K
hi mới bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã cố gắng áp dụng cũng như minh hoạ trực tiếp nội dung của chương này bằng cách điều chỉnh kích cỡ và phông chữ của chương trước (Chương 8) theo một trình tự nhất định. Tôi muốn thay đổi định dạng chữ sau mỗi phần, để đến cuối chương, cả kích cỡ lẫn phông chữ đều sẽ hoàn toàn khác so với phần đầu của chương. Trong bản thảo gốc, chương sách sẽ bắt đầu với phông chữ Georgia, cỡ 10, và kết thúc với phông chữ Palatino Linotype, cỡ 11 (cụ thể, định dạng chữ sẽ thay đổi theo trình tự lần lượt là: phông Georgia cỡ 10, phông Cambria cỡ 10.5, phông Palatino Linotype cỡ 10.5, rồi cuối cùng là phông Palatino Linotype cỡ 11).
Mặc dù tôi đã không thể thực hiện được ý tưởng đó do quá trình chỉnh sửa, biên tập cũng như xuất bản quá phức tạp; tuy nhiên, việc đó thì có liên quan gì tới nội dung của chương này chứ?
Khi biết rằng yêu cầu mà bạn sắp đưa ra sẽ khiến mục tiêu không mấy hài lòng, đôi khi, bạn có thể tạo ra những bước thay đổi rất nhỏ để khiến người đó dần trở nên quen thuộc với yêu cầu của mình, đến một thời điểm nhất định, bạn sẽ thành công gửi gắm thông điệp của mình mà người đó thậm chí còn chẳng hề hay biết. Cũng giống như việc thay đổi định dạng chữ của từng phần trong một chương sách vậy, sự khác biệt là quá nhỏ đến nỗi chắc hẳn hầu hết độc giả đều khó có thể nhận ra. Tuy nhiên, nếu đem so sánh định dạng chữ ở đầu chương và cuối chương, ta có thể dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt. Chương này của cuốn sách sẽ cho bạn câu trả lời chính xác cho việc tại sao rất nhiều người không thể nhận ra được một số thay đổi nhất định, cũng như chỉ dẫn cho bạn cách trình bày thông điệp tới mục tiêu, sao cho đối phương không nhận ra được những mặt tiêu cực ẩn chứa trong đó.
Nội dung của chương sách này cũng sẽ bắt đầu đụng chạm đến ranh giới đạo đức, vì vậy, tôi tha thiết đề nghị bạn phải đưa ra những phán xét đúng đắn trước khi sử dụng bất cứ kỹ thuật nào được trình bày dưới đây. Tôi cũng cực lực phản đối việc sử dụng những chiến lược dưới đây cho bất kỳ mục đích tổn nhân lợi kỷ nào. Thậm chí, tôi đã từng phân vân liệu có nên đưa chương này vào cuốn sách; tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều trường hợp mà việc che giấu đi một yếu tố tiêu cực lại nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho người khác (ví dụ: thuyết phục con cái bạn ăn rau hoặc làm bài tập).
TẠI SAO ĐÔI KHI CON NGƯỜI KHÔNG NHẬN RA ĐƯỢC NHỮNG THAY ĐỔI QUANH MÌNH?
Tại sao độc giả ít có xu hướng nhận ra các thay đổi trong phông chữ? Một cách tự nhiên, đôi khi, chúng ta trải qua trạng thái mù thoáng qua (change blindness), một tình trạng khiến chúng ta không thể nhận biết được các thay đổi đang xảy ra xung quanh mình, đặc biệt là khi các thay đổi đó quá nhỏ bé hoặc ngoài dự đoán. Phần này của chương sẽ tập trung mô tả ba khía cạnh chính của hội chứng “mù thoáng qua” này.
Những thay đổi chậm rãi.
Đầu tiên, con người rất khó nhận ra những thay đổi được tiến hành theo từng phần nhỏ. Bạn có thể tìm hiều về khái niệm ngưỡng khác biệt đủ nhận biết (hoặc còn được gọi là ngưỡng cảm nhận dị biệt) – một lý thuyết nói về mức thay đổi tối thiểu ở một tác nhân kích thích nhất định để có thể được nhận biết bởi con người (Ono, 1967).
