi rồi mà Trang vẫn còn chưa hết bàng hoàng xúc động. Nỗi cảm thông sâu sắc trước mất mát đau thương của Hải và cảm phục tâm hồn cương nghị của anh khiến cô cảm phục và… yêu thương anh hơn. Cô ao ước được anh chia sẻ làm dịu bớt nỗi đau, được bù đắp những mất mát của anh. Những lần đến sau, hình như đoán được ý nghĩ của Trang, anh có phần né tránh, giữ ý hơn. Điều đó khiến Trang càng thêm đau khổ và tủi thân. Buổi chia tay, anh lên tàu về nước. Trang im lặng nhìn anh, đôi mắt đã thay cô nói lên tất cả. Anh cầm bàn tay Trang thật chặt, nhìn sâu vào đôi mắt Trang, xúc động:
- Anh hiểu em, Trang ạ. Nhưng em phải suy nghĩ kỹ đi. Thời gian còn đang ở phía trước. Dầu sao anh cũng rất biết ơn những gì em dành cho anh. Chúng ta sẽ cố gắng để không phụ lòng nhau, Trang nhé.
Một buổi tối sau đó, sau khi ăn tối xong, chỉ có hai ba con ở nhà Trang kéo ghế, ngập ngừng:
- Thưa ba, con có câu chuyện muốn nói với ba…
- Gì vậy con, mấy hôm này ba thấy con có chuyện gì đó, nói ba nghe đi. Ba sẵn lòng nghe con mà.
- Dạ, thưa ba con muốn… về Việt Nam ba ạ.
- Về nước?
- Dạ!
Ông Năm trầm ngâm hút thuốc suy nghĩ. “Về nước!”. Đã bao lần ông suy nghĩ trăn trở trước hai tiếng ấy, từ khi hai đứa con ông còn nhỏ, không khi nào ông không suy nghĩ về quê hương đất nước, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông đã sống và chiến đấu thời trai trẻ. Lời nhắc của con khiến ông lặng đi trong kỷ niệm. Trang bối rối nhìn ba, tay mân mê cái ly mãi trong tay. Một lát sau ông Năm mới nhìn con:
- Trang con, điều con vừa nói chính là nỗi lòng ba mấy chục năm rồi, nhưng hai ba con mình lúc này về đâu, với ai hả con? Con đã suy nghĩ kỹ chưa?
- Thưa ba, con cũng đã suy nghĩ rất nhiều vấn đề này. Và con muốn thưa ba là con, con… thương anh Hải.
- Vậy ư? Sao không nói sớm cho ba. Thế ý thằng Hải thế nào?
- Ảnh vẫn ngại ngùng né tránh con, nhưng con biết ảnh cũng thương con ba ạ.
- Ồ, ba cũng rất quý và thương nó. Nếu hai đứa bay thương nhau thì ba rất yên lòng, có điều con phải trao đổi kỹ với nó và nếu về thì con về trước, ba phải ở lại thu xếp công việc của hãng và sắp xếp công việc làm, xây dựng gia đình ổn định cho Thu rồi ba sẽ về sống với các con.
Viết thư cho anh, Trang nói rõ nguyện vọng của cô và ba. Rồi nhận được thư anh, lá thư đầy tình cảm chứa chan và lòng biết ơn đối với tình cảm mà gia đình đã dành cho anh. Anh hứa sẽ cố gắng tạo mọi điều kiện để giúp Trang về quê một ngày gần nhất.
Rồi tàu Hoa phượng đỏ lại lên đường chở hàng sang Nhật. Trước lúc rời Hải Phòng anh điện cho Trang: “Ngày 15 tháng 9 tàu anh sẽ cập bến. Trang nhớ đón anh!”.
*
Trang thẫn thờ nhìn lên tờ lịch, đã 20 tháng 9 rồi. Không hiểu vì lý do gì mà hôm nay vẫn chưa thấy tàu anh cập bến. Nỗi lo lắng khiến cô bồn chồn. Trong tâm hồn cô dấy lên một linh cảm chẳng lành, cô cố gạt đi mà không được. Bỗng có tiếng chuông. Trang xô bàn luống cuống ra mở cửa. Hải? Không! Đứng trước cô là một thủy thủ Việt Nam, đồng nghiệp của Hải. Người thủy thủ gật đầu chào cô và hỏi:
- Xin lỗi, chị là Trang phải không?
- Vâng! Có việc gì vậy? Mời anh vào nhà.
Rót nước mời khách xong Trang hỏi:
- Có chuyện gì đó anh? Anh Hải ảnh có cập bến không anh?
Uống cạn ly nước, người thủy thủ nén xúc động, anh nói:
- Tôi là Hùng, cùng tàu anh Hải, tàu chúng tôi vừa cập bến cách đây một giờ. Anh Hải hiện nay đang ở Đài Bắc, không theo được tàu, ảnh nhờ tôi đến thăm gia đình, báo cho gia đình biết tin.
- Anh Hải ở Đài Bắc ư? - Trang sửng sốt.
