Đồn biên phòng Xín Chải nằm trên một ngọn đồi cao, nhìn ra bốn bề có thể thấy năm, sáu thôn bản nhấp nhô bám lấy chân những đồi thấp lô xô như bát úp. ở những vạt trũng, rừng già lượn vòng kết thành mạng cây xanh vây kín đồi cỏ gianh trống trải. Những dòng suối nhỏ và dài, trông mảnh như sợi chỉ luồn lách quanh co giữa thung lũng xanh, thỉnh thoảng bò ra quãng trống lấp lánh ánh mặt trời, chỉ một đoạn ngắn lại chui vào rừng.
Đồn xây từ thời thuộc Pháp, tường đá dày phủ kín rêu xanh, tháp canh và lỗ châu mai tạo thêm cho nó cái vẻ nghiêm, vẻ dữ. Trong vòng trên dưới 30, năm lắm thứ quân phản cách mạng đã đóng ở đây: quân Pháp, quân Nhật, quân Tàu Tưởng, quân ngụy, chưa kể đám thổ phỉ nay ở mai dời. Và cũng lắm thứ cờ đã treo lên chót vót đỉnh cột trước sân đồn: cờ tam tài, cờ mặt trời, cờ thanh thiên bạch nhật, cờ sọc dưa. Từ ngày vùng Tây Bắc giải phóng, công an vũ trang lên đây trấn giữ, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay nơi địa đầu biên giới kể đã 25 năm. Vẫn là đồn ấy, trại ấy nhưng nhìn cảnh quan chung, nó không còn cách biệt với đời sống của làng bản xung quanh. Những vườn rau, nương sắn nằm ngoài hàng rào, chạy từ chân dốc lên lưng sườn đồi, từ bao giờ đã xoá sạch hình ảnh những bãi dây thép gai ken dày đánh đai quanh những bờ tường thâm nghiêm, nơi ấy chỉ có cây xấu hổ cùng đủ loại cỏ dại mặc sức chen nhau mọc. Nơi ngày trước cự mã quấn dây thép gai bùng nhùng, nay đã dựng lên nhà tiếp khách và ở phía đối diện bên kia đường ra vào là bãi đất phẳng; những buổi chiều có cuộc đấu bóng chuyền, những đêm có đội chiếu bóng của tỉnh về, chiến sĩ trong đồn cùng các bạn trẻ khắp các làng bản xa gần đều lấy đó làm nơi gặp gỡ. Ngoài con đường chính từ cửa khẩu biên giới đi về huyện qua bản Xín Chải dài dằng dặc, qua các bản Pa Ưm, Giàng San, Cò Cải, còn có nhiều đường mòn toả xuống các làng bản khác trên cao nguyên Phùng Khen. Riêng các chiến sĩ biên phòng đi tuần tra biên giới, mỗi chuyến đi về mất hàng chục ngày. Họ phải theo một con đường người thường ít đi, con đường mở qua rừng qua núi, chỉ có trèo đá, vượt dốc, người mang thồ nặng cũng không qua nổi, đừng nói đến ngựa.
Trên cơ sở đồn cũ, hàng loạt nhà mới được xây dựng thêm theo quy hoạch cơ bản: hội trường, nhà ăn, nhà trực ban. Màu ngói đỏ dân dã làm dịu bớt những mảng, những nét khắc khổ, dữ tợn do những hình khối bê tông vốn có tạo nên. Chỉ nhìn vào cách cấu trúc doanh trại, người dân đã cảm thấy đồn biên phòng gần gũi với bản làng hơn ngày xưa nhiều.
Giờ làm việc, doanh trại vắng vẻ. Các đội công tác tỏa xuống bản. Tổ kiểm soát hành chính ở tách hẳn ra, ngoài cửa khẩu biên giới. Phân đội vũ trang vừa kết thúc chuyến tuần tra ban đêm, đang tranh thủ xuống suối tắm giặt. Chính trị viên Trụ, trực chỉ huy, ngồi một mình trước bàn làm việc, cúi xuống viết say sưa. ở tuổi trên bốn mươi, ở quê, dễ thường người ta gọi anh bằng ông rồi, nhưng cách ăn mặc, áo bốn túi cài cúc cổ nghiêm chỉnh, mũ bông biên phòng gọn gàng làm cho anh trẻ lại. Trụ đang chuẩn bị báo cáo trước đại hội chi bộ sắp đến. Hàng loạt vấn đề công tác, chiến đấu và đời sống đơn vị đòi hỏi một sự đánh giá đúng đắn và phương hướng giải quyết có hiệu quả. "ý kiến bí thư quyết định chiều hướng thảo luận và nội dung mọi nghị quyết, dù là họp thông qua chi ủy hay đưa vấn đề ra chi bộ". Trụ nghĩ thế, quen nghĩ thế. Anh tìm tài liệu trong tập hồ sơ lưu, trong sổ tay công tác. Trên bàn đã có sẵn các bản nghị quyết đại hội, hội nghị tổ chức Đảng các cấp. Chỉ còn việc hệ thống, đối chiếu và tổng hợp thành văn bản dự thảo. Dù đã thành nếp làm quen thuộc, lần này Trụ cứ vừa viết vừa ngập ngừng. Mới bắt đầu phần đánh giá chất lượng chiến sĩ, anh đã thấy bối rối. Nhiều nhân tố xa lạ chen vào đời sống tinh thần của đơn vị. Lính đi phép trễ ngày nhiều hơn. Đám trẻ trước đây chỉ nói chuyện yêu đương thầm lén với nhau, bây giờ nói công khai, thư từ cô này, anh nọ ngày một tăng. Từ ngày giải phóng miền Nam, không biết bằng con đường nào, những kiểu cách mới lạ xâm nhập tận nơi tận cùng núi non này. Anh em ăn mặc khác đi mà hát hò cũng khác đi. Nhiều chuyện quá. Viết báo cáo là chuyện đã quen, cung cách đã thuộc, vậy mà Trụ cứ phân vân mãi, không dám hạ bút viết câu đánh giá có sẵn trong đầu: "Nói chung, cơ bản là tốt, nhưng....". Thế là gác bút. Trụ lên tiếng gọi cậu chiến sĩ liên lạc, bảo:
- Đi gọi cậu Lầu Chư ở đội vũ trang lên gặp tôi nhé.
- Báo cáo thủ trưởng, Chư còn giặt dưới suối.
- Được, cứ nói ba mươi phút nữa lên gặp ban chỉ huy.
- Rõ.
