• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ngay cả Buffett cũng không hoàn hảo
  3. Trang 8

4.ĐỪNG BAO GIỜ KẾT HÔN VỚI CỔ PHIẾU

Bất kể mức giá bao nhiêu, chúng tôi hoàn toàn không quan tâm đến việc bán bất cứ doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả mà Berkshire đang sở hữu. Chúng tôi cũng rất ngần ngại khi bán bất cứ doanh nghiệp kém cỏi nào miễn là chúng tôi vẫn còn kỳ vọng nó có thể tạo ra ít nhất một khoản thu nhập nào đó, và miễn là chúng tôi cảm thấy các nhà quản lý và quan hệ lao động của nó vẫn tốt đẹp.

- Warren Buffett

Khi bạn hỏi các nhà đầu tư về Warren Buffett, bạn sẽ nghe thấy những câu nói đại loại như: "Buffett là một thiên tài!", "Buffett là nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi thời đại!". Cũng có người bảo ông là nhà chọn cổ phiếu vĩ đại.

Tuy nhiên, Buffett có lẽ sẽ không đồng tình với những nhận xét đó – ít nhất là với những người nói ông là người chọn cổ phiếu giỏi. Điều này không phải vì sự lựa chọn cổ phiếu của ông không tốt. Thực ra, những lựa chọn của ông rất xuất sắc. Sự phản đối của ông cũng không liên quan gì đến tính khiêm nhường của ông, vốn được nhìn nhận rộng rãi. Lý do thực sự mà Buffett không tán đồng đơn giản là vì ông không tin rằng việc lựa chọn cổ phiếu có liên hệ lớn đến đầu tư. Trên thực tế, Buffett tin rằng hoạt động đầu tư thực sự chỉ liên quan đến việc mua bán doanh nghiệp, chứ không phải chỉ ở việc lựa chọn cổ phiếu của doanh nghiệp đó.

BUFFETT "KẾT HÔN" VỚI DOANH NGHIỆP

Kết hôn là một sự ràng buộc quan trọng. Tình yêu là điều kiện cần thiết để tạo ra cuộc hôn nhân bền vững, nhưng tình yêu không phải là yếu tố duy nhất. Cần phải có thêm nhiều điều kiện thuận lợi khác nữa. Trước khi cùng nhau bước lên sân khấu, bạn cần phải tìm hiểu càng nhiều càng tốt về người mà bạn sắp cưới. Sự tương hợp, tin cậy, thân thế gia đình, giáo dục, tôn giáo, sự trưởng thành, nghề nghiệp và điều kiện tài chính – tất cả đều cần phải được xem xét. Suy cho cùng thì hôn nhân đòi hỏi một ràng buộc lâu dài. Trong khi chẳng có gì đảm bảo và bạn không bao giờ có thể đoan chắc 100% mình sẽ thành công.

Hơn nữa, một khi bạn đã quyết định ràng buộc vào một cuộc hôn nhân, bạn không thể hủy bỏ nó một cách dễ dàng chỉ vì một khuôn mặt dễ thương hơn xuất hiện. Bạn không thể chấm dứt ngay chỉ vì bạn gặp phải một số bất đồng. Tất nhiên, nếu có những khác biệt cơ bản và không thể dung hòa xuất hiện một cách tuyệt đối rõ ràng thì chia tay là một lựa chọn có thể nghĩ đến. Nhưng điều đó sẽ rất rắc rối và tốn kém. Bạn đừng bao giờ quyết định một cách khinh suất và đó chỉ là biện pháp cuối cùng. Bạn đừng để ý nghĩ này xuất hiện trong tâm trí mình khi bạn đang suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc kết hôn.

Trong tâm trí của Warren Buffett, mua lại một doanh nghiệp cũng giống như kết hôn. Tất nhiên, điều khác biệt là trong khi ông chỉ có thể cưới một người thì ông có thể sở hữu vô số doanh nghiệp, miễn là ông có đủ tiền mua chúng. Nhưng trong mọi trường hợp, khi Buffett mua lại một doanh nghiệp, ông biết mình đang có một sự ràng buộc quan trọng. Đây là lý do tại sao ông cố gắng chỉ mua lại những doanh nghiệp tốt mà ông dự định sẽ nắm giữ trong dài hạn. Tất cả những người yêu thích Buffett nghiêm túc đều biết rằng đây là một phần trong sự thú vị của ông.

Thực ra, Buffett thường phân biệt rất rõ việc mua lại doanh nghiệp và mua cổ phiếu. Ông khuyên các nhà đầu tư suy nghĩ như những người mua lại doanh nghiệp, chứ không phải như những người mua bán cổ phiếu ngắn hạn. Ông cũng tin rằng nhà đầu tư nên gắn bó với những doanh nghiệp tốt thậm chí khi họ đang gặp khó khăn, cũng giống như họ gắn bó với một cuộc hôn nhân khi tốt đẹp cũng như lúc khó khăn. Tương tự, Buffett nói ông sẽ không bán một doanh nghiệp tốt chỉ đơn giản bởi vì ông có thể nhận được một cái giá lớn hơn giá trị nội tại nhiều lần. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên nhất có lẽ là thái độ của ông đối với các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả mà ông hiện đang sở hữu. Ông sẽ không rót thêm tiền vào những doanh nghiệp này và ông có thể hối tiếc vì mình đã mua chúng, nhưng ông cũng hết sức miễn cưỡng trong việc bán chúng đi. Ông phát biểu điều này rất rõ ràng qua Nguyên tắc số 11 trong "Cẩm nang Chủ sở hữu"(23) trong báo cáo thường niên của Berkshire:

