Bến cảng, các quán cà phê, những bãi biển và bóng đá. Đây là Santos (nhưng chưa phải là tất cả), thành phố ven biển với khoảng 500.000 dân thuộc bang São Paulo, cách thủ phủ bang 68 km. Hàng đoàn dài những chiếc xe tải hạng nặng trên chất đầy container và hàng hóa rầm rập chạy xuyên qua Serra do Mar11 dọc theo đại lộ Rodovia dos Imigrantes, trước khi nối đuôi nhau trước lối vào của bến cảng lớn nhất ở Mỹ Latin, với tổng diện tích lên tới 13 km2. Một phần tư tất cả những gì tới và rời khỏi Brazil, cả hàng hóa lẫn người, đi qua bến cảng này. Những chiếc tàu khách xuyên Đại Tây Dương thuộc sở hữu của những công ty lớn nhất thế giới ghé qua và dừng lại trong vài giờ. Khách du lịch sẽ được cho xuống tham quan nhanh thành phố trước khi tiếp tục lên đường. Các loại tàu, tàu chở dầu, tàu chở hàng tiếp nhận hoặc bốc dỡ hàng hóa ngay trên biển hoặc trong những vũng tàu dọc bờ biển. Ánh sáng từ các ngọn đèn của những chiếc tàu này lấp lánh ở phía chân trời, tạo nên một cảnh tượng đẹp trong bầu trời đêm Baixada Santista.
11 Ngọn núi của biển - N.D.
Những mái vòm bằng đồng, một tấm kính màu mô tả câu chuyện thần thoại của đất nước, những bức tường khảm thạch anh, những hàng cột granite, các nhóm tác phẩm điêu khắc, một tháp đồng hồ cao 40 m. Ta đang nói về Bolsa Oficial de Café, một công trình khổng lồ ngự trên đường Rua XV de Novembro no. 95. Tòa nhà được xem là bảo tàng di sản cà phê của thành phố, là chứng nhân cho kỷ nguyên vàng khi Santos là điểm giao dịch cà phê lớn nhất thế giới - tới mức một số quốc gia chỉ mua cà phê được cấp chứng chỉ ở đây. Tòa Bolsa được mở cửa vào ngày 7/9/1922, và trong suốt 50 năm sau đó, nơi đây lúc nào cũng rộn ràng những tiếng gào thét, í ới của giới thương nhân, những người cố gắng mặc cả để có được loại hạt từ cây Coffea với giá tốt nhất. Ngày nay, tòa nhà trở thành một bảo tàng - một điểm thu hút khách du lịch - một nhà sách, và một nhà hàng cà phê đông đúc, nơi khách hàng có thể được trải nghiệm đủ loại hương vị.
Tòa nhà là một điểm giao thoa trong một trung tâm lịch sử mà, với những con phố lát đá, những cột đèn và những tòa nhà sơn màu tùng lam được xây vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, có thể kể lại tất cả những thăng trầm của ngành công nghiệp cà phê. Chính tại đây, vào ngày 16/2/1867, chuyến tàu đầu tiên của hãng Đường sắt São Paulo đã “cập bến”, chính thức hoàn tất nỗ lực kết nối các khu vực sản xuất với bến cảng. Thời điểm đó, bến cảng vừa là điểm xuất phát cho những chuyến tàu về châu Âu, vừa là điểm kết thúc cho những hành trình di cư của người Italia và người Nhật, những người tới để thay thế các nô lệ châu Phi trên các đồn điền. Ngày nay bến cảng vẫn là một nguồn thu quan trọng, bên cạnh các nguồn thu khác từ đánh bắt cá, thương mại và du lịch. Nền kinh tế của Santos vẫn đang trong giai đoạn phát triển rực rỡ, và có thể sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong vài năm tới khi được thúc đẩy bởi khí tự nhiên và dầu thô. Năm 2008, mỏ dầu Carioca được phát hiện trên vịnh Santos. Theo ước tính, sản lượng của mỏ có thể lên tới 33 tỉ thùng dầu thô. Nó chính là mỏ dầu lớn thứ ba trên thế giới. Với mỏ dầu này, Brazil có thể chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp, với nguồn thu chính tới từ xuất khẩu cà phê, đường, đậu nành và ethanol, thành một cường quốc xăng dầu.