Ngồi lại một mình, Trụ cảm thấy trống vắng. Chưa bao giờ trống vắng như vậy. Anh giật mình nhận ra một điều không vui: lâu nay các chiến sĩ ít gần gũi, trò chuyện tâm sự với chính trị viên. ở một đôi người, anh đã đọc được trong ánh mắt ý nghĩ lảng tránh. Điều gì đã xẩy ra trong mối quan hệ giữa anh với họ nhỉ ? Nhìn lại mình một cách nghiêm túc, anh không hề thấy một sai sót nào, đừng nói đến sa sút về phẩm chất tư cách. Hai mươi bốn tuổi quân, mười bảy năm làm công tác chính trị, dù ở đơn vị nào anh cũng giữ vững vị trí trung tâm lãnh đạo, trung tâm đoàn kết, nhiều lần được bầu là chiến sĩ thi đua, có chân trong đảng uỷ công an vũ trang cấp tỉnh. Anh đã vượt qua nhiều đợt thử thách lớn trong công tác : lãnh đạo đơn vị trong chiến đấu tiễu phỉ, trong đợt hoạt động chi viện bên khu C, động viên chiến sĩ đi chiến đấu ở miền Nam. Chính trị viên quả thật là linh hồn của đơn vị, là niềm tin của chiến sĩ. Anh thường vui sướng nghĩ thầm như vậy. Hoà bình trở lại trên cả nước đã được hai năm. Nhìn ra, tình hình công việc trôi chảy hơn, thoải mái hơn mới phải. Hoá ra, lại phức tạp hơn. Quả là vô lý, khó hiểu đối với anh. Trụ chỉ yên tâm được hai điều. Thứ nhất là : chính trị viên rất ăn ý với đồn trưởng. Cùng là đại uý, tuy Trụ hơn Páo sáu, bảy tuổi quân, nhưng anh rất tôn trọng người chỉ huy. Thứ hai là : nội bộ cấp uỷ thống nhất. Hai điều ấy Trụ cho là cơ bản, là hai điều tâm đắc anh rút ra từ quãng đời khá dài lãnh đạo đơn vị cơ sở. Nhưng tại sao lại có khoảng cách giữa các chiến sĩ đối với anh, trong lúc mối quan hệ của anh với các sĩ quan khác đều êm thấm? Vấn đề là ở sự biến dạng trong lối sống, lối nghĩ của chiến sĩ trẻ? Kết luận của Trụ cuối cùng phải là như vậy. Uốn nắn sự biến dạng ấy như thế nào? Và đánh giá nó ra sao? Đó là điều băn khoăn của Trụ. Thoáng thấy bóng người ngoài sân, mới nhìn tưởng là một cán bộ thôn bản nào đó đến làm việc với đồn; bộ quần áo vải Thái màu chàm, chiếc túi thổ cẩm đeo chéo ngang lưng, mũ nồi đen; Trụ chực đứng dậy ra đón. Đến khi người ấy ngửng đầu lên, Trụ nhận ra Chân, đội trưởng trinh sát của cấp trên cắm tại địa bàn, anh lên tiếng gọi :
- Vào đây đã! Anh Páo còn đi xuống bản.
Bước đi của Chân có vẻ ngập ngừng. Trụ giục:
- Cán bộ cấp trên vội vàng đi đâu? Vào đây!
Chân lững thững đi vào. Dáng người tầm thước, gầy, nước da tai tái, chỉ có đôi mắt sáng, thoáng trông có vẻ buồn. Thoạt nhìn, không ra dáng công an vũ trang. Lưng hơi gù, cứ như muốn thu mình nhỏ lại. Giống hệt một anh cán bộ lâm nghiệp đang lẩn thẩn tính sản lượng cây rừng. Hai người vốn cùng quê, quen biết nhau từ lâu nên chẳng khách khí gì. Chân mệt mỏi ngồi xuống chiếc ghế đẩu đặt tận góc phòng, xa chỗ Trụ ngồi. Cái khoảng cách dường như cố ý ấy, Trụ cảm nhận ngay. Anh rót nước mời Chân, cái nhìn pha chút thương hại, thương một con người có năng lực những đã ngã một lần, khó gượng dậy được.
Chân vào ngay vấn đề :
- Tôi có một việc muốn đề đạt với các anh. Về việc cháu Thào Mỉ đi học lớp kế toán trên tỉnh ấy mà. Nên để cho nó đi, bản Pa Ưm đã chọn nó. Được đấy.
- Chuyện Thào Mỉ ấy à? Chủ tịch xã Lỳ Choóng cũng đang phân vân về lý lịch của bố nó.
- Nhưng bản thân cháu là đoàn viên thanh niên cộng sản.
- Đã đành là thế. Nhưng bố nó có dính vụ xưng vua, đi phỉ đi phung ngày trước, phải cân nhắc kỹ.
- Chuyện ấy đồn biên phòng và xã đã xem xét kỹ nên mới không đưa Xá Hừ vào diện cải tạo tại chỗ thời chống Mỹ. Mười năm nay, anh ta chưa có thể biểu hiện gì xấu, vẫn hưởng đầy đủ quyền công dân và làm tròn mọi nghĩa vụ. Uỷ ban xã đang chờ ý kiến chính thức của các anh.
- Được rồi, tôi sẽ trao đổi thêm với cậu Giang.
Chân không nói thêm gì nữa. Trụ để ý, cứ mỗi lần nghe nhắc đến Giang là Chân giữ im lặng.
Chiến sĩ Lầu Chư, quân phục chỉnh tề, bước vào cửa, đứng nghiêm chào thủ trưởng :
- Báo cáo tôi có mặt!
Chân đứng dậy. Trụ giơ tay, muốn ngăn anh đi :
- Cứ ở lại đây. Chờ cho một lát.
- Thôi, để anh làm việc. Tôi sang phòng bên chờ anh Páo.
Khi Chân đi khỏi, Trụ chỉ ghế cho Lầu Chư ngồi.
* *
*
Chư đậm người, đôi mắt nhỏ và đằm, nhìn vào cứ thấy như nhấp nhoáng ánh lửa, miệng thoáng nét cười. Gương mặt ánh lên vẻ thông minh, toả sáng tình người... chỉ có vầng trán hơi dô vừa cứng cỏi, vừa bướng bỉnh. ở con người ấy, mọi ý nghĩ thầm kín đều trồi ra lập loè trên mắt trên môi. Anh binh nhất ngồi trước mặt chính trị viên cấp đại uý, bóng mắt vẫn tỉnh nguyên, rõ là người trẻ đầy tự tin. Trụ nghĩ thế, cái nết đáng quý, mười năm về trước anh ít bắt gặp được ở những chiến sĩ của mình. ờ, anh ở miền núi lâu năm thật đấy, nhưng trước kia chỉ sống với chiến sĩ người Thái, người Dao, chưa ở nhiều với các chiến sĩ người Mông như ở đây, trên cao nguyên Phùng Khen. "Chẳng trách Thào Mỉ say nó". Trụ nghĩ thế, nhưng không đi ngay vào chuyện.
