Người hành khách cuối cùng đã ngồi yên trên ghế. Cầu thang được kéo lên, cửa đã đóng kín. Giọng trong trẻo của cô tiếp viên hàng không vang lên trong mi-crô: “Chuyến bay số… Sài Gòn - Pari đã đến giờ cất cánh, tổ bay xin kính chào quý khách! Đây là chuyến bay không hút thuốc... Để đảm bảo an toàn, đề nghị quý khách kiểm tra lại dây an toàn... Chúc quý khách thượng lộ bình an!”.
Chiếc Boeing 737 của Hãng Hàng không Pháp khởi động, máy bay lướt nhanh trên đường băng, rời khỏi mặt đất. Tôi nhắm mắt, hai tay nắm chặt thành ghế, chịu đựng lực gia tốc trọng trường. Chỉ hai phút sau, cảm giác bị đè nặng lên ghế vụt biến mất, máy bay đã ổn định độ cao. Tôi mở choàng mắt, ngơ ngác nhìn xung quanh, rồi nhìn qua ô cửa máy bay. Dòng sông Sài Gòn uốn mình qua những làng mạc, thành phố sầm uất, cứ mỗi lần tạm xa Tổ quốc, từ trên cao nhìn xuống tôi lại nao nao xúc động, nhớ quê hương. Người thiếu phụ ngồi cạnh tôi hai tay bám chặt vào thành ghế, dán mắt qua ô cửa kính chợt oà khóc nức nở, bên cạnh chị là cậu con trai - một đứa con lai bởi tôi nhận ra nó qua vóc dáng cao lớn chừng mười bảy tuổi và mái tóc, cái mũi và làn da, duy chỉ có đôi mắt đen là giống mẹ. Cậu luống cuống rút khăn lau nước mắt cho mẹ: “Má! Má bình tĩnh đi má…”.
Rồi như bất lực, cậu quay đôi mắt cầu cứu sang tôi. Thấu hiểu lòng người mẹ, tôi nói với cậu: “Cháu cứ để yên cho má cháu qua cơn xúc động, ai đi xa chẳng day dứt, bác cháu mình cũng vậy thôi”.
Máy bay đã lên cao, mặt đất, dòng sông nhỏ dần rồi biến mất, xung quanh máy bay chỉ có màu trắng đục của những đám mây lang thang trong vũ trụ. Người thiếu phụ đã qua cơn xúc động, chị kéo chiếc rèm che ô cửa kính, ngước đôi mắt nhìn sang, nở nụ cười chào tôi, nụ cười còn đẫm những giọt nước mắt. Tôi mỉm cười thân thiện:
- Hai má con đã đi xa lần nào chưa mà xúc động dữ vậy.
- Dạ - Người thiếu phụ ngượng ngập - Má con em chưa đi xa lần nào, mà lần này lại đi xa luôn…
- Mà chị ơi! Chị đã tới Pa-ri lần nào chưa? Chị đi làm gì vậy?
- Chẳng giấu gì chị, má con em được phép của Chính phủ xuất cảnh sang bên Pháp, ba của cháu Việt đây bảo lãnh mà…
Máy bay ổn định độ cao, lướt nhẹ qua những đám mây, chỉ có tiếng động cơ rung nhẹ bền bỉ, hành khách, người thì đọc sách, người im lặng ngủ trên ghế. Cậu bé Việt cũng đã ngủ từ lúc nào. Cầm cuốn họa báo trong tay mà không muốn đọc một chút nào, tôi quay sang người thiếu phụ:
- Ba cháu Việt người Pháp hả chị?
- Không! Người Mỹ gốc Tây Ban Nha, gia đình ở Ca-li-phoóc-ni-a, nhưng đã nhập quốc tịch Pháp.
Thoáng thấy trong đôi mắt tôi sự ngạc nhiên. Thảo - tên người phụ nữ nọ vội nói:
- Chuyện thì dài lắm, tôi sợ sẽ không đủ thời gian để kể cho chị nghe.
- Tôi nghĩ thời gian chuyến bay còn dài, trước khi xuống Pa-ri máy bay sẽ còn nghỉ ở Bom Bay nữa mà…
- Dạ má con tôi ra đi cũng chẳng có người thân thích nào đưa đón cả, buồn lắm, chỉ mong có được một người thân để tâm sự giãi bày cho vơi bớt nỗi lòng của kẻ ra đi nơi đất khách quê người, chị à.