- Vâng! Đài Bắc! Trên đường đi, theo kế hoạch ngày 15 tháng 9 tàu chúng tôi sẽ cập cảng Nhật, nhưng tàu chúng tôi gặp cơn bão lớn, buộc phải neo đậu tại Đài Loan. Giữa cơn giông bão, một tia sét mạnh đã giáng xuống chiếc tàu chở đầy dầu của Úc đậu cạnh tàu chúng tôi, ngọn lửa bùng lên đe dọa thiêu cháy tài sản trị giá hàng chục triệu đô la và tính mạng của hàng chục con người. Không quản hiểm nguy, chúng tôi lao tới bắc vòi rồng xả vào nhằm dập tắt đám cháy. Anh Hải dù người đang mệt cũng lao vào chữa cháy. Từ trong bồn lửa vẳng ra tiếng người kêu cứu nhưng lửa cháy to quá, làm cách nào đây. Đang tìm cách mở đường vào thì anh Hải, người đầy nước ôm bình cứu hỏa phun mạnh vào một điểm, ngọn lửa dạt ra, anh lao vào trong và biến mất sau biển lửa. Mọi người đều thét lên: “Anh Hải cẩn thận đó!”. Một phút, hai phút rồi ba phút, mọi người tưởng đã hết hy vọng thì từ trong biển lửa, Hải lao ra, hai tay dìu hai thủy thủ bạn to lớn đang bị ngạt khói. Người anh cháy sém, anh chỉ kịp trao hai thủy thủ cho mọi người rồi ngất đi. Chúng tôi vội đưa anh vào bệnh viện cấp cứu. Anh bị bỏng toàn thân khá nặng. Bão tan, tàu chúng tôi phải lên đường, do tình trạng sức khoẻ của Hải không đảm bảo; mọi người ở đó cứ nhất định giữ anh Hải ở lại điều trị tại Đài Bắc, chúng tôi đành phải gửi anh lại đó. Khi chúng tôi đi, anh đã tỉnh, cứ đòi theo tàu. Không được đi, anh dặn tôi đến thăm gia đình nói gia đình khỏi trông tin anh.
Lòng Trang như lửa đốt, cô bối rối không biết làm cách nào, cô chỉ mong ba về nhanh để báo tin cho ba hay. Chiều về, khi nghe Trang nói lại, ông Năm cũng bồn chồn không kém gì con gái. Hai ba con bàn nhau phải đáp máy bay đi Đài Bắc thăm Hải. Cô xin phép ba đến thăm anh, và đưa anh về nhà. Sau hơn hai giờ bay, máy bay đã đưa cô đến sân bay Đài Bắc, vừa xuống sân bay Trang vẫy một chiếc taxi tới ngay bệnh viện. Đứng trước căn phòng anh mà cô cứ run lên vì xúc động và hồi hộp, trấn tĩnh rồi cô gõ cửa bước vào. Được báo tin trước, Hải cũng hết sức xúc động và chờ mong, nghe tiếng gõ cửa ngập ngừng, Hải biết là Trang đã đến, anh xoay người nhìn ra cửa, chờ đón.
- Anh!
Trang nhào tới, quỳ bên giường bệnh oà khóc nức nở. Hải bối rối im lặng, đưa bàn tay băng trắng lên vuốt ve mái tóc Trang, mỉm cười khẽ nói:
- Đừng khóc nữa em! Anh khoẻ rồi mà.
Trang nhìn anh, nhoẻn cười mà nước mắt vẫn trào ra, những giọt nước mắt nhớ mong, lo âu, chờ đợi và hạnh phúc nữa.
Một tuần ngắn ngủi bên anh, thời gian xin nhập cảnh đã hết, sức khoẻ Hải đã khá lên rất nhiều. Cô xin phép bệnh viện được đưa Hải qua Nhật, anh không chịu, nói là sẽ đợi tàu anh ghé lại đón. Cô phải thuyết phục mãi và nói kế hoạch của ba con cô đã được thuyền trưởng tàu Hoa phượng đỏ đồng ý anh mới chịu đi.
Sau gần ba tháng làm thủ tục, mọi giấy tờ đã xong, Hải và Trang sẽ bay về Việt Nam. Hai người xin phép ba được đi dạo bên bờ vịnh chia tay với thành phố, nơi Trang đã sinh ra và lớn lên.
Đêm Tô-ky-ô rực rỡ ánh điện màu; bên bờ vịnh là thành phố thương mại sầm uất bậc nhất thế giới với những bảng quảng cáo rực rỡ, dòng xe lao vút trên dòng đường cao tốc. Bên này là vịnh Tô-ky-ô lung linh lay động dưới ánh sáng từ những thành phố nổi hắt xuống.
Đưa tầm mắt bao quát một vùng rực rỡ, anh chợt mỉm cười khi nhớ về quê nhà. Nắm chặt tay Trang, anh khẽ hỏi:
- Ngày mai rời Tô-ky-ô, em có nuối tiếc gì không?
- Lẽ ra, anh không nên hỏi em như vậy. Nếu có còn nuối tiếc chắc em đã không rời bỏ mảnh đất này. Có điều trước khi về nước em chỉ lo không có người chăm sóc ba và Thu.
- Đừng lo nghĩ nhiều điều đó, chỉ một thời gian không lâu nữa, thu xếp xong cho Thu là ba về nước với chúng mình thôi mà.
Một con tàu đang rời bến, ánh điện nhấp nháy nhấp nháy, kéo một hồi còi dài chào bến làm xốn xang lòng Hải.
Anh nói với Trang mà như tự nói với chính mình:
- Quê hương - đất nước của chúng mình như chiếc nôi rộng lớn và ấm áp của lòng mẹ. Khiến những người đi xa, như những con tàu không quên bến nước; dù ở đâu làm gì cũng một lần nhắc tới và mong được trở về nơi có hai tiếng: Quê hương…!