- Nghe nói bố già mùa này bắt tay làm lúa nước hả? Có chắc ăn không?
- Mở việc ra phải tính trước tính sau mới làm chứ, thủ trưởng! Nghĩ ngắn gióng là hỏng việc, bố tôi bảo thế.
- Ai cày, ai cấy cho? Bố già tự làm lấy cả à?
- Bố tôi bảo : người Mông cái gì cũng làm được, làm khéo, trừ cái ô tô. Còn chuyện cấy cày ấy à? Bố bảo : "dễ như lấy tổ kiến về ăn trứng". Thủ trưởng có dịp nào đến thăm ruộng bố tôi làm, sẽ thấy bố nói không sai. Cữ này, lúa đang tơ, lá rủ mềm như con gái làm nũng.
- Khá lắm. Chắc chắn sẽ có ngày tôi về thăm bố già. Tôi chỉ nghĩ khó một điều là con bò vùng cao quen cày nương, làm thế nào xuống ruộng nước được. Vả lại, lúa nương nhà cậu dư ăn, chẳng cần mở rộng ruộng như những gia đình khác.
Chư lắc đầu, cười đáp :
- Chẳng có dư đâu. Mùa lúa nương vừa qua, hạt mẩy đấy nhưng gặp mưa rừng dai dẳng, cái mầm bám theo hạt thóc về nhà, thủ trưởng bảo ăn cái gì?
- Chà, cứ cái đà này, bố già sẽ đuổi kịp người Hà Nhì và người Thái về kỹ thuật làm lúa nước.
Trụ tưởng nói vui một câu để dắt sang câu chuyện chính, không ngờ đang thuận dòng suy nghĩ, Chư bắt lấy luôn :
- Chính đồng chí Lò Văn Lá, người Thái, bí thư chi đoàn đơn vị ta hướng dẫn và giúp đỡ cho bố tôi làm lúa nước đấy chứ. Bố học cả tiếng Thái, bập bẹ được dăm chữ rồi.
- Lại thế nữa?
- Thế đấy, thủ trưởng ạ. Là thế này : giống bò Mông không quen cày ruộng nước. Anh Lá giúp bố đổi một con trâu vùng dân Thái. Cái sự rắc rối là ở chỗ người Mông điều khiển con trâu Thái, quát bằng tiếng Mông, nó không nghe. Nó đã quen tiếng Thái mà. Vậy là phải chọn một trong hai cách : Hoặc dạy cho con trâu làm quen với tiếng Mông, hoặc là người điều khiển phải làm quen với tiếng Thái. Bố chọn cách thứ hai. Cũng chỉ học có dăm ba tiếng cần thiết do anh Lá bày. Đại khái "đi thẳng" thì quát : "Xư pay!", "quay!" thì hô : "Teo". Bây giờ thì trâu và người ăn ý nhau lắm rồi.
Trụ cười thoải mái. Anh vui vì cái vui thật thà của Chư. Anh con trai bắt chuyện, câu nọ đẩy câu kia, cái men hăng lên dần là có sự cởi mở với chính trị viên, sự cởi mở lâu nay anh hằng thèm khát. Vậy mà câu chuyện chính anh định nói với Chư, ngập ngừng mãi chưa tiện nói, chỉ có thắt lại chứ không mở ra. Nói ra thì hẳn lòng Chư phải nặng xuống. Nhìn môi, nhìn mắt, nhìn lẫn nhau, lòng thấy thương thương. Nhưng không nói không được. Chính trị viên, bí thư chi bộ phải giữ nguyên tắc. Không giữ nguyên tắc không còn là chính trị viên. Khổ thế đấy. ắt phải nói ra, vì đã gọi Chư lên gặp, chính là để nói chuyện ấy. Anh nối mạch chuyện đang nói dở :
- Bố già của Chư tiến bộ lắm!
- Tôi cũng biết thế, thủ trưởng ạ. Người Mông xuống làm ruộng nước để cắm lại một chỗ, không lang thang như giống chim, ấm ở lạnh đi theo mùa, là tiến bộ.
- Thế Lầu Chư có tiến bộ không?
- Thủ trưởng xem, con trai Mông có phải ai cũng chịu rời bản làng đi bộ đội cả đâu. Cái nương nó giữ chân, con gái nó giữ tay, bứt đi đâu phải dễ. Vậy mà tôi dám đi, bố tôi dám cho tôi đi. Vào đơn vị, tôi được kết nạp Đoàn. Thủ trưởng bảo không tiến bộ hơn lúc ở nhà sao?
- Ừ, thì Chư đã có tiến bộ; tiến bộ nhiều trong công tác. Nhưng e rằng khó giữ được tiến bộ đấy.
Lầu Chư ngồi thẳng lưng lên, nhìn Trụ chằm chằm, hỏi lại :
- Thủ trưởng nói thẳng cho tôi rõ, chứ cứ câu ngang, câu dọc tôi không hiểu ý thủ trưởng đâu.
Sắc mặt Trụ đằm xuống. Anh nói với Chư :
- Gọi cậu lên đây, cũng có chuyện cần nói đấy. Chuyện giữa cậu và Thao Mỉ ấy mà. Hai người với nhau là thế nào?
Hai nét lông mày Chư như uốn đuôi, cong lên. Chư tự bảo mình : "Chính trị viên đã hỏi đến, không phải là bé chuyện!". Một thoáng, bóng mắt lùi nhỏ đi như nghĩ.
Chư giãi bày :
- Thào Mỉ yêu tôi, tôi cũng yêu Thào Mỉ.
- Bố cô ta là ai, Chư có biết không ?
- Ông thợ rèn Xá Hừ, ai mà không biết, thủ trưởng?
- Ngày trước ông ta làm gì, Chư biết chứ?
- Biết. Thào Mỉ có kể lại hồi cô lên ba, bố mẹ cô có đi theo vua Mông. Đám xưng vua tan, Thào Mỉ được thủ trưởng Chân cứu sống. Ông Xá Hừ được xá tội lầm đường đi theo vua.
- Nói cho đúng, tội đi làm phỉ.