Nếu muốn, bạn có thể thực hiện một vài thí nghiệm để tìm ra mức độ thay đổi chính xác cần thiết để một người có thể nhận ra rằng đặc tính của một tác nhân kích thích nhất định đã bị thay đổi. Một khi biết được tỷ lệ phần trăm thay đổi tối thiểu để nhận biết, bạn có thể tạo ra các thay đổi dưới “ngưỡng khác biệt đủ nhận biết” đó để mục tiêu không thể nhận ra.
Đoạn văn trên có thể hơi khó hiểu, vì vậy, sau đây, tôi xin được đưa ra một ví dụ để minh họa rõ hơn về lý thuyết này. Giả sử bạn cần tăng giá một sản phẩm mà bạn đang kinh doanh, nhưng bạn lại không muốn sự thay đổi giá đó thu hút sự chú ý của khách hàng. Khi đó, việc bạn nên làm là thực hiện một vài thí nghiệm để xác định chính xác mức thay đổi trong giá cả sản phẩm có thể thu hút sự chú ý của khách hàng. Sau đó, bạn có thể tăng giá sản phẩm của mình dưới “ngưỡng khác biệt đủ nhận biết” mà bạn vừa tìm được. Bằng cách này, bạn có thể tối thiểu hóa lượng khách hàng nhận ra được sự tăng giá sản phẩm của bạn.
Nếu bạn đang ở trong tình thế bất lợi cho việc thực hiện các thí nghiệm để xác định ngưỡng khác biệt trước khi bị nhận biết, bạn vẫn có thể áp dụng khái niệm ngưỡng cảm nhận dị biệt với sự hỗ trợ của trực giác. Thay vì thực hiện một thay đổi tiêu cực lớn với thông điệp của mình, hãy “tập” cho mục tiêu quen với thông điệp mới đó bằng cách thực hiện nhiều thay đổi nhỏ và chậm rãi.
Nếu trong chương trước, tôi ngay lập tức chuyển từ phông chữ Georgia cỡ 10 sang phông chữ Palatino Linotype cỡ 11, chắc hẳn bất cứ độc giả nào cũng có thể dễ dàng nhận ra, do sự thay đổi đó là quá mức đột ngột và rõ ràng. Tuy nhiên, nếu sự thay đổi trên được chia ra làm nhiều phần nhỏ và tiến hành một cách chậm rãi, độc giả sẽ ít có xu hướng nhận ra được hơn, do những thay đổi đó có tỷ lệ rất cao nằm dưới ngưỡng cảm nhận dị biệt của họ.

Phép so sánh tương đối.
Một khía cạnh khác của hội chứng mù thoáng qua có liên quan trực tiếp đến khả năng thực hiện phép so sánh giữa phiên bản ban đầu với phiên bản mới của tác nhân kích thích bị thay đổi. Nếu một người để tâm thực hiện phép so sánh tương đối này, người đó có thể nhận ra bất cứ thay đổi, dù ở mức độ nào, một cách dễ dàng hơn nhiều.
Trong chương trước, nếu bạn chú ý so sánh định dạng chữ của từng phần, bạn sẽ nhận ra từng sự thay đổi ở phương diện này được thực hiện một cách rất rõ ràng. Tuy nhiên, nếu các phần của chương đột nhiên biến mất ngay sau khi bạn đọc xong, sự thay đổi ở phông cũng như kích cỡ chữ sẽ khó bị phát hiện hơn nhiều, do bạn không có cột mốc nào để đem ra so sánh với định dạng mới cả.