Giọng nói Nam Bộ dịu dàng êm mượt, đượm chút u hoài. Thảo đã kể cho tôi nghe cuộc đời của chị…
*
Quê Thảo ở tít miệt Mỏ Cày, Bến Tre, cũng như bao người khác, Thảo có ba, có má, có các anh, các chị. Là út trong gia đình nên Thảo được mọi người cưng chiều hết mức. Nhà có tám anh chị em, chỉ có út Thảo là được ba má gởi lên Bến Tre để học cao hơn. Đang học tú tài phần một - dạo ấy là đầu năm 1968, vào một buổi chiều sau khi đi học về Chín Thảo được một người cùng quê lên Bến Tre làm ăn báo cho một tin sét đánh: Gia đình cô đang gặp nạn ở quê!
Bỏ cả cơm chiều, cô bé Thảo oà khóc tức tưởi, vơ vội mấy bộ đồ bỏ vào chiếc giỏ leo lên chiếc xe đò cuối cùng trong ngày trở về quê. Xuống xe, Thảo không còn nhận ra con đường vào ấp nữa. Sự tàn phá của bom rải thảm B-52 và pháo bầy hạm đội đã biến xóm ấp trù phú đông vui thành bình địa. Đã hai ngày rồi mà xóm ấp còn khét lẹt mùi cháy của bom na-pan, đó đây những ngọn khói nghi ngút từ thân những cột nhà cháy dở. Hoàng hôn bầm máu đã sập xuống; làn gió từ Đồng Tháp Mười thổi về làm bùng lên những bụi than đỏ rực lập loè như ma trơi. Thảo không còn tin ở mắt mình nữa khi đứng trước một hố bom sâu hút giữa nền nhà, căn nhà ấm cúng hôm xưa đã lẩn sâu vào trong lòng đất, đen ngòm bi thảm. Quanh vườn mấy hố bom sâu hoắm, những thân dừa chẻ tước, nát vụn, ứa máu. Cái lu đựng nước vỡ tan mảnh ngổn ngang bên cạnh con búp bê bé Thảo vẫn chơi khi xưa cụt chân, cụt cổ. Thảo đã ngất đi trong khung cảnh đó.
Không người thân thích, Thảo bơ vơ ở quê rồi theo một người bà cô xa phiêu dạt lên Sài Gòn kiếm sống. Trong căn hẻm gần đường Ca-ti-na (nay là đường Tự Do), hằng ngày Thảo phụ giúp với cô bán gánh bún bò sinh sống. Một buổi chiều mùa hè năm 1968 hai cô cháu đang bán ở cuối đường Ca-ti-na, một chiếc Mercedes màu đen sang trọng vừa từ trong khách sạn Ca-ti-na chạy ra bỗng một chiếc Honda 67 từ phía sau vọt lên, áp sát thành xe, hai tiếng nổ đanh gọn vang lên, chiếc Mercedes loạng choạng rồi tấp vô chân cây đèn đường, chiếc Honda 67 rú ga vọt lên. Còi cảnh sát hú bất ngờ thì phía trước đã dày đặc những bóng áo trắng - bộ đồng phục của lực lượng cảnh sát ngụy từ trên các xe Jeep - xe Harley đổ xuống. Tiếng còi rít, tiếng chân chạy rầm rập. Người thanh niên đi chiếc 67 quẹo gấp vô con hẻm, bỏ xe chạy đến trước hai cô cháu Thảo, rút trong lưng quần ra khẩu Browning nhỏ xíu, anh nhìn thoáng sâu vào đôi mắt của hai cô cháu rồi nhẹ nhàng thả khẩu súng vào nồi nước dùng đang sôi sùng sục. Không kịp nói một lời, anh lại lướt đôi mắt qua hai cô cháu một lần nữa rồi nhẹ nhàng đu người qua bức tường chắn ngang, biến mất sau những căn gác ẩm thấp lụp xụp trong hẻm.
Hai cô cháu còn đang bàng hoàng nhìn nhau, một tiếng quát đã vang lên:
- Nè, bà già kia, tên Việt cộng chạy lối nào?
Bà cô đã bình tĩnh trở lại, bà nhổ quết trầu rồi cung kính:
- Dạ, thưa thầy hai, ổng bỏ xe rồi trèo vô sau căn hẻm kia… Bà cô chỉ tay qua hướng đối diện.