- Vâng, làm phỉ. Nhưng đã biết sai, từ bấy đến giờ không làm điều gì sai với Chính phủ, với dân bản. Tôi có hỏi thủ trưởng Chân, cũng được trả lời như vậy.
- Bây giờ, ý định của Chư về chuyện này ra sao ?
- Báo cáo thật với thủ trưởng, hai đứa chúng tôi đã như gió quấn rừng già, đậm tình với nhau mặn hơn muối, rồi cũng đi đến xây dựng với nhau thôi. Thủ trưởng thấy được chứ?
- Được hay không cũng còn phải bàn, phải nghĩ đã chứ? Chư đã hỏi bố già chưa?
- Bố tôi giục tôi kiếm vợ từ lâu rồi. Bố bảo : "Con trai mười tám lấy vợ là muộn, con đã hăm ba, sức đẩy ngã gấu mà cứ đứng một mình, bố không ưng cái bụng". Thưa với bố chuyện Thào Mỉ, bố bảo: "Được! Con nhà Xá Hừ, tao chấm được".
- Thế thì bố có biết Xá Hừ ngày trước đi làm phỉ không?
- Biết chứ! Bố bảo : "Hồi còn trẻ tao cũng thích người Mông ta có vua, tao cũng đã từng cầu mong vua ra".
- Thế ư? - Trụ nhíu lông mày hỏi lại.
- Vâng. Hồi tôi lên bảy đã nghe bố nói như vậy. Bố còn nói : "Tao muốn có vua nhưng không thích đi làm phỉ. Tao ghét phỉ vì mỗi lần nổi phỉ chỉ thấy giết chóc, tao ghét. Đời tao đã thấy nhiều lần như vậy". Sau này, đến ngày tôi đi bộ đội, bố mới nói: "Sở dĩ đời tao không theo vua làm phỉ, là vì từ ngày có cải cách dân chủ miền núi, Cụ Hồ cất được cho tao cái khổ bọn thống lý, thống quán đè nặng lên lưng lên cổ người Mông ta. Cụ Hồ là vua Mông mà tao mong đợi đấy con ạ".
Ánh mắt hai người gặp nhau. Trụ không kìm được xúc động, thốt lên mấy tiếng: "Bố tốt quá, Chư ạ".
Nhìn vẻ mặt thủ trưởng thoáng vẻ tươi, Chư thấy mọi việc sẽ êm thuận. Không ngờ thủ trưởng đưa chuyện sang mạch khác:
- Ý của mình thế này, Chư ạ! Quan hệ yêu đương giữa cậu và Mỉ khó xuôi đấy. Lý lịch gia đình vướng lắm. Chư là chiến sĩ biên phòng, là chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc, được lựa chọn kỹ...
- Báo cáo thủ trưởng, Mỉ cũng là đoàn viên như tôi, lại được tiếng là xung phong đi vận chuyển hàng tiếp tế biên giới, là nữ dân quân hăng hái đi tuần tra biên giới. Có khác gì ạ?
- Khác là ở chỗ lý lịch gia đình, tôi đã nói mà!
- Thủ trưởng ơi, chẳng lẽ con người thật khác con người trên giấy ư?
Trụ sững người trước câu hỏi ngồ ngộ nhưng khó trả lời của Chư. "Chiến sĩ ngày nay không còn sợ chỉ huy từ đuôi con mắt lườm trở đi nữa". Anh nghĩ thế. Cái lý của anh vẫn thế, vẫn cứng nhưng anh cảm thấy đã cùn:
- Chuyện cuộc đời cũ của bố Thào Mỉ là có thật.
- Chuyện cũ thì cũng vụn như bột phấn nứa, thủ trưởng ạ. Giữa tôi và Thào Mỉ là chuyện tình yêu. Chuyện tình yêu không cắt, không bắt, không trói được đâu.
- Cậu đang làm nghĩa vụ quân sự, chưa được phép nói tới chuyện cưới vợ.
- Tôi sẽ đợi đến lúc ra quân, thủ trưởng đừng lo. Tôi đợi được.
Người chiến sĩ làm cho chính trị viên lúng túng thực sự. Câu chuyện hóa ra không đơn giản như anh nghĩ. Trụ có cảm giác gặp người chiến sĩ cởi mở nhưng bướng bỉnh này, mình khó xoay xở thật. Cứ ép nữa, e quá nhẫn tâm chăng? Nhưng còn nguyên tắc? Chọn lựa được một chiến sĩ biên phòng phải xem xét lý lịch vài, ba đời. Mọi quan hệ yêu đương, tìm hiểu người yêu và xây dựng gia đình của anh ta đều phải được quản lý chặt. Chẳng lẽ anh thất bại trong trường hợp này chăng? Hay là có một cái gì mới mẻ buộc phải suy nghĩ trong việc quản lý, giáo dục chiến sĩ trẻ? ép thì không nỡ, nhưng đã gọi cậu ta lên, cũng phải có một thái độ nào cho rõ ràng, ít nhất là một lời bảo ban cần thiết.
Trụ chưa kịp nghĩ ra điều gì mới thì Lầu Chư đã nắm lấy bàn tay anh đặt lên mặt bàn, cái nắm tay ấm áp đầy vẻ tin cậy làm cho anh xúc động. Chư hạ giọng xuống hẳn:
- Thế này, thủ trưởng ạ. Chúng tôi đã ngủ với nhau rồi đấy. Không bỏ nhau được đâu. Cái lý người Mông không cho phép tôi bỏ Thào Mỉ đâu.
Nghe Chư giãi bày với giọng tỉnh khô, Trụ rụt ngay bàn tay lại. Chuyện trai gái đến độ ấy mà cậu ta coi nhẹ như không. Anh buột miệng thốt lên:
- Lại như thế nữa ư?
- Vâng, là thế đấy. Thủ trưởng biết không, đã ăn lời nhau, bây giờ bỏ lời, bỏ hẹn thì lắm thứ rắc rối vô cùng.
- Bố Thào Mỉ có biết việc này không?
- Biết quá đi chứ, thủ trưởng. Nhưng ông để mặc. Vậy là ông êm bụng. Thế nhưng, nếu bây giờ nói giả dụ tôi bỏ cuộc thì chính ông bố bắt phạt vạ ngay. Ngày xưa thì phải mổ bò cúng ma, phải nộp 5 đồng bạc trắng. Ngày nay có phiên phiến đi cho thì cũng phải mất con bò. Mất bò đối với tôi không đáng sợ bằng mất Thào Mỉ. Thủ trưởng biết không, con gái Mông dám ăn lá ngón chỉ vì một câu mắng của bố mẹ. Huống gì...