Simons và Levin (1998) đã tiến hành một nghiên cứu nhằm chỉ ra mức độ đáng báo động trong việc chúng ta không thể nhận ra những thay đổi xảy ra xung quanh mình trong những trường hợp không thể thực hiện phép so sánh tương đối. Nội dung của thí nghiệm đó như sau: khi nhà nghiên cứu hỏi đường một người qua đường ngẫu nhiên, hai nhân viên bê vác sẽ khiêng một tấm tranh lớn đi qua ngay giữa hai người. Trong lúc đó, thừa dịp người qua đường được hỏi không để ý, nhà nghiên cứu đó đã đổi chỗ với một trong hai nhân viên bê vác đằng sau tấm tranh. Mục đích của thí nghiệm này là để kiểm tra xem có bao nhiêu người nhận ra được rằng mình đang nói chuyện với một người hoàn toàn khác.
Bạn thử đoán xem có bao nhiêu phần trăm trong số những người được hỏi hoàn toàn không nhận ra được sự thay đổi này. 5%? 10%? Hay là 15%? Tất cả những đáp án trên đều không chính xác. Tỷ lệ số người không nhận ra được rằng mình đang nói chuyện với một người hoàn toàn khác lên tới 50% – một con số đáng kinh ngạc! Khả năng nhận biết thay đổi của chúng ta sụt giảm mạnh mẽ khi không thể thực hiện phép so sánh giữa hai phiên bản mới và cũ của tác nhân bị thay đổi.

Kỳ vọng.
Một phần lý do những người đó không nhận ra sự thay đổi đối tượng trong cuộc trò chuyện của mình vì họ không ngờ được rằng sẽ xảy ra tình huống như vậy.
Bạn còn nhớ bài tập mà chúng ta đã làm ở chương thứ hai, trong đó, rất nhiều người đã không nhận ra được trong câu “não bộ của chúng ta là một một bí ẩn vĩ đại” thừa một chữ “một”, không? Họ đã mong đợi được đọc một câu văn không có chữ “một” thừa nào cả. Chính kỳ vọng đó đã định hình nhận thức của họ, khiến họ không thể nhận ra được sự khác biệt tưởng như rất rõ ràng kia. Tương tự như vậy, những người qua đường trong thí nghiệm trên mong đợi có một cuộc trò chuyện bình thường với nhà nghiên cứu thực hiện thí nghiệm đó, và chính kỳ vọng đó đã định hình nhận thức của họ, khiến họ không thể nhận ra sự thay đổi lớn này.
Bây giờ, cùng nhìn vào một ví dụ bao gồm cả ba khía cạnh nói trên của hội chứng mù thoáng qua. Cả ba lý do được nhắc đến trong phần này của chương – những thay đổi chậm rãi, phép so sánh tương đối, và kỳ vọng – đều có thể được sử dụng để giải thích bí ẩn đằng sau những gói bim bim. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: liệu có phải ngày xưa gói bim bim to hơn bây giờ không? Trên thực tế, câu trả lời là có. Vậy tại sao chúng ta lại không nhận ra sự thay đổi này?
⇒ Đầu tiên, các nhà tiếp thị từ từ thu nhỏ kích cỡ của các gói bim bim, và những thay đổi đó là quá nhỏ để hầu hết người tiêu dùng có thể nhận biết được.
⇒ Thứ hai, trừ khi ai cũng có một bộ sưu tập vỏ gói bim bim ở nhà (một điều mà tôi đoán là không mấy người làm, nhưng ai mà biết được…), nếu không, họ không thể thực hiện phép so sánh tương đối giữa các mẫu bao bì cũ và mới.
⇒ Thứ ba, các nhà tiếp thị thay đổi kích cỡ của chúng để tránh phải thay đổi một yếu tố khác mà người tiêu dùng dễ nhận ra hơn nhiều: giá cả. Mặc dù chúng ta luôn luôn cảnh giác với sự gia tăng về giá cả, chúng ta lại ít khi “mong đợi” sự thay đổi ở kích cỡ của gói bim bim. Các nhà tiếp thị sản phẩm đã khôn ngoan lợi dụng sự thiếu tập trung này.