- Hai má con bà tiếp tay cho tên Việt cộng ám sát cố vấn hả, nếu chỉ sai là tù mục xương đó nghe!
- Mô phật! Má con tôi già cả đâu có biết Việt cộng việt kiếc gì đâu, thấy ổng bỏ xe rồi chạy qua đó thì tôi chỉ các thầy vậy chớ biết sao.
Tên cảnh sát tiện chân đá bay giỏ rau sống rồi huơ súng la lớn:
- Lùng sục kỹ tụi bay, tên đó chưa chạy xa đâu. Tóm được thưởng lớn đó.
Tốp cảnh sát đã đi xa, hai cô cháu vừa nhặt giỏ rau vừa lầm rầm:
- Tổ cha quân ăn cướp, cầu trời Phật phù hộ cho anh Giải phóng được bình an.
Về nhà hai cô cháu đóng chặt cửa, đổ nồi nước dùng lấy khẩu súng ra rửa sạch, lau khô rồi truyền tay nhau ngắm nghía. Cầm khẩu súng mát lạnh sáng xanh ánh thép, Thảo vừa sợ vừa mừng vui. Chính người Việt cộng kia đã dùng nó trả thù cho cô, cho gia đình của cô; cô áp chặt khẩu súng vào ngực mà nước mắt cứ trào ra ướt đầm cả má.
Từ trong sâu thẳm của lòng mình cô cầu mong cho anh tai qua nạn khỏi và một ngày nào đó sẽ được gặp anh.
Một tuần lễ sau, vào một buổi tối, khi cơm nước xong hai cô cháu đang ngồi nói chuyện chợt có tiếng gõ cửa, tim Thảo như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực: “Người Việt cộng - Anh ấy đấy”.
Thảo quả không lầm. Năm Quang - tên người biệt động - sau khi quan sát lại phía sau, anh bình tĩnh vào nhà, khép cửa lại, chào hỏi hai cô cháu:
- Ủa, bác và cô không nhận ra cháu sao, Quang xích lô đây mà.
- Trời ơi! Chú Năm, sao hôm nay chú khác vậy. Hèn chi tui và con Chín cứ ngờ ngợ.
Năm Quang - người đạp xích lô vẫn thường đạp xe qua chỗ hai cô cháu bán hàng, thỉnh thoảng kiếm được ít tiền anh thường qua kêu một tô bún bò, vừa ăn vừa kể chuyện trên trời dưới biển của dân đạp xích lô. Chỉ khác mọi bữa, hôm nay anh để ria kiểu Nguyễn Cao Kỳ và mái tóc cợp gáy. Nay anh trẻ trung, khỏe mạnh trong bộ đồ Jean hợp thời trang.
Đang nói chuyện với cô, Năm Quang quay sang bắt gặp Thảo đang nhìn mình, bốn mắt gặp nhau, trong người như có điện giật, Thảo đỏ bừng mặt, luống cuống như gà mắc tóc, Năm cười vang tự nhiên:
- Trời ơi! Bé Thảo bữa nay sao lớn mà ngộ quá vậy bao giờ cho anh hút thuốc ăn kẹo đây, cưng?
Lại một luồng sáng quét qua Quang, Thảo xì một tiếng rồi quay đi dáng ngúng nguẩy, giận dỗi.
*
Chiếc hôn dài như thế kỷ vừa dứt cũng vừa lúc trăng ló ra khỏi đám mây. Bến cảng Bạch Đằng bừng sáng thêm dưới ánh sáng tinh khiết, mát lạnh của thiên nhiên đã ban cho xứ sở nhiệt đới, hòn ngọc Viễn Đông này. Mặt trăng trên trời, mặt trăng dưới bến nước và mặt trăng trong vòng tay anh đều bừng sáng lung linh mà còn chứa bao điều bí ẩn. Đỡ nhẹ khuôn mặt nép vào lồng ngực, đưa tay vuốt nhẹ những sợi tóc sổ ra. Quang ngập ngừng:
- Thảo nè, anh muốn nói với em một chuyện…
Hai mắt nhắm nghiền mơ màng, Thảo đưa tay bịt miệng Quang cô kêu lên:
- Chuyện gì vậy hả anh? Thôi đừng nói nữa, em biết rồi.