Các bạn nên nhận thức đầy đủ về một thái độ mà Charlie và tôi cùng chia sẻ nhưng có thể ảnh hưởng xấu đến hiệu quả tài chính của chúng ta: Bất kể mức giá là bao nhiêu, chúng tôi hoàn toàn không quan tâm đến việc bán bất cứ doanh nghiệp nào đang làm ăn hiệu quả mà Berkshire sở hữu. Chúng tôi cũng rất ngần ngại khi bán bất cứ doanh nghiệp kém cỏi nào miễn là chúng tôi vẫn còn hy vọng nó có thể tạo ra ít nhất một khoản thu nhập và miễn là chúng tôi cảm thấy các nhà quản lý và mối quan hệ lao động bên trong nó vẫn tốt đẹp. Chúng tôi hy vọng không lặp lại những sai lầm trong hoạt động phân bổ vốn có thể dẫn chúng ta đến với những doanh nghiệp kém hiệu quả như vậy. Và chúng ta sẽ phản ứng một cách hết sức cẩn trọng với những đề xuất rằng các doanh nghiệp hoạt động kém của chúng ta có thể được khôi phục về mức lợi nhuận đạt yêu cầu bằng những khoản chi tiêu vốn lớn. (Những dự báo sẽ rất to tát, và người chủ xướng cũng thành thật, nhưng cuối cùng, các khoản đầu tư lớn bổ sung vào một ngành tệ hại sẽ chỉ mang lại những kết quả tương tự như việc vùng vẫy trong một vùng cát lún mà thôi). Tuy nhiên, hành vi quản trị nhẫn tâm (loại bỏ doanh nghiệp ít hứa hẹn nhất sau mỗi thời kỳ) lại không phải là phong cách của chúng tôi. Chúng tôi thà nhận kết quả tổng hợp bị ảnh hưởng một chút còn hơn là thực hiện những hành động như thế.

Đây là điều rất thú vị đối với các chuyên gia đầu tư bởi việc không bán các doanh nghiệp yếu kém không được xem là quyết định hợp lý. Nó trái ngược hoàn toàn với nguyên tắc tối đa hóa tài sản. Một nhà đầu tư có lý trí sẽ cảm thấy phấn khích nếu bán được một thứ gì đó ở mức cao hơn giá trị thực của nó. Anh ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc khi thoát được một điều gì đó không mang lại thu nhập phù hợp. Điều đáng ngạc nhiên là Buffett hoàn toàn nhận thức được điều này và thẳng thắn thừa nhận rằng các chính sách của ông có ảnh hưởng không tốt đến cổ đông của mình. Nhưng đồng thời, có lẽ không có cá nhân đơn độc nào trong lịch sử hoạt động đầu tư có thể làm một công việc tốt hơn Warren Buffett trong việc tối đa hóa tài sản của cổ đông trong dài hạn.

Điều gì giải thích cho hành vi có vẻ phi lý trí này? Đó là do sự phân biệt của Buffett giữa việc mua doanh nghiệp và mua cổ phiếu. Hầu hết những nhà đầu tư không thực sự cảm nhận được sự khác biệt then chốt này. Hành vi đó nghe có vẻ bất hợp lý, vì rằng để sở hữu doanh nghiệp, bạn phải thu gom cổ phiếu của nó. Nắm cổ phiếu là nắm vốn cổ phần. Ai sở hữu vốn đa số cổ phần, người đó sở hữu doanh nghiệp.

Nhưng trong tâm trí của Buffett, sự khác biệt liên quan đến sự cam kết. Mua lại doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự cam kết nghiêm túc. Mua cổ phiếu không cần sự cam kết nhiều. Đây là một cách cảm nhận sự khác biệt. Nếu khoản đầu tư của bạn vào một doanh nghiệp đại diện cho một phần lớn tài sản ròng của bạn, dù bạn mua lại toàn bộ doanh nghiệp hoặc chỉ một phần nhỏ của nó, bạn sẽ tập trung hết sức và ràng buộc với thành công của doanh nghiệp đó. Trái lại, nếu phần vốn sở hữu của bạn chỉ chiếm một phần nhỏ trong tài sản ròng của bạn, mức độ cam kết của bạn sẽ không nghiêm túc bằng. Nếu bạn không hài lòng với cách thức công việc diễn tiến, bạn chỉ cần chấp nhận thua lỗ, bán tháo và thoát ra. Thậm chí bạn còn có thể nhận được lợi ích từ thuế khá tốt khi bạn bán nó đi.