Giờ đây, khi bạn đã biết được lý do tại sao đôi khi, chúng ta lại không nhận ra được những thay đổi xảy ra quanh mình; phần tiếp theo của chương sẽ chỉ dẫn cho bạn cách để áp dụng những nguyên lý trên nhằm mục đích đánh lạc hướng nhận thức của mục tiêu khỏi những khía cạnh tiêu cực trong thông điệp của bạn.
CHIẾN LƯỢC THUYẾT PHỤC:
XÓA NHÒA ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC THÔNG ĐIỆP TIÊU CỰC
Phần này của chương sẽ giải thích cho bạn cách vận dụng sức ảnh hưởng của hội chứng mù thoáng qua để khiến mục tiêu đồng ý với một thông điệp hoặc chấp nhận một yêu cầu nhất định của bạn, ngay cả khi anh ta không thích thú gì với việc này (ví dụ: thuyết phục lũ trẻ chịu ăn rau).

Giải mẫn cảm hệ thống (Systematic Desensitization).
Trong một số tình huống nhất định, khi mục tiêu không có thiện cảm với thông điệp của bạn, bạn có thể tập cho họ quen dần với thông điệp đó bằng phương pháp giải mẫn cảm hệ thống. Phương pháp này thường được sử dụng như một liệu pháp tâm lý, có thể giúp con người giải tỏa khỏi những nỗi ám ảnh bằng cách cho họ dần dần tiếp xúc với ngày càng nhiều các tác nhân có khả năng kích thích sự lo lắng cũng như rối loạn trong tâm trí họ.
Thử xem xét trường hợp của “Peter bé nhỏ” (Little Peter ), một cậu bé hai tuổi mắc chứng sợ thỏ (Jones, 1924). Để giúp cậu bé vượt qua nỗi sợ của mình, một nhà nghiên cứu đã thử bắt đầu bằng việc cho cậu bé một chiếc kẹo (một tác nhân kích thích giúp tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu) và đặt một con thỏ ở phía bên kia căn phòng. Bởi vì khoảng cách giữa cậu bé và con thỏ còn rất xa, cảm xúc tích cực từ chiếc kẹo đã đẩy lùi được cảm xúc hoảng loạn đến từ sự hiện diện của con thỏ. Quá trình đó được lặp lại mỗi ngày trong suốt hai tháng sau đó, và cứ mỗi lần, nhà nghiên cứu lại mang con thỏ lại gần Peter hơn một chút. Khi quãng thời gian hai tháng kết thúc, Peter đã được “giải mẫn cảm” khỏi sự hiện diện của con thỏ nhiều đến mức nỗi sợ của cậu bé đã hoàn toàn biến mất.
Bạn có nỗi ám ảnh nào cần phải vượt qua không? Phương pháp giải mẫn cảm hệ thống cũng có tác dụng lên người trưởng thành đấy. Trong một trường hợp điển hình, các nhà nghiên cứu đã giải thích về quá trình giúp đỡ một người phụ nữ vượt qua chứng sợ nhện bằng cách cho cô tiếp xúc với các tác nhân kích thích liên quan đến nhện với cường độ ngày càng tăng (Carlin, Hoffman, & Weghorst, 1997).
Trong quá trình trị liệu kéo dài nhiều tháng, họ bắt đầu với việc nói chuyện về lũ nhện, sau đó dần dần gia tăng cường độ tiếp xúc lần lượt qua các mức độ: những tấm ảnh chụp các loại nhện, đồ chơi hình nhện, rồi cuối cùng là tiếp xúc trực tiếp với lũ nhện trong môi trường thực tế ảo. Khi liệu trình này kết thúc, chứng sợ nhện của người phụ nữ nói trên đã hoàn toàn biến mất.
Tuyệt đấy, Nick. Nhưng chuyện đó thì có liên quan gì tới chủ đề thuyết phục cơ chứ? Tôi rất hân hạnh được trả lời câu hỏi này. Bạn có nhớ tôi từng nhắc tới ví dụ về những bậc phụ huynh muốn thuyết phục con mình thích ăn rau không? Nếu bạn có thể tìm được cách thay đổi thành phần món ăn ưa thích của con bạn, và thêm vào đó một số loại rau củ, bạn có thể bắt đầu bằng việc thêm một chút rau vào trong lần tới nấu món đó. Đứa bé sẽ không thể phát hiện ra sự thay đổi quá nhỏ này và ăn một cách ngon lành.