Nhưng đó là chuyện của tương lai. Còn bây giờ, hãy cùng nhau quan sát Santos của ngày hôm nay. Đó là thành phố xếp thứ năm trong số các khu tự trị của Brazil về chất lượng cuộc sống. Bảng xếp hạng này được thực hiện dựa trên Chỉ số Phát triển của Liên Hiệp Quốc, vốn xem xét các yếu tố giáo dục, GDP trên đầu người và tuổi thọ bình quân. Đó cũng là một thành phố, như các thành phố khác ở Brazil, có sự chênh lệch cực lớn giữa người giàu với người nghèo, giữa những tòa nhà sang trọng bên bờ biển với favela Vila Gilda, khu nhà sàn đóng cọc ven sông lớn nhất ở Brazil; giữa trung tâm lịch sử đã xuống cấp, nơi đèn đường không còn sáng mỗi đêm, với những bãi biển luôn ngập tràn sức sống và nhộn nhịp với đủ mọi hoạt động ở phía bên kia đường hầm.
Những bãi biển là “kỳ quan” của Santos. Những bãi cát trắng mịn trải dài hơn 7 km, được tô điểm bằng những tòa nhà chọc trời. Đấy là những công trình bằng kính và bê tông, với những căn penthouse và những bể bơi sân thượng trong mơ. Chúng như những ngọn tháp, ngọn này nối tiếp ngọn kia, và ngọn kia luôn choáng ngợp hơn ngọn này. Tất cả tạo thành một đường thẳng gọn mắt, chỉ thi thoảng mới bị đứt đoạn bởi sự xuất hiện của các khách sạn tân cổ điển, những khách sạn được xây từ hồi những năm 1920 và cũng là những khách sạn đầu tiên đón các vị khách du lịch muốn được đắm mình trong biển.
Những trung tâm mua sắm, các nhà hàng, quán bar, lối đi cho xe đạp, khách du lịch, những cụ già thư thả sải bộ, những nam thanh nữ tú vác ván lướt sóng trên vai đi qua đi lại, những người chơi bi sắt và những người chơi bóng chuyền bãi biển. Dòng người tới và lui trên Praia Gonzaga dường như không bao giờ dừng lại. Vào các buổi chiều thứ Bảy, bãi biển trở thành một sân bóng khổng lồ. Trận này nối tiếp trận kia, trải dài tới hết tầm mắt. Các đường biên được vạch trên cát, cầu thủ thì đi chân trần. Người chơi đủ mọi lứa tuổi: từ những người lớn tuổi bụng phệ lúc nào cũng nhễ nhại mồ hôi và thở phì phò tới những chàng trai trẻ cân đối và đẹp đẽ; từ những cậu thiếu niên chạy xăng xái khắp sân tới những chú nhóc đang biểu diễn hết tuyệt chiêu này tới tuyệt chiêu khác. Có những tiếng hét, những pha phạm lỗi, những bàn thắng, những quả penalty và những pha ném biên; trái bóng đôi khi lướt một cách đầy nguy hiểm gần những con sóng khổng lồ của Đại Tây Dương. Có những chiếc áo đấu đủ màu sắc của tất cả những câu lạc bộ lớn ở Brazil và châu Âu, nhưng cũng có những người cởi trần chơi bóng hoặc mang những trang phục tự chế. Bóng đá sân 5, sân 11, foot volley12, “bóng đá xã hội” (sân 7): không có trò chơi liên quan tới bóng đá nào mà lại không xuất hiện trong “lễ hội” thể thao này.
12 Môn thể thao kết hợp giữa bóng đá và bóng chuyền rất phổ biến trên các bãi biển Brazil - N.D.
Nhưng rồi đêm cũng xuống và bãi biển từ từ trở lại với trạng thái tự nhiên của nó. Cột dọc và xà ngang vác trên vai, lưới cuộn bỏ vào túi, những người chơi bóng đá rời đi và được thay thế bởi những tiếng cười phát ra từ các quầy bar trên bãi biển, và bởi những người lang thang đang nhặt nhạnh chai lọ hay vỏ hộp một cách thuần thục.
Bóng đá trở lại với các câu lạc bộ, với những sân bóng ở ngoại ô, với các nhà thi đấu futsal và với các câu lạc bộ trẻ. Nó trở lại với các cổ động viên, và với ba câu lạc bộ chính của thành phố: Portuguesa Santista, Jabaquara, và Santos, đội bóng đã có công thay đổi hoàn toàn cách người ta chơi bóng đá, theo nhận định của nhóm cổ động viên nổi tiếng của đội, Torcida Jovem.