Berkshire Hathaway có thói quen mua lại toàn bộ doanh nghiệp – hoặc ít nhất cũng là một phần chiếm tỷ lệ lớn trong doanh nghiệp đó. Buffett nói rằng thậm chí nếu bạn không có đủ tiền để làm như vậy, thì ít nhất bạn cũng nên nghĩ rằng mình là người mua lại doanh nghiệp, chứ không phải người mua cổ phiếu. Bạn nên nhận thấy rằng mình đang đầu tư tiền vốn thực; và trước khi đầu tư bất cứ khoản tiền nào, một người mua doanh nghiệp trước hết sẽ tiến hành một số hoạt động nghiên cứu – trong đầu tư thường được gọi là "sự chú tâm xác đáng"(24). Hơn nữa, một người mua doanh nghiệp thông minh sẽ không đầu tư vốn với ý định chuyển chủ sở hữu trong thời gian ngắn. Thực ra, Buffett nói rằng khi ông quyết định đầu tư, thậm chí ông không nghĩ đến chiến lược thoát ra(25). Nhưng ngay cả những người mua doanh nghiệp có sẵn một chiến lược thoát ra rõ ràng trong kế hoạch của mình cũng có ý định gắn bó với nó trong ít nhất cũng một vài năm.

Cũng như khi bạn kết hôn, trước khi mua doanh nghiệp, bạn nên tìm hiểu càng nhiều càng tốt về doanh nghiệp. Nó sản xuất sản phẩm gì, dịch vụ gì? Ai là khách hàng và nhà cung cấp quan trọng nhất của nó? Thị trường của nó lớn đến mức nào? Thị trường này đang tăng trưởng hay đình trệ? Thị phần của công ty lớn đến mức nào? Bộ máy quản lý có năng lực, đáng tin cậy, và sẵn sàng ở lại điều hành doanh nghiệp sau khi bạn mua nó không? Những nhân viên chính là ai? Họ có tài năng, có hài lòng với công việc và trung thành với công ty không? Công ty có tình hình tài chính ổn định không, hay nó đang có những khoản nợ quá khả năng chi trả? Đâu là những thước đo chính của ngành này? Tỷ suất lợi nhuận, thu nhập trên vốn chủ sở hữu và giá trị sổ sách ra sao?

Đây là những câu hỏi thường xuất hiện trong tâm trí Buffett, bởi khi ông ra một quyết định đầu tư, ông thường cam kết bằng một số tiền rất lớn. Buffett sẽ nắm giữ doanh nghiệp trong dài hạn. Câu trả lời cho những câu hỏi này không có ý nghĩa gì nhiều đối với những người chỉ nghĩ đến một giao dịch theo kiểu "lướt sóng", nhưng chúng rất quan trọng đối với các nhà đầu tư dài hạn. Cũng như trong hôn nhân, những người mua lại doanh nghiệp thường có kế hoạch gắn bó với doanh nghiệp trong một mối quan hệ khó có thể tháo gỡ được.

Khi bạn ra quyết định đầu tư và bạn suy nghĩ như một người mua doanh nghiệp, bạn nhận thấy rằng mình đang trở thành chủ sở hữu với ý nghĩa thực sự của nó. Một người mua doanh nghiệp (trái với một người giao dịch cổ phiếu) sẽ không cắt đứt và tháo chạy chỉ vì thu nhập có vẻ không đạt mức kỳ vọng trong quý và cổ phiếu có thể sẽ mất một vài điểm. Tương tự, một người mua doanh nghiệp sẽ không bán và nhanh chóng hiện thực hóa lợi nhuận chỉ bởi vì giá cổ phiếu bất ngờ tăng vọt với tốc độ nhanh hơn kỳ vọng ban đầu. Đây là lý do tại sao Buffett nói ông không bán một doanh nghiệp tốt nào dù thậm chí ông nhận được nhiều tiền hơn giá trị thực của nó, cũng là lý do tại sao ông không bán đi một doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả miễn là nó còn có khả năng tạo ra thu nhập, dù nhỏ.

HẦU HẾT CÁC NHÀ ĐẦU TƯ ĐỀU "HẸN HÒ" VỚI CỔ PHIẾU

Hẹn hò rất khác so với hôn nhân. Bạn có thể nghĩ rằng bạn đang yêu, nhưng bạn không thực sự chắc chắn về điều này. Các bạn muốn dành một ít thời gian ở cùng với nhau, tìm hiểu nhau, nhưng không nhất thiết phải quan tâm đến mối quan hệ lâu dài. Bạn sẵn sàng chấp nhận một số trách nhiệm, nhưng bạn chưa sẵn sàng cho một cam kết lớn và lâu dài. Quan trọng nhất là bạn vẫn muốn để ngỏ các phương án lựa chọn của mình phòng khi xuất hiện đối tượng khác tốt hơn.

Nếu chỉ hẹn hò, bạn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều để chia tay nếu mọi việc không diễn tiến tốt đẹp.

Nếu người mua lại doanh nghiệp nghĩ đến hôn nhân, thì người mua cổ phiếu chỉ nghĩ đến hẹn hò. Thật ra, có một câu châm ngôn ở Phố Wall rằng: "Đừng bao giờ kết hôn với cổ phiếu.(26)" Những người mua cổ phiếu luôn giữ trong đầu mình câu châm ngôn đầy "hương vị đầu tư" này.