Tiếp sau đó, cứ mỗi lần nấu món ăn này, bạn lại có thể gia tăng lượng rau thêm một chút. Do con bạn không thể thực hiện phép so sánh tương đối giữa bữa ăn lần này và lần trước, đứa bé sẽ khó có thể nhận ra được rằng bạn đã tăng lượng rau trong đó. Thậm chí, đứa trẻ có thể sẽ nhớ lại và nhận ra rằng mình đã từng ăn một món tương tự, và trong đó có một lượng rất nhỏ những “vật thể lạ” giống như thế; và vì bữa ăn vẫn rất ngon miệng, nhiều khả năng đứa bé sẽ tiếp tục giữ thái độ ban đầu của mình về món ăn với nhiều rau hơn một chút này.
Quá trình này có thể sẽ kéo dài nhiều tháng trước khi con bạn thực sự nhận ra có một thứ gì đó hơi khác. Tuy nhiên, đến lúc đó, sau nhiều tháng ăn món ăn đó với một lượng rau nhất định, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ rất cao đứa trẻ đó sẽ muốn tiếp tục ăn món này với rau (Lee, Frederick, & Ariely, 2006).
Để tổng kết, nếu bạn muốn phát triển ở mục tiêu của mình một thái độ tích cực (thậm chí chỉ là trung tính) với một thứ mà bạn biết là họ không mấy thích thú, bạn có thể “giải mẫn cảm” thông điệp của mình bằng cách tập cho họ quen dần với nó. Kỹ thuật này sẽ mang lại hiệu quả rõ rệt hơn nhiều nếu: (1) sự thay đổi được chia ra làm nhiều phần nhỏ, (2) mục tiêu của bạn không thể thực hiện phép so sánh tương quan, (3) mục tiêu của bạn không ngờ rằng sẽ có bất cứ sự thay đổi nào diễn ra, hoặc (4) bạn kết hợp nhân tố kích thích gây khó chịu cho mục tiêu với một nhân tố kích thích khác mang lại cho họ cảm giác thoải mái (ví dụ: kết hợp kẹo với thỏ, kết hợp một bữa ăn ngon lành với một chút rau).
GÓC NHÌN CỦA MỘT NHÀ NGOẠI CẢM:
GIẢM MỨC ĐỘ MẪN CẢM CỦA ĐỐI PHƯƠNG VỚI CÁC THỦ THUẬT TAY
Trước khi chính thức lấy danh hiệu là một “nhà ngoại cảm”, tôi đã biểu diễn với tư cách là một “ảo thuật gia” hơn năm năm. Trong suốt khoảng thời gian đó, tôi đã biết rất nhiều các thủ thuật nhanh tay được sử dụng bởi các nhà ảo thuật để tránh bị khán giả phát hiện mánh khóe. Một trong những phương pháp thường dùng nhất là kỹ thuật giải mẫn cảm nhận thức của khán giả.
Hãy thử đặt mình vào vị trí của tôi. Bạn đang đứng trên sân khấu để biểu diễn một màn ngoại cảm, và bạn vừa cố kích hoạt một suy nghĩ nhất định trong đầu của ai đó, nhưng không thành công do phải đối mặt với những câu hỏi rất khôn khéo và tinh tế. Tuy nhiên, bạn là một nhà ngoại cảm vô cùng ngoan cố, và bạn không muốn chấp nhận thất bại này. Bạn muốn tìm ra một cách nào đó để khiến khán giả, và cả người đó, lầm tưởng rằng bạn vẫn biết rõ những gì anh ta đang suy nghĩ.