Chư bỏ lửng câu nói, mắt nhìn xa vời vợi. Trụ ngồi nghe Chư giãi bày, câu nói nhẹ thênh thênh, thẳng tuột mà nặng sự đời. Với một chiến sĩ người Kinh, sự việc này ắt dẫn đến kỷ luật. Trụ đã quen nếp nghĩ phân loại mức độ sai lầm và hình thức giáo dục cần thiết. Gặp trường hợp này của Lầu Chư, con người không biết che chắn, giấu giếm, con người bộc trực, quen sống theo tập tục và cái lý của dân tộc mình, Trụ cảm thấy lẽ đời mạnh hơn quy chế; Tình người và lòng tin trao gửi cho nhau không thể chỉ có một chiều. Chính trị viên xử sự hấp tấp là rơi ngay vào sự phũ phàng. Là gãy. Tuy vậy, cuộc sống vẫn có những chuẩn mực của nó, đó là cái cần thiết để giữ vững sức mạnh chiến đấu của người chiến sĩ. Trụ nói với Chư:
- Chư ạ, cậu đã thật thà báo cáo hết mọi việc với tôi. Nói là trao đổi thì đúng hơn. Thông thường, những hành vi giống như của cậu, người khác giấu kín không cho ai biết. Vì lộ ra là bị kỷ luật. Bởi sợ kỷ luật, người ta mới che giấu. Còn Chư, do bản tính thật thà mà cậu không giấu giếm. Cậu chưa có quan niệm làm như vậy là vi phạm kỷ luật. Cậu chưa biết phẩm chất của một chiến sỹ biên phòng là phải giữ nghiêm kỷ luật, trong chiến đấu, trong rèn luyện cũng như trong đời sống. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Lòng tin của dân bản đối với chúng ta cũng dựa vào đó. Chuyện này ta sẽ bàn sau. Còn cách xử sự cần thiết của Chư trong mối quan hệ với Thào Mỉ, theo tôi nên thế này. Trước hết, chấm dứt việc ban đêm đánh đường xuống Pa Ưm để gặp Thào Mỉ, chưa nói đến để làm gì. Nếp sống doanh trại không cho phép chiến sĩ bỏ đơn vị dù là một giờ. Sẵn sàng chiến đấu mà. Tôi nói có đúng không?
- Thủ trưởng nói đúng. Tôi sẽ không bỏ đi đêm, xuống với Thào Mỉ nữa.
- Theo chỗ tôi biết, những lúc rảnh rỗi, cậu thường xung phong chăn dắt ngựa của ban chỉ huy, đi cắt cỏ hoặc tắm cho ngựa, cũng có lý do riêng, phải không? Chính anh Giang cũng biết thế cơ mà.
Đáp lại cái nháy mắt của chính trị viên, Chư tủm tỉm cười:
- Có đấy, thủ trưởng ạ. Đã quấn lấy nhau, nhớ nhau lắm, nhớ khổ sở. Tôi cứ như người khát nước, uống không biết bao nhiêu nước cho đã cơn khát. Có gì đâu, chỉ cần gặp nhau một thoáng, cái nhìn đã làm ấm vui đôi mắt, người nhẹ thênh thênh như mọc thêm cánh. Người già thường bảo: "Nhìn nhau một tí mới nên cơm, nên canh". Quả đúng thật. Còn cái việc "làm gì", thủ trưởng đừng lo. Con gái Mông biết giữ phép lắm, không dễ đâu.
- Vậy từ nay tôi cắt cử người khác đi chăn ngựa, Chư có giận tôi không? Nghĩa là Chư sẽ ít đi hơn. Đi nhiều quá, Thào Mỉ thu hết vía, đầu óc mê mẩn, lòng mềm, làm sao Chư làm tròn, làm tốt nhiệm vụ chiến đấu.
- Tôi nghe lời thủ trưởng. Anh em đoàn viên cũng đã có người nhắc tôi điều ấy. Nhưng thủ trưởng biết cho, cứ ba lần tôi phóng ngựa đi là có một lần đi giúp thủ trưởng Giang, khi thì đưa thư, khi thì đưa hộ cái này, cái khác. Xuống tận quán chợ và cửa hàng Cò Cải, chẳng còn thì giờ gặp Thào Mỉ đâu.
- Thế à. Tôi sẽ nói lại với anh Giang.
- Đừng thủ trưởng ạ. Tôi sửa việc của tôi, còn việc thủ trưởng Giang có nhờ vả, tự miệng tôi sẽ nói. Được không thủ trưởng?
Lầu Chư ra về đã lâu, Trụ còn ngồi một mình suy ngẫm về cuộc gặp mặt chiến sĩ vừa qua. Có một cái gì mới mẻ chen vào ý nghĩ của anh, lay động nếp tư duy của anh. Lần đầu tiên anh ghi nhận mình đã nghe nhiều hơn nói, đã thu lượm được nhiều điều quý giá, đồng thời trong đầu óc cũng nẩy sinh ra nhiều điều băn khoăn. "Những điều mình nói với Lầu Chư đã thật lòng chưa? Có sáo mòn không?". Những điều suy ngẫm ra khiến anh giật mình lại là một câu thách đố: "Khi người lãnh đạo và người bị lãnh đạo luôn luôn ở tư thế đối chọi nhau, một bên cứ tấn, cứ ép, một bên cứ che, cứ đỡ, thì hiệu quả công tác chính trị sẽ đi đến đâu? Cái khoảng cách vô hình ấy là cần thiết hay không cần thiết?". Trụ đang tự vấn mình, tự kiểm nghiệm mình sau hàng chục năm làm chính trị viên ở các đơn vị cơ sở.
* *
*
Hai người đồng hương, hai người bạn cũ lại tiếp tục câu chuyện sau khi Chư rời khỏi buồng làm việc của Trụ. Mối quan hệ bàn bè không còn đằm thắm và êm thấm lắm từ bảy, tám năm nay, từ ngày Chân bị kỷ luật. Nhưng dù sao, họ cũng là đồng hương, là người cùng một huyện, chung một dòng sông, chỉ cách nhau mươi cây số, xã trên, xã dưới. Hơn nữa, họ cùng sống trong một đơn vị công an vũ trang cấp tỉnh; trước kia họ là hai thủ trưởng đơn vị riêng biệt, ngày nay lại gặp nhau trên một địa bàn cao nguyên Phùng Khen. Tuy nhiên về nghiệp vụ trinh sát, Chân làm việc trực tiếp với đồn trưởng Páo.