Người mua cổ phiếu không sẵn sàng đưa ra sự cam kết mạnh mẽ mà những người mua doanh nghiệp thường thể hiện; và mua cổ phiếu, trái với mua doanh nghiệp, có liên quan chủ yếu đến sự giao dịch. Người mua cổ phiếu thường không sẵn sàng mạo hiểm với một khoản vốn lớn trong bất kỳ giao dịch đơn lẻ nào, và họ gần như chắc chắn không nghĩ đến việc nắm giữ hạng mục đầu tư đó một cách vĩnh viễn. Người mua cổ phiếu thường rất vui mừng bán cổ phiếu đi ngay khi cơ hội tốt đến với họ. Buffett có thể phản đối, nhưng sự thật là nhà đầu tư trung bình phải suy nghĩ theo cách của người mua cổ phiếu hơn là người mua doanh nghiệp. Xét cho cùng, nhà đầu tư trung bình chỉ có đủ tiền để mua vài trăm hay vài ngàn cổ phiếu của một doanh nghiệp. Điều đó không đủ mang lại cho nhà đầu tư khả năng gây ảnh hưởng đến việc điều hành doanh nghiệp mà những người mua doanh nghiệp như Buffett có thể làm được. Hơn nữa, nhà đầu tư trung bình có thể không đủ khả năng để duy trì lựa chọn của mình qua những giai đoạn khó khăn kéo dài của doanh nghiệp.

Khi mua cổ phiếu thay vì mua doanh nghiệp, giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất cần xem xét. Rõ ràng, tốt nhất là mua được giá thấp, nhưng một người mua cổ phiếu cũng không phản đối việc mua giá cao và bán với giá cao hơn nữa. Tất cả những yếu tố thực sự quan trọng cần quan tâm khi mua một doanh nghiệp cho dài hạn, như thị phần, chất lượng bộ máy quản lý, tỷ suất lợi nhuận, thu nhập trên vốn chủ sở hữu thường không quan trọng khi mua cổ phiếu trong ngắn hạn. Tuy việc nắm vững các yếu tố căn bản này lúc nào cũng là điều nên làm, nhưng chúng sẽ không thúc đẩy hoặc ngăn chặn quyết định đầu tư của bạn.

Một người mua cổ phiếu biết rằng nếu một cổ phiếu đang được bán dưới giá trị nội tại, thì nó trở thành một ứng viên sáng giá để bạn mua lại. Thậm chí Buffett cũng tán thành điều này. Tuy nhiên, những người mua cổ phiếu thay vì mua doanh nghiệp cũng đang suy nghĩ về việc bán nó đi. Hãy nhớ Buffett không có chiến lược thoát ra. Tuy nhiên, đối với người mua cổ phiếu, việc thoát ra cũng quan trọng không kém việc mua vào. Người mua cổ phiếu biết rằng nếu cổ phiếu có thể bị định giá thấp thì chúng cũng có thể được định giá cao. Họ biết nếu mua những cổ phiếu bị định giá thấp là điều có ý nghĩa lớn thì nó cũng có ý nghĩa tương tự khi bán những cổ phiếu được định giá cao. Buffett cũng biết điều này. Nhưng Buffett thích "kết hôn" hơn. Ông không thích bán. Như chúng ta đã biết từ đầu chương, Buffett nói rằng ông sẽ không bán đi một doanh nghiệp tốt thậm chí nếu ông nhận được nhiều tiền hơn giá trị thực của nó. Nhưng những người mua cổ phiếu thường sẵn sàng bán đi – đặc biệt là khi họ thấy rõ ràng mức giá mà họ nhận được cao hơn so với giá trị thực của cổ phiếu. Xét cho cùng, tại sao họ lại nắm giữ cổ phiếu được định giá cao trong khi có vô số những cổ phiếu bị định giá thấp mà họ có thể mua lại?

TẤT CẢ ĐỀU LIÊN QUAN ĐẾN SỰ KIỂM SOÁT

Thông qua Berkshire, khi Buffett mua lại một doanh nghiệp, ông thường mua toàn bộ doanh nghiệp. Ngay cả khi ông chỉ mua cổ phần trong một công ty đại chúng được giao dịch công khai trên sàn chứng khoán, ông cũng mua với tỷ lệ khá lớn để Berkshire cuối cùng trở thành một trong những cổ đông lớn nhất của doanh nghiệp đó. Khi Berkshire tiến hành đầu tư, ngay lập tức nó thu hút sự chú ý của công chúng.