Và thế là, bạn quyết định sử dụng Kế hoạch B. Mục tiêu mới bây giờ là yêu cầu người đó nói ra suy nghĩ của mình, và, trong lúc đó, bạn sẽ lén lút ghi lại những điều đó vào một mảnh giấy cất trong túi áo. Nếu bạn có thể thành công làm điều đó mà không bị ai phát hiện, sau đó, bạn sẽ sử dụng một vài thủ thuật ảo thuật để đổi chỗ mảnh giấy đó với mảnh giấy được gấp sẵn mà bạn đang chuẩn bị mở ra trước mắt khán giả. Việc này sẽ khiến tất cả mọi người trong khán phòng tưởng bạn đã đoán được suy nghĩ của người tham gia màn biểu diễn kia ngay từ đầu, và bạn vẫn nắm phép màu trong tay (có thể nói là vậy).
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một vấn đề nho nhỏ: nếu bạn đột nhiên đút tay vào túi, bạn sẽ ngay lập tức thu hút sự chú ý của khán giả – một điều có thể phá hỏng Kế hoạch B của bạn.
Vậy bạn phải che giấu hành động này bằng cách nào? Bạn có thể giảm thiểu trạng thái mẫn cảm của khán giả với việc để tay vào túi của mình bằng cách thường xuyên thực hiện hành động đó trong suốt buổi diễn. Việc lặp lại thường xuyên này sẽ khiến khán giả quen, và bớt mẫn cảm hơn, với ý tưởng bạn đút tay vào túi áo, do đó, họ sẽ ít có khả năng nhận ra hành động này hơn khi bạn thực sự cần phải viết ra một lời dự đoán mới. Để làm được việc này mà không bị phát hiện, bạn sẽ phải tập luyện rất nhiều; tuy nhiên, đừng lo, vì rất nhiều nhà ngoại cảm khác cũng phải đối mặt với vấn đề này.
Màn biểu diễn kiểu này sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn nhiều nếu bạn làm qua webcam, vì trong trường hợp đó, bạn không phải lo lắng về bất cứ cái túi nào cả; bạn chỉ việc viết đáp án lên mặt bàn ở trước mặt. Trên thực tế, với màn biểu diễn này cộng thêm một chút nghệ thuật trình diễn, thậm chí, bạn có thể khiến người khác phải sửng sốt khi thực hiện qua webcam, và tạo ra một đoạn video lan truyền khá thành công (bật mí: tôi đã tạo video “Chat Roulette Mind Reading – Part 1 [Đọc tâm trí qua Chat Roulette – Phần 1] bằng phương pháp này).
ỨNG DỤNG VÀO THỰC TẾ:
KỲ NGHỈ GIA ĐÌNH (PHẦN 2)
Bạn còn nhớ ví dụ về kỳ nghỉ gia đình tới Disneyland mà tôi đã đề cập đến trước đó không? Người chồng luôn lo lắng về chuyện tiền nong của bạn đang phân vân về chuyến đi này, và bạn quyết định tiếp tục gia tăng lợi thế của mình bằng cách tập cho anh ta quen với yêu cầu này của bạn.
Bạn vận dụng áp lực của những tiếp xúc trùng lặp thường xuyên bằng cách liên tục cố ý “để quên” những tờ rơi, bưu thiếp, và đủ loại quảng cáo liên quan đến du lịch khắp nhà. Những bài quảng cáo này sẽ khiến anh chồng của bạn liên tục tiếp xúc với ý tưởng đi du lịch, từ đó khiến việc đi du lịch trở nên hấp dẫn hơn trong mắt anh ta. Chiến thuật này thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt, do như bạn đã học được ở chương trước, các tiếp xúc ở cấp độ phi ý thức mạnh mẽ hơn nhiều những tiếp xúc ở cấp độ có ý thức. Nếu người chồng của bạn không chủ tâm chú ý tới những bài quảng cáo đó, do hiệu ứng tiếp xúc đơn thuần, ảnh hưởng của chúng lên anh ta sẽ mạnh mẽ hơn.