Câu chuyện hợp với họ là chuyện quê nhà. Cả hai cùng xa quê, tin tức hoạ hoằn mới lọt đến, trao đổi với nhau là một nhu cầu tự nhiên.
- Vụ lúa bát trong ta nghe nói khá lắm- Trụ mở đầu câu chuyện.
- Chỉ lo nước sông Linh dâng lũ như năm kia, rồi lại trắng tay.
Chân bắt chuyện mau lẹ như đã đoán trước được câu nói của Trụ.
- Con sông Linh từ đại ngàn đổ xuống làm giàu cho quê mình. Nào gỗ, nứa, nào lá tro, củ nâu, mùa nào nó cũng tải của về xuôi. Cữ này là vụ chè xuân, làng cậu chở hàng thuyền chè xanh xuôi làng mình, về chợ tỉnh. Còn dân làng mình mùa bưởi tháng chạp đã qua, mà mùa mít tháng bảy chưa tới chỉ biết chèo thuyền sang bờ bên kia, đi đẵn lá tro.
Trụ say sưa nói một mạch.
Không biết họ chuyển sang xưng hô "cậu, tớ" với nhau từ lúc nào, nhưng lúc này câu chuyện về quê hương đang kéo hai người xích lại gần nhau. Trụ có ý thức về việc ấy. Hai làng quê cùng trải dọc theo con đường chiến lược chạy dài ven bờ sông Linh. Nói chuyện về quê hương dễ thoải mái, dễ gần nhau. Trụ hết sức né tránh đụng đến chuyện hiện tại hoặc quá khứ gần, tránh gợi lại những kỷ niệm đáng buồn.
Ngược lại, Chân vừa tiếp chuyện vừa nghĩ tới mối quan hệ hiện tại giữa hai người : "Có thể hiểu vì sao cậu ta lạnh lùng đến thế trong trường hợp mình va vấp. Bởi cậu ta cũng lạnh lùng như vậy, có khi còn lạnh lùng hơn, trong cách xử sự với quyền lợi của gia đình vợ con". Trụ nói chuyện làng quê, nói về chè, về bưởi, cả về mít cứ nhẹ như không, lại có pha một chút lãng mạn nữa. Thế mới lạ. Lúc một con người thờ ơ với cả chính mình thì mong gì anh ta tận tình với bạn? Anh ta không hề băn khoăn một chút nào về việc ngôi nhà gỗ năm gian của gia đình anh phải dời lên đồi, không hề xót xa về việc mảnh vườn cây trái xum xuê, chỉ riêng mít đã có vài chục cây tán lá lợp mái nhà, đã bị đốn trụi; còn vườn chè, gốc nào gốc ấy xòe như chiếc nơm úp chẳng còn một búp làm cảnh, anh ta không hề luyến tiếc. Trụ đã nhiều lần tỏ ra tự hào về việc gia đình mình đi đầu thực hiện chủ trương của tỉnh, của huyện giải phóng đất vườn làm đất canh tác. Lá thư thứ nhất trả lời vợ về việc chuyển nhà, anh viết: "lúc này chính là lúc đảng viên đi trước làng nước đi sau. Muốn làm sản xuất lớn phải quy hoạch lại làng xóm, đồng ruộng". Lá thư thứ hai, để đánh tan nỗi lo âu của vợ về cuộc sống tương lai trên đồi núi khô cằn đi đôi với niềm luyến tiếc vườn mít vườn chè, anh viết một câu thật xẳng: "Đừng để anh khi về làng phải cúi mặt không dám nhìn bà con". Nhưng ông bố anh đã hăng hái hơn anh. Cụ vốn là đảng viên cũ, lớp 1935 - 1936. Cụ bảo con dâu: "Bố một đời đi theo Đảng, con đừng dùng dằng để bố mang tiếng. Đảng lo đến chuyện no chuyện ấm cho dân mới nghĩ ra chuyện dời làng. Con nghe lời bố đi". Thế là cả nhà được tiếng. Trụ về phép cũng thơm lây. Còn những khó khăn tiếp theo việc dời nhà lên đồi cao, Trụ coi là chuyện chung cả làng, cả nước, nào phải chỉ riêng ai. Cả cái khoản nợ nần chồng chất, vợ viết thư kêu ca, Trụ cũng nén chịu.
- Để rồi cậu xem, đến lúc người ta ngăn đập đầu nguồn sông Linh thì nước nguồn sẽ theo mương kênh tưới đẫm đồng cao, đồng thấp dọc con đường chiến lược. Huyện ta sẽ đi trước cả Vũ Thư lẫn Nam Ninh. Còn ở làng cậu bây giờ thế nào, hả Chân?
- Cũng thế cả thôi. Đất xóm cũ cạnh bờ sông bỏ trống hai năm nay. Làm ruộng thì thiếu nước vì nền đất cao; làm màu thì tốn công cải tạo. Dân tình nheo nhóc lắm, leo lên đồi ba năm cứ nhấp nhổm như ngồi trên lửa. Nhìn về đất cũ bỏ hoang mà tiếc đứt ruột. Đấy, hướng về sản xuất lớn mà đi lên, nhắm mắt đi lên, chỉ có ăn cám. Cái ông đi đôn đốc chiến dịch dời làng đã vững vàng ngồi lên ghế phó chủ tịch tỉnh, bỏ mặc cho lụt sông Linh cắn xé đất màu, năm nào nước cũng trắng băng chẳng có lũy nào, bờ cây nào ngăn nước. Cậu còn nằm mơ đấy, ông chính trị viên ơi.
- Sự mở đầu nào cũng có cái khó khăn của nó, Chân ạ.
- Khó khăn do sự ngu dốt và ý thức vô trách nhiệm còn kéo dài hậu quả đến đời con chúng ta chứ không phải ít. Rồi cậu xem.
- Sao cậu lại có thể nói những lời nặng nề, chì chiết về quê hương chúng ta như vậy?
- Mình nói về thực trạng quê ta đấy!