Một khi Berkshire mua lại toàn bộ doanh nghiệp, nó sẽ nắm quyền kiểm soát hoàn toàn doanh nghiệp đó. Buffett thường nói rằng ông sẽ không bảo các nhà quản lý giỏi của doanh nghiệp đó phải làm điều gì theo ý ông cả. Thật ra, một lý do mà ông thích mua những công ty được quản lý bài bản đó là ông không thích tham gia vào những hoạt động thường ngày của công ty. Ông thích để những người hiểu doanh nghiệp điều hành nó với hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, vẫn có một điểm khác biệt rất lớn giữa Buffett và hầu hết những người khác. Do quyền sở hữu của Buffett thường quá lớn nên ông có thể tham gia với mức độ rất lớn vào các quyết định quản trị, nếu muốn. Nếu Buffett không thích cách điều hành công ty, ông sẽ có phương án can thiệp và tiến hành những sự thay đổi cần thiết. Tương tự, nếu ông thấy kế hoạch kinh doanh của công ty không khả thi, ông sẽ chỉnh sửa nó lại. Nếu ông không nhìn thấy sự tin cậy ở các nhà quản lý công ty, ông có thể sa thải họ và đưa vào một đội ngũ quản lý mới. Đây là điều mà các nhà đầu tư trung bình không cách nào làm được. Buffett có thể không làm như vậy thường xuyên, nhưng ông áp dụng một phương pháp tiếp cận chủ động trong một số trường hợp ông cho là cần thiết.

Ở Chương 6, các bạn sẽ thấy ông triển khai các thay đổi khi xử lý vấn đề của General Re. Thậm chí ông sẵn sàng đảm nhiệm chức vụ giám đốc điều hành của Salomon Inc. để cứu công ty này. Tỷ lệ sở hữu vốn lớn của Berkshire trong các công ty đại chúng cũng cho phép Buffett ngồi vào hội đồng quản trị. Thực tế, ông có chức vụ trong hội đồng quản trị của hơn 20 công ty khác nhau. Điều cơ bản là khi Berkshire mua toàn bộ một công ty nào đó, hoặc thậm chí chỉ mua một số cổ phiếu trong các công ty đại chúng, công ty đó sẽ được hưởng lợi thế lớn. Điều này cho phép Buffett quyết định vốn của công ty đó sẽ được phân bổ như thế nào.

Có bao nhiêu nhà đầu tư khác có thể làm được những điều mà Buffett đang làm? Bạn có thể không? Khi bạn ra một quyết định đầu tư, bạn có thực sự suy nghĩ giống như Buffett không? Bạn có thực sự nghĩ đến việc kiểm soát các quyết định phân bổ nguồn vốn không? Mức đầu tư của bạn có thể mang lại cho bạn quyền can thiệp và tiến hành những thay đổi mà bạn cho là cần thiết không? Nếu câu trả lời đều là có, thì bạn quả thực rất may mắn. Bạn có những phương tiện để trở thành người mua doanh nghiệp. Nhưng nếu câu trả lời là không, bạn chỉ đơn thuần là người mua cổ phiếu của các công ty mà thôi.

Thực tế là hầu hết các nhà đầu tư đều không thể làm những điều mà Berkshire và Buffett thường làm. Hầu hết họ không thể mua lại toàn bộ doanh nghiệp. Thậm chí, họ còn không có đủ tiền để mua lại một tỷ lệ sở hữu lớn trong một công ty đại chúng. Để có tỷ lệ sở hữu 1% trong một công ty có mức vốn hóa thị trường 1 tỷ USD thì bạn cần có 10 triệu USD – một con số không nhỏ. Ngày nay, một công ty có giá trị 1 tỷ USD được xem là nhỏ. Thậm chí những người có số tiền trên cũng không dễ dàng đổ tất cả tiền vào một cổ phiếu duy nhất. Kết quả là hầu hết các nhà đầu tư sẽ không bao giờ có được vị trí đủ quyền lực để ra những quyết định phân bổ tài chính giúp tối đa hóa thu nhập của công ty. Dù họ sẵn sàng chấp nhận nó hay không, nhưng sự thực vẫn là hầu hết các nhà đầu tư đều không mua lại doanh nghiệp. Đơn giản vì họ không có đủ tiền để làm điều đó.

Đa phần các nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu. Và thậm chí nếu họ có khả năng mua cổ phiếu với giá trị vài triệu đô-la, thì chắc là nó cũng không đủ để mang lại cho họ một vị thế có thể xuất hiện ở tổng hành dinh của công ty và đề xuất một sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh. Khoản đầu tư của họ không đủ để giành được một ghế trong hội đồng quản trị. Nó thậm chí không đủ để họ thay đổi người điều hành phòng hành chính, đừng nói đến giám đốc điều hành. Trong trường hợp tốt nhất, hầu hết các nhà đầu tư chỉ có thể hy vọng trở thành người hưởng lợi đi kèm. Điều này có nghĩa là họ có thể mua một số cổ phiếu và hy vọng rằng có một người nào đó như Buffett tham gia và mua một tỷ lệ sở hữu đủ lớn để buộc bộ máy quản lý phải trung thực. Hoặc phương án khác là họ có thể thuê Buffett làm việc trực tiếp cho họ bằng cách mua cổ phiếu của Berkshire Hathaway.