“Một trăm năm của nghệ thuật bóng đá” là khẩu hiệu mà câu lạc bộ sáng tạo ra cho lễ bách niên vào năm 2012. Có thể tìm thấy dòng chữ này ở lối vào của sân Urbano Caldeira, được biết tới nhiều hơn với tên Vila Belmiro, gọi theo tên khu vực nơi sân được xây. Đó là một khu liên hợp thể thao nhỏ được khánh thành vào năm 1916, với sức chứa ban đầu là 16.798 chỗ ngồi. Trong những thời điểm khó khăn nhất, lượng người tới sân không được 4.000.
Mọi thứ đều ở trong tầm với. Bạn gần như có thể chạm được mặt cỏ và các cầu thủ. Ở trung tâm của sân là phòng thay đồ. Trước lối vào treo một tấm biển: Vestiario Edson Arantes do Nacimiento Pelé (“Phòng thay đồ Edson Arantes do Nacimiento Pelé”). Phía bên trong là một bức ảnh lớn của số 10 vĩ đại. Đó là cách câu lạc bộ tri ân “O Rei”13.
13 Nhà vua - N.D.
Nhưng Pelé không phải là nhà vô địch duy nhất được tri ân ở đây. Trong phòng thay đồ, mỗi ngăn tủ đều dán ảnh của cầu thủ hiện tại và tên của một trong các biểu tượng của Alvinegro.
Lịch sử được thể hiện sinh động trong một không gian rộng 380 m2 của bảo tàng Memorial das Conquistas ở tầng trệt của Vila Belmiro. Tranh ảnh, các loại bóng, chữ ký, giày bóng đá, báo chí, bảng biểu, áo thi đấu và các danh hiệu. Tất cả đều để phục vụ mục đích giới thiệu 100 năm bóng đá của câu lạc bộ.
Ngày 14/4/1912 là ngày mà chiếc tàu thủy xuyên Đại Tây Dương lớn nhất, xa xỉ nhất thế giới, tàu RMS Titanic, va chạm với một tảng băng trôi và chìm xuống đáy biển chỉ sau vài giờ, Trong số 2.223 hành khách trên tàu, có 1.518 người chết. Ở Santos, cũng trong ngày Chủ nhật ấy, 39 chàng trai trẻ tuổi từ 15 tới 24 - một số là sinh viên, số khác là công nhân, nhưng tất cả đều thuộc tầng lớp trung lưu - gặp nhau trong hội trường của câu lạc bộ Club Concordia. Các nhà thể thao của Santos là Francisco Raymundo Marques, Mário Ferraz de Campos và Argemiro de Souza Júnio đã triệu tập cuộc gặp gỡ này để thành lập “một câu lạc bộ bóng đá có tầm quan trọng”. Cuộc gặp gỡ diễn ra trong một thời gian dài. Phần khó nhất là tìm ra được một cái tên thật kêu, có thể khiến tất cả ấn tượng. Ai đó đề nghị lấy tên là Africa Futebol Clube, người khác lại gợi ý cái tên Concordia, trong khi cũng có người khăng khăng phải lấy tên Associação Esportiva Brasil. Cuối cùng, vào lúc 10 giờ 23 phút tối, ý tưởng đơn giản nhất lại nhận được sự tán đồng của tất cả. Santos Football Club (viết theo phong cách Anh) là tên của đội bóng mới.
Ngày hôm sau, Diario de Santos, tờ nhật báo do Tito Brasil chủ biên, giật sự kiện này ra trang nhất với đầu đề “Thể thao”, kèm một bài viết bày tỏ mong muốn “một cuộc sống dài lâu và thịnh vượng cho câu lạc bộ thể thao mới”.
Vào ngày 15/9/1912, đội bóng mới tham gia một trận đấu trên sân bóng ở số 22 Đại lộ Ana Costa, mảnh đất nay là Nhà thờ Coração de Maria. Đó là trận đấu chính thức đầu tiên của đội. Đối thủ là Santos Athletic Club. Tỉ số chung cuộc là 3-2 cho đội bóng mới. Năm tiếp theo, Santos được mời tham gia thi đấu giải Liga Paulista de Futebol, giải đấu chính thức đầu tiên ở Brazil. Trận đầu tiên là cuộc đối đầu với Germânia, diễn ra vào ngày 1/6/1913. Santos ghi được 1 bàn thắng nhưng chịu 8 bàn thua - một màn vùi dập đúng nghĩa. Nếu đó là dấu hiệu của tương lai, thì tương lai của họ rõ ràng không sáng sủa tí nào.