Lại đưa tay vuốt nhẹ những lọn tóc mượt mà dịu ngọt, những đường cong thanh tú diễm kiều trên khuôn mặt nàng. Những diễn biến của cuộc họp giữa những người phụ trách công tác biệt động thành tuần trước ở ngoài cứ còn vẹn nguyên trong anh. Tiếng chú Ba Kiên vang đọng nhắc nhở mọi người:
- Các đồng chí thấy đó, sau Mậu Thân 1968, địch dù điên cuồng phản kích, nhưng chúng vẫn không sao đảo ngược được tình thế mà còn lún sâu thêm trên chiến trường. Hòa đàm ở Ba Lê (Pa-ri) đã được nối lại. Chúng ta đã mở cho chúng một lối thoát trong danh dự. Nhưng chúng rất ngoan cố xảo quyệt, đang âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” mở rộng và tăng cường ném bom các vùng giải phóng, ném bom hủy diệt miền Bắc, gây sức ép trên bàn thương lượng buộc ta phải ký theo ý chúng. Nhưng chúng đã lầm, trên khắp các chiến trường, các mặt trận chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục giáng cho chúng những đòn đích đáng. Ngay tại Sài Gòn này, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền yêu cầu chúng ta phải đẩy mạnh cuộc chiến tranh trong lòng địch lên một bước nữa. Phải đánh mạnh, đánh đau từ nơi xuất phát gây tội ác của chúng. Để nắm được điều đó, chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động, phải phát triển thêm lực lượng cài cắm vào các nơi quan trọng đầu não của địch. Nhưng phải hết sức bí mật, thận trọng, cảnh giác. Đó là yêu cầu cao nhất trong công việc của chúng ta…
Nhớ lại lời chú Ba, Quang thấy không nên im lặng nữa:
- Thảo nè… - Thảo đã ngồi dậy, hai bàn tay mân mê chiếc nút áo trên ngực Quang. Đôi mắt đẹp của cô lung linh ngước lên chờ đợi - Các chú và anh đã bàn kỹ, các chú muốn em giúp cho một việc…
- Ôi anh Quang, em thì có thể làm được việc gì?
- Làm gì thì anh sẽ bàn cụ thể với em sau. Nhưng em có…
Một áng mây đen chợt trôi qua mặt nàng, mặt trăng chợt quay đi nơi khác. Tiếng nàng xa xôi như từ vũ trụ xa xăm vọng về:
- Hóa ra chẳng có ai hiểu em hết. Nếu như hơn nửa năm về trước có ai được chứng kiến cái buổi hoàng hôn bầm máu ấy chắc người đó sẽ hiểu em hơn…
Sự việc đột ngột xoay sang một hướng khác, Quang im lặng hút thuốc, trấn tĩnh lại, tiếng anh trầm và ấm:
- Các chú và anh đã tính kỹ, nhưng vẫn còn cân nhắc có nên đưa em vào hoạt động trong phi trường Tân Sơn Nhất hay một nơi nào khác?
- Đưa em vào phi trường? Trời ơi! Không bao giờ! Hãy cho em được ra ngoài cứ, cầm súng trả thù cho gia đình em hay làm bất cứ việc gì cũng được chứ đừng bắt em phải phục vụ cái bọn cướp nước, cái bọn đã gieo tang thương lên gia đình em. Không! Anh Quang! Đừng bắt em làm cái việc ấy… Trời ơi!
Quang bình tĩnh lau những giọt nước mắt cho nàng chờ cho bão tố trong nàng lắng xuống:
- Anh hiểu, Thảo ạ! Đứng trước một kẻ thù người ta phải biết nó từ đâu tới, nó muốn gì và nó sẽ hoạt động ra sao? Phi trường ngày càng mở rộng mà lực lượng của ta trong đó còn quá mỏng, tổ chức muốn tăng cường em thêm vào đó, nắm số lượng, phương tiện và số nhân viên chúng điều động đi, đến… Có như vậy các chú ở ngoài mới đánh giá được tình hình, phán đoán âm mưu và thủ đoạn hoạt động của chúng. Đâu cũng là công việc nhưng nơi đó cần em hơn. Em suy nghĩ kỹ đi, các chú không bắt ép em đâu.