Vì thế, khi mua cổ phiếu, hẳn bạn sẽ rất thú vị khi nghĩ về mình như một người đầu tư theo kiểu Warren Buffett. Bạn có thể tưởng tượng một cách hào phóng rằng bạn đang thực sự mua lại một doanh nghiệp giống như cách Buffett thường làm. Nhưng nếu thành thật với bản thân, bạn sẽ thừa nhận mình chỉ đơn thuần đang mua cổ phiếu mà thôi. Buffett có thể lập luận rằng nắm lấy những vị thế có ý nghĩa trong những công ty nhỏ có thể giúp kiểm soát được rủi ro, nhưng chiến lược này không dễ dàng thực hiện đối với nhà đầu tư trung bình. Thậm chí nếu họ cực kỳ khôn ngoan và biết chính xác mình đang làm gì, thì họ vẫn không bao giờ có đủ nguồn lực để nắm lấy vị thế có ý nghĩa trong một công ty duy nhất. Hầu hết các nhà đầu tư chỉ có thể kiểm soát rủi ro bằng cách đa dạng hóa hợp lý mà thôi. Buffett cũng nhận ra điều này. Đó là lý do tại sao ông khuyên nên đa dạng hóa rộng rãi.

Buffett có thể tin tưởng rằng ông đang "kết hôn" với doanh nghiệp mà ông mua lại, nhưng "kết hôn" với cổ phiếu chắc hẳn không phải là một chiến lược thích hợp cho mọi người. Đại đa số các nhà đầu tư không có đủ nguồn lực để "kết hôn" với cổ phiếu. Họ chỉ có đủ tiền để "hẹn hò" với những hạng mục đầu tư của mình mà thôi. Buffett có thể tự hào mình không cần chiến lược thoát ra, nhưng nhà đầu tư trung bình không thể khóa mình mãi mãi với một loại cổ phiếu nào đó – đặc biệt là những cổ phiếu chỉ có khả năng mang lại những khoản thu nhập quá khiêm tốn.

Tất cả những điều này không có ý muốn nói các nhà đầu tư bình thường không nên đầu tư dài hạn. Chúng ta đã thấy phương pháp đầu tư giá trị dài hạn có hiệu quả khá tốt. Tất nhiên, nó cũng sẽ có hiệu quả đối với bạn giống như đối với Buffett. Tuy nhiên, biên tập viên Ken Fisher của tạp chí Forbes đã chỉ ra rằng chỉ có Buffett mới có thể là Buffett. "Đừng cố gắng trở thành Phil Fisher, hoặc Warren Buffett, hay Peter Lynch, hoặc bất kỳ người nào khác. Hãy là chính mình…". Fisher chắc hẳn biết rõ mình đang nói gì. Cha ông, Phil Fisher, là một trong những người hướng dẫn có ảnh hưởng nhất của Buffett. Bạn không phải là Buffett và bạn không nên tự nhận mình có thể đầu tư giống Buffett. Như Ken Fisher nói, bạn hãy là chính mình.

Điều này có nghĩa là bạn phải hiểu được bạn là ai trong vai trò nhà đầu tư. Bạn có những mục tiêu gì? Bạn có những ràng buộc gì? Bạn sẵn sàng và có khả năng chịu đựng rủi ro ở mức độ nào? Hãy tìm hiểu những chiến lược đầu tư nào có hiệu quả nhất đối với bạn. Đảm bảo rằng bạn biết lý do tại sao mình đang đầu tư và cách bạn muốn đầu tư trước khi cam kết đưa ra một phần lớn tài sản của mình vào bất cứ cổ phiếu, ngành hay lớp tài sản nào.

GIẤC MƠ PIPE

Sau đây là một điều khác nữa mà hầu hết các nhà đầu tư không thể làm được. Họ không thể thực hiện các khoản đầu tư tư nhân vào tài sản công (PIPE – Private Investments in Public Equity). Đây là một chiến lược thú vị thường được các quỹ đầu tư thanh khoản linh hoạt (hedge fund(27)) sử dụng. Thực tế, công ty Friedland Global Capital Markets ước lượng rằng "hàng trăm, nếu không phải hàng ngàn, quỹ đầu tư chứng khoán tư nhân hoặc quỹ đầu tư thanh khoản linh hoạt đã được thành lập trong vài năm qua để đầu tư vào PIPE". Berkshire Hathaway cũng là một nhà đầu tư vào PIPE rất năng động.

Hedge Fund có thể bỏ tiền vào đầu tư các loại chứng khoán phát sinh và chỉ bị chế tài bởi các điều khoản trong hợp đồng kiểm soát quỹ. Tùy thuộc vào "Chỉ dẫn đầu tư" và "Phương thức", Hedge Fund có thể mua hay bán trên thị trường và tham gia các hợp đồng future, swap hoặc các phát sinh chứng khoán khác. Vì thế, Hedge Fund có thể tiến hành các chiến lược đầu tư phức hợp, có thể thu lợi tại các thời điểm thị trường dao động mạnh, hoặc khi thị trường đang bán tháo tài sản tài chính. Hedge Fund thích hợp với các nhà đầu tư chuyên nghiệp, hoặc các tổ chức có trình độ cao.

Hedge Fund ra đời năm 1949 tại Mỹ. Một trong những người phát minh ra quỹ này là Alfred W. Jones. Loại quỹ đầu tư này chỉ thực sự bùng phát trên quy mô toàn cầu từ sau Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997. Nếu năm 1990 cả thế giới chỉ có khoảng 500 Hedge fund với tổng trị giá khoảng 40 tỷ USD thì đến năm 2007, tổng số quỹ này đã vượt hơn 9.500 với tổng trị giá tài sản quản lý vào khoảng 2.000 tỷ USD.