Trụ đang châm dở điếu thuốc lá vội ném ngay que diêm. Cầm điếu thuốc hờ hững trên tay, anh nhìn xói vào mặt Chân. Một con người xa lạ đang ngồi trước mặt anh. Không phải là Chân. Trụ cảm thấy bị xúc phạm. Không phải vì cá nhân anh. Không. Một cái gì lớn hơn bị xúc phạm. Lại là vấn đề quan điểm. Là vấn đề lập trường. Trụ không hình dung nổi một cán bộ, đảng viên có thể nghĩ khác, nói khác những điều đã được ghi thành văn bản, thành nghị quyết, chủ trương và đã được triển khai thực hiện dưới sự lãnh đạo của một cấp ủy Đảng. Cái lối tư duy của Chân là không chấp nhận được. Chính vì cách suy nghĩ khác về nếp chuẩn mực đã dẫn Chân đến vụ kỷ luật năm 1970. Hồi đó, là một người bỏ phiếu biểu quyết, với tư cách là ủy viên thường vụ đảng ủy, Trụ có ít nhiều băn khoăn. Nhưng đến giờ phút này, anh thấy Chân chẳng oan uổng một tí nào.
* *
*
Năm ấy, Chân vừa ở mặt trận Bắc Lào về, được cử trở lại làm đồn trưởng đồn biên phòng Ma Ly Pho, nơi anh đến công tác từ những ngày bộ đội Trung Quốc sang làm tuyến đường Hữu Nghị. Việc anh phải đi khỏi cửa khẩu Ma Ly Pho mấy năm trước đó cũng có lý do của nó. Cán bộ chỉ huy cấp khu, cấp tỉnh cho là đồn trưởng Chân quá căng cứng với Bạn, để anh ở lại không lợi cho tình hữu nghị giữa hai bên. Việc đầu tiên là anh đòi kiểm tra quân số trên các đoàn xe chở người đi làm qua cửa khẩu. Chân phát hiện ra rằng số người sang làm đường nhiều hơn gấp ba lần so với danh sách được thông báo. Cấp trên kịp thời ngăn chặn biện pháp kiểm tra của đồn. Việc thứ hai là Chân đề xuất phải kiểm tra những chuyến xe phủ kín vải bạt quay trở về qua cửa khẩu. Theo anh, trên xe chở đầy gỗ thông, gỗ sa mu bị đốn hạ dọc những đoạn đường mới mở. Đề nghị của Chân cũng bị bác bỏ. Việc thứ ba, Chân theo dõi một công nhân Bạn đi sâu vào các bản làng xa đường cái, la cà đó đây, lúc trở về qua cửa khẩu mang một ba lô nặng. Anh cho kiểm tra tại chỗ. Mở ba lô ra: toàn những hộp diêm đựng nhiều mẫu đất khác nhau. Chân cho lập biên bản và yêu cầu người chỉ huy ký nhận. Sau đó anh gửi cả biên bản lẫn tang vật lên cấp trên. Vụ ấy không có hồi âm. Rồi đến một lần, chỉ huy trưởng Quý lên cửa khẩu Ma Ly Pho kiểm tra đơn vị. Trụ đi nhờ xe một quãng cũng đến đơn vị Chân. Mọi người vừa xuống xe đã thấy ở ngay bậc thềm trạm kiểm soát có đặt một chiếc sọt đựng đầy huy hiệu chủ tịch Mao. Thủ trưởng Quý trừng mắt hỏi đồn trưởng Chân:
- Hình ảnh lãnh tụ của người ta, tôn nghiêm dường ấy, sao cậu bày ra trong sọt rác thế này? Cậu định để chúng tôi hứng chịu lời phản kháng của Bạn về hành động xúc phạm này chăng?
Chân từ tốn giãi bày:
- Báo cáo thủ trưởng. Bạn mang huy hiệu sang ta hàng bao tải, vừa tặng vừa cho cả vốc cũng chẳng hết, lúc về gần cửa khẩu mới trút vãi dọc đường xe, lấm bụi, lấm bùn bất kể. Tôi cho anh em vun, tập trung lại hết. Đó là việc nên làm chứ ạ!
Vừa lúc đoàn xe công nhân Bạn quay về, dừng lại trước trạm. Chân xin phép thủ trưởng đến làm việc với người chỉ huy đoàn xe. Anh nói gì đó, người kia cảm ơn rối rít rồi cắt chiến sĩ đến khiêng sọt huy hiệu lên xe.
Thủ trưởng Quý chép miệng nói với Trụ: "Anh chàng này nhiễu sự lắm!". Vẫn chưa hết. Thủ trưởng Quý được báo cáo rằng bạn mang sang tặng đồn biên phòng Việt Nam hàng mấy chục mầm chuối, loại giống quý và đề nghị được trực tiếp trồng lưu niệm trong khu vực doanh trại. Đồn trưởng Chân nhận tặng phẩm nhưng từ chối việc bạn đi sâu vào địa điểm đóng quân của đồn biên phòng; dù lịch sự cảm ơn đến mấy Bạn cũng tỏ ý không bằng lòng. Thủ trưởng Quý liền chê trách Chân là máy móc trong giao tiếp. Sau chuyến kiểm tra ấy, đồn trưởng Chân được điều chuyển sang đơn vị đi tiễu phỉ chi viện cho phái trung lập ở Bắc Lào. Mãi đến khi kết thúc chiến dịch, cũng là lúc quân làm đường Trung Quốc rút về nước, Chân mới trở lại đồn biên phòng. Khi Trụ kể lại tình hình Bạn rút quân làm đường, nơi này họ đốt lán trại, nơi kia họ đập phá hết những thứ gì không mang đi được, vẻ vùng vằng lộ ra mặt, Chân cười bảo Trụ: "Giá như có tôi ở nhà, thủ trưởng Quý lại đổ cho là tại tôi xử sự căng cứng, Bạn mới làm mình làm mẩy như vậy". Cả hai cùng cười vui với nhau. Không ngờ vụ kỷ luật xảy ra liền ngay đó. Nguyên do đầu năm 1970, một đoàn cán bộ cao cấp của ta sang Trung Quốc công tác, lúc về đi đường bộ, dừng lại ở đồn biên phòng Ma Ly Pho. Đồn phó Giang tập trung chiến sĩ để nghe nói chuyện. Một đồng chí cán bộ cỡ thứ trưởng đứng lên nói, cao giọng tuyên truyền cho cách mạng văn hóa, khen người chê mình hết cỡ. Đồn trưởng Chân đi công tác về, thấy cảnh đó liền giải tán cuộc họp, phân công các đội xuống địa bàn ngay hôm ấy. Vì đồng chí cán bộ cao cấp nọ tuy không ở trong quân đội nhưng là chỗ quen biết của Quý nên lời phàn nàn chẳng mấy chốc đến tai chỉ huy trưởng công an vũ trang tỉnh. Chân bị chỉ trích là "vuốt mặt không nể mũi". Nhân một buổi uống nước sau bữa cơm chiều giữa mấy anh em trong ban chỉ huy, Chân buông một câu bình luận về vị thứ trưởng nọ : "Vị này lại rơi vào câu ca các cụ ta thường nói : đuổi Tây cửa trước, rước Tàu cửa sau". Nói chơi giữa bàn trà, vậy mà câu nói lọt đến tai chỉ huy trưởng. Thế là vấn đề kỷ luật phát ngôn được đặt ra. Chân bị kiểm điểm không cãi vào đâu được. Thường vụ thảo luận trường hợp kỷ luật của Chân phân làm hai loại ý kiến. Một bên cho rằng chỉ đáng khiển trách như chi bộ đề nghị. Một bên nâng lên quan điểm lập trường đòi phải cảnh cáo Chân. Lá phiếu của Trụ làm cho cán cân nghiêng về phía đồng chí chỉ huy trưởng Qúy, phó bí thư. Chân bị kỷ luật cảnh cáo, thôi giữ chức đồn trưởng. Quý định cho Chân phục viên nhưng Bộ Tư lệnh không duyệt. Cuối cùng, vì có khả năng công tác trinh sát, Chân được xếp làm đội trưởng đội trinh sát của tỉnh, cắm trên địa bàn Xín Chải. ở đây anh gặp lại cả ba người quen cũ : Páo, Trụ và Giang.