Thực tế là Santos phải mất thêm 22 năm chờ đợi nữa trước khi có được danh hiệu đầu tiên, chức vô địch bang São Paulo năm 1935. Ở thời điểm đó, bóng đá ở Brazil đã trải qua quá trình chuyên nghiệp hóa được 2 năm. Cũng trong năm đó, trong một trận đấu ở Vila Belmiro với São Paulo da Floresta (tiền thân của São Paulo hiện tại) diễn ra vào ngày 12/3, các cổ động viên của Santos đã chính thức thừa nhận biệt danh mà cổ động viên các đội bóng khác đặt cho họ. Mỗi lần Santos thi đấu ở São Paulo, các cổ động viên của đội chủ nhà lại chọc tức các cổ động viên Santos bằng cách gọi họ là “cá thối” hay “bọn bán cá”. Trong trận đấu với São Paulo da Floresta hôm đó, các cổ động viên của Santos cảm thấy thế là quá đủ, và bật lại, “Phải, bọn tao là dân bán cá, và bọn tao tự hào về điều đó”.
Peixe (cá) trở thành biệt danh chính thức của Santos, và một chú cá voi sát thủ trở thành vật khước của câu lạc bộ. Nhưng chú cá voi sát thủ chẳng đớp được cú nào ra hồn. Sau danh hiệu đầu tiên, câu lạc bộ đã phải trải qua một giai đoạn dài khô hạn. Đó là một thời kỳ đen tối với đội bóng, mà theo cách ví von của tác gia và bình luận viên José Roberto Torero là “thời trung cổ của chúng tôi”. Ông không sai: phải mất thêm 20 năm nữa thì Santos mới có được danh hiệu vô địch tiếp theo. Năm 1955, đội bóng của những Manga, Hélvio, Feijó, Ramiro, Formiga, Urubatão, Tite, Negri, Álvaro, Del Vecchio và Pepe đã đánh bại Taubaté 2-1 trong trận chung kết.
Rồi vào tháng 6/1956, một cậu trai 15 tuổi xuất hiện ở Vila Belmiro, đi cùng với cậu là cựu tuyển thủ Seleção Valdemar de Brito. Sinh ra ở Três Corações thuộc bang Minas Gerais, cậu bé đó là Edson Arantes do Nacimiento. Pelé, đúng vậy, người đã cùng với Gilmar, Dalmo, Mauro, Calvet, Zito, Mengalvio, Lima, Dorval, Coutinho, Pagão và Pepe biến Santos thành đội bóng nổi tiếng nhất thế giới, và nâng tầm bóng đá Brazil thành chuẩn mực của sự tinh túy bóng đá.
Giai đoạn cuối những năm 1950 và những năm 1960 là kỷ nguyên vàng của đội bóng: 9 chức vô địch quốc gia, 5 cúp Brazil, 2 Copa Libertadores14, và 2 cúp Liên lục địa. Santos cũng là nền tảng của đội tuyển Brazil đã vô địch World Cup vào các năm 1958, 1962 và 1970.
14 Giải vô địch các câu lạc bộ Nam Mỹ, tương đương với cúp C1 của châu Âu - N.D.
Sự bùng nổ của bóng đá trong giai đoạn này diễn ra đồng thời với nhiều cột mốc đáng chú ý trong những lĩnh vực khác trên thế giới. Rock ‘n’ roll, The Beatles, rồi bossa nova (một loại hình nghệ thuật giàu sức ảnh hưởng, là sự pha trộn giữa samba với jazz và nhạc cổ điển). Thủ đô mới Brasilia cũng được xây xong trong giai đoạn này. Đó là một thành phố với kiến trúc của tương lai, là biểu tượng của Brazil thời kỳ mới, và mang theo hy vọng về một xã hội đại đồng nơi con người thuộc mọi nguồn gốc có thể chung sống hạnh phúc bên nhau. Hy vọng đó sớm bị đánh sập bởi cuộc đảo chính quân sự diễn ra không lâu sau đó, vào ngày 31/3/1964, và kéo theo nó những năm tháng dưới chế độ độc tài.