Như tên gọi của nó, PIPE cho phép các nhà đầu tư lớn mua cổ phiếu hoặc chứng khoán liên kết vốn (equity-linked securities) từ các công ty công thông qua giao dịch tư nhân. Cách sắp đặt này giúp người phát hành tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Do nó được xem là giao dịch tư nhân nên công ty không cần phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trước khi giao dịch. Hơn nữa, chi phí phát sinh thường ít hơn mức mà nhà phát hành sẽ phải trả trong một giao dịch phát hành thứ cấp điển hình khác. PIPE cũng cho phép nhà phát hành huy động một khoản tiền nhỏ hơn mức mà giao dịch phát hành thứ cấp yêu cầu. Kết quả là PIPE thường được sử dụng khi công ty phát hành cần tiếp cận nhanh một lượng vốn lớn. Người mua thường nhận được chiết khấu tốt và nhà phát hành cam kết sẽ nhanh chóng đăng ký chứng khoán với Ủy ban Chứng khoán, nhờ đó làm cho chúng có tính thanh khoản. Thường mất không quá sáu tháng để quá trình đăng ký được phê chuẩn, cho phép người mua bán lại chứng khoán cho công chúng.

Một giao dịch đầu tư PIPE có thể gắn liền với việc phát hành cổ phiếu phổ thông với giá thấp hơn giá thị trường, hoặc có thể gắn với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi. Trong trường hợp phát hành giấy tờ có giá có thể chuyển đổi, người mua nhận được mức giá tốt và có quyền chuyển đổi chứng khoán thành cổ phiếu phổ thông. Giá chuyển đổi thường được đặt ở mức ưu đãi, có thể cố định hoặc có thể được điều chỉnh. Ví dụ, nếu giá cổ phiếu của nhà phát hành giảm xuống, giá chuyển đổi có thể được giảm theo. Điều này cho phép nhà phát hành tăng thêm cổ phiếu qua quá trình chuyển đổi. Sự sắp đặt này mang lại cho người mua một lớp bảo vệ bổ sung, nhưng nó cũng mang lại cho họ một động cơ thái quá trong việc làm cổ phiếu giảm giá bằng cách mua bán khống. Trong giao dịch PIPE, người mua cũng có thể nhận được sự đảm bảo cho phép được mua thêm một lượng cổ phiếu phổ thông với một mức giá ưu đãi nào đó.

PIPE thường là những giao dịch tuyệt vời dành cho người mua, nhưng chúng không chắc hẳn đã tốt cho những cổ đông hiện hữu của công ty phát hành. Điều này là do chúng có thể dẫn đến một sự pha loãng đáng kể. Kết quả là, khi thị trường biết được giao dịch PIPE đang treo, giá cổ phiếu của công ty phát hành thường giảm xuống để phản ứng với tin tức này. Trên thực tế, Ủy ban Chứng khoán đã phạt một số hedge fund vì thu lợi nhuận không chính đáng từ việc bán đi cổ phiếu ở các công ty chuẩn bị thông báo phát hành PIPE.

Berkshire Hathaway đã tham gia một số giao dịch PIPE trong vai trò nhà đầu tư. Có lẽ Salomon là trường hợp nổi tiếng nhất. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về khoản đầu tư của Berkshire vào Salomon trong Chương 6. Tuy nhiên, theo tài liệu của James Altucher, Salomon không phải là giao dịch PIPE duy nhất của Berkshire. Những giao dịch tương tự khác gồm có nhà sản xuất dao cạo Gillette, công ty gỗ Champion International, công ty viễn thông Level 3 Communications (được một giám đốc của Berkshire Hathaway là Walter Scott thành lập), và nhà sản xuất khí tự nhiên Williams Companies. Một số công ty này có tình hình tài chính khỏe mạnh khi Berkshire tiến hành khoản đầu tư ban đầu. Một số đang gặp khó khăn. Nhưng, có một điểm mà các công ty này có vẻ như cùng chia sẻ là khuynh hướng bán công ty. Salomon cuối cùng được Travelers (nay có tên là Citigroup) mua lại. Gillette sau đó được Procter & Gamble thâu tóm. Champion được International Paper thu mua. Ít nhất cho đến nay Level 3 và Williams vẫn còn xoay xở được để duy trì sự độc lập của mình.

PIPE tỏ ra có khả năng mang lại lợi nhuận lớn cho nhiều nhà đầu tư ở tầm mức doanh nghiệp, và Berkshire không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, đối với nhà đầu tư cá nhân, PIPE vẫn chỉ là một giấc mơ. Những cá nhân muốn tham gia vào thị trường này có thể hy vọng làm được điều đó một cách gián tiếp thông qua các hedge fund hoặc mua cổ phiếu của những công ty như Berkshire Hathaway, khi họ chứng minh được thành tích tốt từ các giao dịch PIPE.