Sau những ngày suy nghĩ Thảo đã quyết định đồng ý vào làm việc ở phi trường; các chú đã biến cô bé Thảo thành nàng Diệu Hương xinh đẹp - một cô gái mà ánh mắt có thể làm nghiêng cánh “pháo đài bay” dịu dàng và giỏi tiếng Anh. Công việc của Thảo là dọn phòng ngủ cho các người hùng không gian của không lực Hoa Kỳ. Nắm thời gian số lượng nhân viên bay mà chúng điều động báo cho các chú ở ngoài.
Một tuần lễ sau, tại Câu lạc bộ Những “người hùng không gian”, các phi công đua nhau cá độ xem ai sẽ lọt vào đôi mắt huyền của nàng Diệu Hương mới vào làm trong câu lạc bộ.
Sự xuất hiện của Diệu Hương đã làm cho những người hùng vốn quen ấn nút trút lửa thép xuống mặt đất không một mảy may xúc động trở thành những con cừu non như trong tiểu thuyết của nhà văn Pháp Mô-pát-xăng (guy de Maupassant). Trong số đó, chỉ có Giêm Mắc-cơ (James Macco), một trung sĩ, nhân viên chuyên gài trái nổ cho các phi cơ đi oanh tạc là dửng dưng trước sự xuất hiện của Diệu Hương. Hằng ngày sau giờ làm việc Giêm thường trở về phòng riêng của mình, với cây đàn ghi ta và những bài hát của Tây Ban Nha. Điều đó khiến Hương ngạc nhiên. Qua tìm hiểu Hương được biết Giêm người gốc Tây Ban Nha, cố nội Giêm bị các lái buôn bắt và bán sang Mỹ vào giữa thế kỷ XIX. Gia đình anh ta hiện đang sinh sống ở bang Ca-li-phoóc-ni-a; ba Giêm có một trang trại chăn nuôi nhỏ. Vốn căm ghét cuộc chiến tranh ở Việt Nam, trong khi đang theo học đại học luật khoa ở Oa-xinh-tơn. Giêm thường cùng các bạn biểu tình phản đối chiến tranh. Trong một lần xô xát với cảnh sát, Giêm và một số bạn bè bị bắt rồi bị buộc đăng lính, ba tháng sau Giêm bị đẩy sang Việt Nam. Vốn căm ghét chiến tranh, nỗi nhớ quê hương xứ sở khiến Giêm tìm đến cây đàn với những bài dân ca của xứ sở quê hương ở bên kia đại dương. Bạn bè xa lánh Giêm bởi tính nết anh và cả cái dòng máu đang chảy trong huyết quản của Giêm nữa.
Giữa bầy người cuồng loạn - Diệu Hương có phần nào cảm thông với Giêm, cô thường đến nghe Giêm hát và nói chuyện với anh ta, mong muốn sẽ cảm hóa được người lính Mỹ gốc Tây Ban Nha này.
Những tin tức thu được Hương đều gửi vào một hòm thư chết và thỉnh thoảng vào các chiều thứ bảy, được phép về nhà lần nào cũng vậy Quang đều đón cô trên chiếc Honda chờ sẵn dưới gốc cây điệp ở ngoài cổng phi trường. Chiều thứ bảy này, kim đồng hồ đã chỉ 7 giờ 30 phút, đã quá một giờ đồng hồ hẹn mà vẫn không thấy Quang xuất hiện. Lòng Thảo như lửa đốt, cô bồn chồn vẫy một chiếc taxi kêu về nhà.
Đứng trước cửa nhà mà trời ơi, sao hôm nay không thấy cô ra đón. Mọi bận về cô đều chạy ra ôm lấy cháu mừng rỡ tíu tít vào nhà, làm đồ ăn rồi cả ba cô cháu quây quần quanh mâm cơm đầm ấm. Lòng Thảo như thắt lại, đẩy cửa vào nhà. Thảo như không tin ở mắt mình nữa. Cô đang bất động trước ban thờ đầy khói nhang, bức ảnh Quang đặt ngay ngắn bên cạnh những người trong gia đình. Thảo thét lên một tiếng, ôm chặt lấy cô, ngất đi trong nỗi đau vô tận. Tỉnh dậy, hai cô cháu ôm nhau khóc ròng, nước mắt không làm vơi đi nỗi đau. Nước mắt chỉ làm tăng nỗi nhớ thương của người con gái thủy chung. Trong một lần ra cứ, Quang bị giặc phục kích, anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng bảo vệ cho đồng đội rút, sau khi trở báng súng đập ngã hai tên giặc, anh đã nằm xuống trong niềm kinh hoàng của lũ giặc.