Nhưng dù thế, futebol, nghệ thuật của bóng đá, phong cách Santos, được phát triển trong những năm tháng của đổi thay và hy vọng, vẫn tiếp tục tạo ra hết bất ngờ này tới ngạc nhiên khác. Pelé, người ghi đến 129 bàn trong năm 1959, chính là một biểu tượng không thể tranh cãi, là niềm tự hào của cả quốc gia. Thứ bóng đá mà Alvinegro Praiano đã chơi là nghệ thuật bóng đá, là một show diễn trong hình thức nguyên sơ nhất của nó, là sự biểu đạt niềm vui và cảm giác hạnh phúc trong bóng đá. Ai cũng muốn được tận mắt chiêm ngưỡng thứ bóng đá ấy. Và bởi thế, Santos cũng trở thành một dạng Harlem Globetrotters15 của bóng đá, với những tour du đấu tới 59 quốc gia. Santos thậm chí từng kết thúc được cả một cuộc chiến. Vào tháng 1/1969, trong tour du đấu châu Phi, họ đã thuyết phục được các bên tham chiến ở Congo hạ vũ khí. Tương tự, cũng trong năm đó, chuyến du đấu của họ tới Nigeria đã dẫn tới một thỏa thuận đình chiến tạm thời trong cuộc chiến Biafran.
15 Đội bóng chuyền biểu diễn nổi tiếng, đã thực hiện hơn 26.000 trận đấu biểu diễn ở 122 quốc gia - N.D.
Vào ngày 19/11/1969, trong một trận đấu tranh Cúp Bạc (tiền thân của giải Vô địch Quốc gia Brazil ngày nay, Brasilerão) với Vasco da Gama, trước sự chứng kiến của 65.157 cổ động viên trên sân Maracanã ở Rio, “Viên ngọc đen” ghi được một bàn thắng từ chấm 11 m. Đó là bàn thắng thứ 1.000 của ông. “Cả thế giới hãy tán thưởng cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất mọi thời đại”, một bình luận viên bình luận trên radio.
Nhưng chỉ 5 năm sau, là ngày buồn nhất. Ngày 2/10/1974, Santos gặp Ponte Preta ở Vila Belmiro. Phút 22 của trận đấu, Pelé ôm trái bóng trong tay, quỳ xuống ở vòng tròn trung tâm, hai tay giơ cao lên trời và lần lượt hướng về các phía khán đài. Đồng đội và đối thủ vẫy tay. Pelé đứng đậy, cởi chiếc áo sọc trắng-đen ra, chạy một vòng quanh sân trong những tiếng vỗ tay vang dội, trước khi vừa khóc vừa đi vào phòng thay đồ, bỏ lại phía sau cả một sân vận động đang nức nở. Sau 19 năm, O Rei quyết định chia tay Santos.
“Brazil là góa phụ của Pelé”, giới phóng viên truyền hình bình luận. Đó là thực tế mà cả đất nước, và tất nhiên Peixe, cảm thấy rất khó chấp nhận. Những năm tháng của thứ bóng đá tuyệt vời khép lại từ khoảnh khắc ấy. Theo sau là một giai đoạn buồn đau. Câu chuyện của Santos vẫn phải tiếp diễn, nhưng quá trình hồi sinh của họ kéo dài tới 4 năm. Phải tới năm 1978, họ mới tìm lại được thành công ở giải Paulistão, với những cái tên trẻ trung và đầy nhiệt huyết như Juary, Pita, Ailton, Lira, Nilton Batata và João Paulo trong đội hình. Đó là thế hệ của những Meninos da Vila (“Những đứa trẻ của Vila Belmiro”).
Emerson Leão, vị huấn luyện viên tới Santos vào năm 2002, là người rất tích cực tạo cơ hội cho các cậu bé trong các đội trẻ của Santos, như điều mà Lula (Luis Antonio Perez) đã làm trong những năm 1950 và 1960. Lịch sử được lặp lại. Santos được tái sinh với thế hệ Meninos thứ hai: Dẫn đầu là Diego và Robinho, những người đưa Santos tới chức vô địch Brazil thứ 7 vào năm 2002 với thứ bóng đá đầy sống động và đậm chất biểu diễn. Và 8 năm sau là thế hệ Meninos thứ ba, với Neymar là nhân vật tiên phong.
Để tôn vinh Pelé, bảo tàng Memorial das Conquistas ở Vila Belmiro dành riêng một ngăn để trưng bày những ký ức và cảm xúc về ông. Người còn lại duy nhất cũng được tôn vinh theo cách này là Neymar. Hai nhà vô địch, vai kề vai. Một bức tượng thiếc sáng bóng với kiểu tóc Mohican cho Neymar, và một bức tượng đồng với chiếc áo số 10 của Brazil cho Pelé.