Những tiếp xúc trùng lặp thường xuyên đó cũng sẽ gia tăng mức độ dễ dàng trong việc xử lý khái niệm “du lịch” của anh ta. Đến khi bạn một lần nữa khơi lại chủ đề này, do ảnh hưởng của những lần tiếp xúc kia, chồng của bạn có thể tưởng tượng ra hình ảnh mình đang đi du lịch một cách dễ dàng hơn, và anh ta sẽ nhầm lẫn giữa cảm giác thoải mái mà sự trôi chảy trong xử lý khái niệm đó mang lại với mong muốn được đi du lịch của bản thân.
Sau khoảng một hoặc hai tuần rải các tờ rơi quảng cáo khắp nơi trong nhà, cuối cùng cũng đến lúc bạn hỏi lại chồng mình một lần nữa về quyết định đi du lịch. Lần này, anh chồng đã có vẻ cởi mở hơn với ý tưởng đó; tuy nhiên, anh ta vẫn cần thêm thời gian để suy nghĩ. Trời ạ. Bạn lại thất bại một lần nữa trong việc nhận được sự đồng ý của anh ta; nhưng đừng vội lo lắng. May mắn thay, chúng ta vẫn còn rất nhiều các chiến lược thuyết phục khác cần phải nói đến, vì thế, hãy để ví dụ này lại cho phần còn lại của cuốn sách.
BƯỚC 5
TỐI ƯU HÓA THÔNG ĐIỆP CỦA BẠN

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN:
TỐI ƯU HÓA THÔNG ĐIỆP CỦA BẠN
Nhìn kìa! Cuối cùng thì chúng ta cũng tới được lúc bạn chính thức đưa ra yêu cầu của mình rồi. Trước hết, hãy cùng ôn lại một chút về bốn bước hành động đã đưa bạn tới được thời điểm này:
⇒ Đầu tiên, bạn cần tái định hình nhận thức của mục tiêu thông qua việc sử dụng mồi tâm trí, hiệu ứng mỏ neo, và các kỳ vọng. Việc này sẽ giúp bạn kích thích ở mục tiêu một cái nhìn thuận lợi hơn cho quá trình thuyết phục.
⇒ Thứ hai, bạn cần thay đổi các tín hiệu ngôn ngữ cơ thể cũng như hành vi của đối tượng theo cách khiến chúng phản ánh được một người nhiều khả năng sẽ đáp ứng yêu cầu mà bạn đưa ra. Việc này sẽ giúp kích hoạt ở mục tiêu một thái độ/quan điểm tương thích với những hành vi đó. Kết quả là mục tiêu mà bạn cần thuyết phục sẽ có tỷ lệ đáp ứng yêu cầu của bạn cao hơn để giữ sự nhất quán với thái độ/quan điểm mới được thành lập kia.
⇒ Thứ ba, bạn cần nhấn mạnh vào các quy chuẩn xã hội, đồng thời tạo mối quan hệ tích cực hơn với mục tiêu. Việc này sẽ giúp bạn gia tăng áp lực tâm lý phải đáp ứng với yêu cầu mà bạn đưa ra lên mục tiêu.
⇒ Thứ tư, bạn cần sử dụng các tiếp xúc trùng lặp thường xuyên, đồng thời với biện pháp “giải mẫn cảm” để tập cho mục tiêu quen dần với thông điệp mà bạn muốn đưa ra. Với cảm giác quen thuộc đã được củng cố mạnh mẽ, mục tiêu sẽ có nhiều khả năng đáp ứng yêu cầu của bạn hơn.
Bước hành động tiếp theo trong bảy bước METHODS sẽ chỉ cho bạn cách thức đúng đắn để trình bày thông điệp cũng như yêu cầu của mình. Đặc biệt hơn nữa, bạn sẽ được biết lý do đằng sau việc con người thường đánh giá các thông điệp dựa trên hoàn cảnh mà họ tiếp xúc với chúng. Đồng thời, bạn cũng sẽ học được cách để chỉnh sửa cách trình bày thông điệp của mình sao cho phù hợp nhất với phương thức mà mục tiêu cần thuyết phục sẽ sử dụng để đánh giá thông điệp đó.