Đã nhiều lần Thảo định tìm đến liều thuốc ngủ để đến với ba với má, anh chị em và đến với Quang của cô, nhưng thù này chưa trả, Thảo chưa thể ra đi được. Phải trả thù!
*
Ánh mắt của Giêm nhìn cô lạ lắm. Trong đôi mắt trong veo ấy, hình như có một ngọn lửa vô hình nào đó đang lấp lánh, có lúc bừng lên rồi lại vụt tắt xuống khiến Thảo phải cảnh giác.
Chiều ấy Thảo nghe bọn giặc lái xôn xao lo sợ. Hình như chiếc phi cơ chở hơn 30 tên giặc lái “có chiến tích diệt cộng” về nghỉ mát ở Hô-nô-lu-lu đã nổ tan tành trên bầu trời giữa Thái Bình Dương ngoài khơi biển Nhật Bản. Lúc đi ngang qua phòng Giêm, cô thấy anh ta không chơi đàn mà ngồi im lặng hút thuốc. Thoáng thấy Thảo, đôi mắt Giêm ánh lên nỗi vui mừng xen lẫn lo âu khiến Thảo càng thắc mắc. Bữa ăn, không thấy Giêm xuống phòng ăn. Cả buổi sáng hôm sau anh ta ở lì trong phòng. Buổi chiều Thảo lên phòng Giêm thay chiếc ga trải giường. Vào phòng cô thấy Giêm đang nằm suy tư; Thảo định quay ra thì Giêm đã tung chiếc mền vùng dậy.
Thảo á lên một tiếng sợ hãi, quay ngoắt nhào ra cửa nhưng đã muộn. Cửa đóng chặt, trong căn phòng cách âm hoàn toàn tiếng kêu của Thảo vang lên tuyệt vọng. Giêm quỳ xuống dưới chân Thảo van lơn cầu khẩn:
- Diệu Hương! Anh yêu em! Anh đã yêu em từ ngay khi gặp em, nhưng hoàn cảnh không cho phép anh đã phải im lặng. Nhưng anh sắp phải ra tòa rồi, chính anh là kẻ đã gài trái nổ trong chiếc máy bay đi Hô-nô-lu-lu. Cầu chúa cho chúng nó chết hết đi. Trước khi ra tòa, anh mong em hãy ban cho anh một phước lành, hãy hiểu cho anh, hãy thương anh, Diệu Hương, anh yêu em! Yêu em!
Hai mắt nhắm nghiền, Thảo gạt đôi tay Giêm đang ôm lấy chân mình thét lên:
- Trời ơi! Ông Giêm, hãy buông tôi ra! Tôi đã có chồng! Mở cửa, trời ơi, cứu tôi với, cứu tôi…
Tiếng kêu của Thảo tắc nghẹn, Giêm đã chồm dậy bế thốc Thảo lên giường. Thảo vùng vẫy la hét cắn xé cái thân hình đang đổ sập lên người cô.
Trong cơn tuyệt vọng, la hét đến khản giọng, Thảo cố oằn mình lên cố gắng hết sức đẩy cái thân hình kia ra nhưng bất lực, vô vọng. Cô đã mềm người đi lặng chìm trong mê cung của niềm đớn đau. Tiếng thét xé lòng tắt nghẹn trong nỗi đau đầu tiên của người thiếu nữ.
*
Chiếc Boeing vẫn lướt nhè nhẹ xuyên qua những tầng mây hướng về phía chân trời. Cậu bé Việt đã tỉnh ngủ, ngồi im lặng nghe câu chuyện của mẹ. Trong đôi mắt của Thảo ánh lên một nỗi buồn xa xăm.