HÃY TÌM HIỂU KỸ BUFFETT, NHƯNG PHẢI THỰC TẾ

Warren Buffett nổi tiếng về hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp thay vì mua cổ phiếu. Ông tin rằng mọi nhà đầu tư nên làm như vậy. Về cơ bản, ông phản đối lối tư duy ngắn hạn trong việc mua cổ phiếu. Xét trên quy mô lớn, ông rất đúng. Nhiều nghiên cứu cho thấy các nhà đầu tư suy nghĩ quá nhiều về ngắn hạn thường có kết cục không tốt do mình tự gây ra. Ví dụ, khi giao dịch quá nhiều họ có thể mang lại lợi nhuận lớn cho công ty chứng khoán thay vì mang lại lợi nhuận cho mình. Với việc thường xuyên hiện thực hóa các khoản thu nhập từ vốn, họ còn có thể chỉ nhận được những khoản thu nhập tầm thường sau thuế, ngay cả khi họ xoay xở để tạo ra được những khoản thu nhập xuất sắc trước thuế.

Tuy nhiên, "kết hôn" với doanh nghiệp không phải là chiến lược phù hợp cho những nhà đầu tư trung bình. Thực tế, đa dạng hóa mới là lựa chọn tốt nhất đối với họ. Như Buffett, tất cả các nhà đầu tư nên có đủ thông minh để mua những cổ phiếu bị định giá thấp. Tuy nhiên, không giống Buffett ở chỗ họ nên sẵn sàng bán cổ phiếu khi chúng được định giá cao. Họ cũng nên nhận thức rằng những công cụ đầu tư không điển hình như PIPE là ngoài tầm với của họ. Nhà đầu tư nên tìm hiểu càng nhiều càng tốt về những chiến lược được Buffett ưa chuộng, nhưng họ cần phải thực tế để đánh giá điều gì có hiệu quả, điều gì không đối với họ.

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

• Buffett đưa ra một sự phân biệt rõ ràng giữa việc mua doanh nghiệp và mua cổ phiếu. Ông tin rằng đầu tư thực sự phải gắn liền với việc mua doanh nghiệp. Những người suy nghĩ giống như người đi mua doanh nghiệp sẽ cam kết đầu tư vốn đáng kể trong dài hạn. Những người suy nghĩ như người mua cổ phiếu không cảm thấy sự ràng buộc với khoản đầu tư của mình. Họ hài lòng bất cứ khi nào bán được với giá tốt. Buffett tránh việc mua cổ phiếu thay vì mua doanh nghiệp. Trừ phi bạn tiếp cận được những nguồn lực như Buffett, tốt hơn hết bạn hãy nghĩ rằng mình là người mua cổ phiếu chứ không phải người mua doanh nghiệp.

• Buffett ngần ngại trong việc bán đi một doanh nghiệp trong hầu như bất cứ hoàn cảnh nào. Điều này có nghĩa là ông sẽ không bán một công ty nào cả thậm chí khi nó được định giá cao trên thị trường; và ông cũng sẽ không bán một công ty có hiệu quả hoạt động kém miễn là nó còn có thể mang lại chút ít thu nhập. Ông kiên quyết áp dụng chiến lược này ngay cả khi ông biết rằng nó sẽ có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả tài chính của Berkshire. Mặc dù Buffett ghét phải bán cổ phiếu trong hầu như bất cứ tình huống nào, nhưng bạn nên sẵn sàng bán cổ phiếu khi giá thị trường của nó cao hơn giá trị nội tại. Tương tự, đừng cảm thấy nghĩa vụ cầm giữ một cổ phiếu chỉ tạo ra một khoản thu nhập kém cỏi.

• Khi Buffett mua một công ty trên danh nghĩa của Berkshire, ông mua lại toàn bộ công ty đó. Khi ông có vị thế tốt trong một công ty đại chúng, Berkshire thường trở thành một trong những cổ đông lớn nhất của công ty. Chiến lược tập trung này mang lại cho Buffett một mức độ ảnh hưởng và kiểm soát mà những nhà đầu tư bình thường không bao giờ có thể hy vọng có được. Nếu bạn không có sự nhạy bén của Buffett hoặc có thể tiếp cận những nguồn lực như Buffett, đa dạng hóa là chiến lược tốt nhất để bạn kiểm soát rủi ro.

• Buffett thích đầu tư vào các công ty tốt với những nhà quản lý tài giỏi. Ông không thích tham gia vào hoạt động quản lý công ty thường ngày, nhưng ông không hề ngần ngại làm điều đó khi cần thiết để bảo vệ các cổ đông. Một nhà đầu tư trung bình sẽ không bao giờ có thể gây ảnh hưởng đến những quyết định quản trị.

• Đầu tư tư nhân vào cổ phiếu công (PIPE) là một chiến lược khác mà Buffett thường vận dụng trong khi nhà đầu tư trung bình không thể áp dụng được. Nhờ sử dụng PIPE, Berkshire thường mua được chứng khoán với mức thu nhập tốt, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông với mức giá hợp lý. Nếu bạn thích ý tưởng áp dụng PIPE, bạn hãy đầu tư vào một công ty như Berkshire Hathaway hay một hedge fund có chuyên môn sâu và khả năng tiếp cận thị trường PIPE cao.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 17
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 17
  • Sau