* *
*
Trụ buột miệng hỏi Chân :
- Tại sao hồi ấy cậu không xin chuyển về xuôi, về gần nhà chẳng hạn?
Trước vẻ mặt ái ngại hộ bạn của Trụ, Chân không khỏi tự ái vì anh không thích người ta thương hại mình. Anh nói :
- Việc gì mình phải trốn chạy cái nơi mà mình đã gắn bó suốt một thời trai trẻ? Sau cái vụ ấy, cậu tưởng mình chán nản lắm sao? Không đâu. Con đường của chúng ta còn dài, mà chân lý không dễ gì một lúc mà nắm bắt được.
- Cậu tin sẽ nắm bắt được chăng?
- Trước kia chỉ có tin thôi, còn bây giờ mình có cảm giác lẽ phải ngày càng sáng tỏ.
- Cũng chỉ là cảm giác thôi. Có thể cậu lại nhầm lẫn đấy. Cũng như cậu nhầm lẫn không nhận ra con đường đi lên của những xã ven sông quê ta. Cả một giang sơn đang được sắp xếp lại.
Giọng Trụ nghiêm trang hẳn. Chân chẳng chịu lùi :
- Vâng, với mo cơm và quả cà chứ gì?
- Cậu cứ đùa.
Chân lặng lẽ mở túi thổ cẩm, lấy ra một lá thư trao cho Trụ :
- Cậu đọc thư em gái mình sẽ biết mình gián tiếp là nạn nhân của vụ sắp xếp giang sơn mà cậu nói đấy. Vì vậy không lạc quan nổi như cậu đâu. Cũng chẳng đùa đâu.
Trụ mở thư ra đọc. Anh nhẩm lướt qua những dòng thăm hỏi sức khoẻ, báo tin tình hình bố mẹ và con gái Chân. Đến đoạn giữa giọng anh bỗng ngắc ngứ, bật lên thành tiếng :
"... Còn như chuyện chị Ngoạn thì cả nhà đều ngao ngán về việc chị đột ngột bỏ làng ra đi. Chị ấy lên xe lúc nửa đêm thì ai biết đường nào mà tìm. Thế là bỏ việc luôn. Nhà trường đến nhà hỏi thăm tin chị đã vài ba lần. Cả bố mẹ lẫn em chẳng biết đường nào mà trả lời. Tay lái xe tải ấy, em cũng chỉ thoáng thấy một lần mà thôi. Thực ra, cả nhà chúi mũi lo xây dựng cảnh vườn đất mới, chẳng ai có thì giờ ra thăm quán chị Ngoạn. Thư trước em viết cho anh chẳng qua cũng là phỏng đoán một cách dè dặt theo cảm tính do một sự tình cờ thấy chiếc xe tải đỗ trước quán chị Ngoạn mà thôi. Em cũng không ngờ mọi việc lại cuốn nhanh đến thế..."
Đến đoạn này, Trụ đưa mắt lơ đãng nhìn Chân, lá thư vẫn cầm trong tay. Chân vẫn đang chăm chú quan sát nét mặt của Trụ liền hất hàm thay cho cau hỏi : "Cậu thấy chưa?"
Trụ lắc đầu nói :
- Tình cảnh này ở quê mình xưa nay chưa từng nghe nói đến.
- Không ít đâu, điều khác biệt là lần đầu tiên ở quê ta có chuyện một người đàn bà bỏ con, bỏ làng đi theo trai.
- Đám xế nào táo tợn nhỉ?
- Dân lái xe quá cảnh cả thôi. Cứ gọi là mỗi cô bồ thay cho một cột cây số.
Miệng nói có vẻ bông lơn như vậy nhưng nét mặt Chân biểu hiện một nỗi đau ghê gớm đang bị kiềm chế. Anh thú nhận với Trụ :
- Quá trình từ trước tới giờ mình tin ở Ngoạn, tin ở tính nết chính chuyên của cô ta. Càng tin hơn khi cô ta thổ lộ tình cảm với mình : "Chỉ lo cho anh đi xa không giữ mình được, chứ phần em thì anh có đi năm năm, mười năm em vẫn chung thuỷ đợi chờ". Thế đấy, lời nói gió bay...
- Ừ, em bay thì cắt ngay. Việc gì cậu phải cay cái vụ quy hoạch đất đai ở làng?
- Nói theo kiểu dây cà ra dây muống cho vui vậy thôi. Chẳng là, bao nhiêu năm ở ven sông xa đường chiến lược, cô ta sống và làm việc yên ổn. Sau này dời làng vào núi, ở sát mặt đường mới xẩy ra chuyện mở quán, bán ngoài giờ dạy học. Mở quán để chém "lính" xế, chắc ban đầu cô ta cũng tính thế. Ai ngờ lính xế, nó bế đi luôn.
- Cậu cứ đùa.
- Cũng có một phần sự thật đấy.
- Đã thế thì cắt luôn, hơi đâu đi mò kim đáy biển?
- Cậu làm chính trị viên mà khuyên mình như vậy thì nguy to. Cứ coi mình là nạn nhân của vụ lăng nhăng này, nhưng cô ta cũng là nạn nhân của một thứ tai bay vạ gió.
- Tai bay vạ gió?
- Thì cậu thử cắt nghĩa một cách hay ho hơn xem sao? Mình nghĩ rằng, đối với cậu, việc ấy là thừa.