- Chị ơi! Phụ nữ tụi mình đã thương ai thì có đánh chết vẫn thương, phải không? Hình như số phận đã run rủi cho em toàn gặp những điều bất hạnh chị à. Nhà tan, chồng chết, rồi lại mang thai với một người ngoại quốc. Tổ chức cũng bỏ rơi em, đã mấy lần đến hòm thư, em đều không nhận được chỉ thị của các chú, chỉ có bản báo cáo lần trước em gửi vẫn nằm nguyên trong đó. Các chú đã hết tin em khi biết em có bầu với một kẻ ngoại bang. Em trở thành một kẻ như điên như khùng. Đã bao lần định tìm đến cái chết cho gột sạch những tủi hờn ô nhục, nhưng cái thai trong bụng nó quậy đạp dữ quá, em lại không nỡ. Nó đâu có tội tình chi phải không chị. Rồi em bỏ việc về nhà sinh cháu Việt đây trong nỗi tủi hổ với bà con xóm giềng. Còn Giêm, chỉ sau này nhận được thư ảnh, em mới biết Giêm bị đưa về nước, ra toà xét xử. Đúng lúc phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Mỹ lên cao, được nhiều luật sư bào chữa và ít chứng cớ, anh chỉ bị sáu tháng tù. Mãn hạn tù ảnh xin nhập quốc tịch Pháp và sang Pa-ri sinh sống. Còn em về sống với cô, nuôi cháu Việt lớn lên. Cuối năm 1973 trong một buổi đi bán hàng, cô bị một chiếc xe của bọn thủy quân lục chiến say rượu chẹt chết. Tang thương chồng chất đã làm em chai cứng, chỉ còn cháu Việt là người an ủi, níu kéo em sống với cuộc đời đau thương này.
Rồi ngày 30 tháng 4 đến, em đã không dám ra đường đón chào Quân Giải phóng mà vùi đầu trong nhà khóc ròng cay đắng, chỉ có cháu Việt là hồn nhiên vô tư đón chào cuộc sống mới. Sau đó, theo yêu cầu của Ủy ban Quân quản thành phố; em đã đăng ký cháu vào diện con lai của chính quyền.
Tháng 5 năm 1986 - Giêm Mắc-cơ, người trung sĩ gốc Tây Ban Nha năm xưa ấy trong phái đoàn của các nhà kinh doanh Pháp sang thăm Việt Nam. Không hiểu bằng cách nào Giêm đã tìm được má con em. Cuộc gặp mà em không hề chờ đợi. Những năm ở Pa-ri - Giêm đã không lập gia đình, chỉ tìm mọi cách để biết tin tức má con em ở Việt Nam. Giêm bàn với em xin phép Chính phủ ta được xuất cảnh qua bên Pháp theo sự bảo lãnh của Giêm. Sau bao đêm suy nghĩ, cuộc đời em coi như đã hết từ lâu, chỉ còn tương lai của cháu Việt, để cho cháu được gần ba, bớt đi những mặc cảm dị nghị của đời thường, em đã đồng ý qua Pháp. Vả lại bây giờ Nhà nước mình cũng có nhiều chính sách thay đổi, má con em cũng sẽ thuận lợi trong việc về thăm quê hương xứ sở, phải không chị? Chị có trách mắng em điều đó không?
- Không! Đất nước mình qua bao nhiêu năm chiến tranh, khói lửa điêu linh đã xô đẩy hàng triệu triệu con người phiêu dạt, gieo tang tóc đến từng căn nhà, mỗi mái đầu vô tội. Sự khắc nghiệt của chiến tranh đã làm cho ta chai cứng, từng trải hơn. Dẫu có trách cứ, oán hờn cũng vậy. Phải chấp nhận, vượt lên trên hậu quả đau thương của chiến tranh, xây dựng cuộc sống, xây dựng niềm tin bằng tình yêu quê hương đất nước, bằng tình hữu nghị giữa các dân tộc với tấm lòng rộng lượng vị tha của mình, thưa chị!
Máy bay đã hạ cánh xuống Bom Bay, cửa ngõ phía tây của Ấn Độ. Sân bay rực rỡ nắng vàng, nhộn nhịp đông vui trong sự giao lưu quốc tế, sự gặp gỡ của tình hữu nghị vĩ đại đến từ những phương trời. Chỉ còn vài giờ bay nữa chúng tôi sẽ đến Pa-ri. Hai má con người phụ nữ Việt đang dắt nhau đi trong ga hàng không ngắm cảnh khi đang chờ chuyển chặng bay. Cầu chúc cho gia đình của họ có cuộc sống sum họp tuy muộn mằn nhưng đầm ấm hạnh phúc. Hãy quên đi những mặc cảm đau thương của chiến tranh. Hãy ngược nguồn thời gian để sẻ chia những mất mát đã xảy ra đối với mỗi con người trong dòng chảy của lịch sử chiến tranh!