Kit nắm lấy bàn tay tôi dưới gầm bàn khi Sam Kombothekra xoay chiếc máy tính xách tay lại đối diện với chúng tôi. Tôi ngần ngại, tôi không muốn nhìn căn phòng đó thêm một lần nữa. “Đừng lo,” Sam nói, khi tôi quay mặt đi và dựa vào Kit. “Chị sẽ không thấy bất cứ thứ gì khó chịu đâu - chỉ là căn phòng khách bình thường mà chị đã thấy trước đây, không có thứ gì lạc điệu xuất hiện trong này cả. Nhưng tôi cần chị nhìn nó. Tôi cần cho chị xem một thứ.”
“Chúng ta có cần phải làm việc này ở đây không?” Tôi hỏi. Cảm giác thật sự không ổn. Sam nên tới Melrose Cottage một lần nữa, nếu đây là lựa chọn tốt nhất anh ta có thể đưa ra. Chúng tôi đang ngồi trong một cái căng tin to bằng hội trường của một trường học, bị vây bọc tứ phía bởi âm thanh của những chiếc khay khua lanh canh, máy rửa bát kêu vo vo, những cuộc nói chuyện ồn ào từ cả hai bên của ô cửa phục vụ trong căng tin, cũng như qua cánh cửa - hai bà cấp dưỡng lớn tuổi trông như bù nhìn, nếu đó là cách người ta gọi, cười khúc khích không thể kiểm soát vì một câu đùa của một anh chàng cảnh sát trẻ tuổi mặc đồng phục, mặt mũi bóng loáng.
Dọc theo bức tường là một dãy những chiếc máy theo phong cách của khu trò chơi điện tử, đèn sáng nhấn nháy và kêu bíp bíp.
Tôi cảm thấy như vô hình. Cổ họng tôi chưa gì đã sưng lên vì phải hét lên để người khác nghe thấy. Hỗn hợp của hơi nóng ngột ngạt nơi đây lẫn mùi xúc xích cùng trứng làm tôi buồn nôn.
“Connie?” Sam nói một cách lý trí. Tất cả mọi người đều thật là ôi-lý-trí-quá-đi, ngoại trừ tôi. “Chị nhìn vào bức hình đi.”
Chị muốn chỉ một phần sự thật hay muốn tất cả? Nếu như đây là tình thế được ăn cả, ngã về không thì sao?
Tôi ép mình nhìn vào màn hình máy tính. Lại là nó một lần nữa: phòng khách của số 11 Bentley Grove. Không có xác người phụ nữ nào trên sàn, không máu. Sam vươn người ra và chỉ vào góc phòng, về phía chiếc cửa sổ xây nhô. “Chị có thấy vòng tròn ở trên thảm kia không?”
Tôi gật đầu.
“Tôi không thấy,” Kit nói.
“Một đường cong màu nâu rất mờ - gần như một vòng tròn, nhưng không hoàn toàn,” Sam nói. “Bên trong nó, tấm thảm màu hơi khác một chút - thấy không?”
“Đường tròn, có,” Kit nói. “Vừa xong. Với tôi thì màu trông giống nhau, trong và ngoài.”
“Trong vòng tròn thì tối màu hơn,” tôi nói.
“Đúng thế,” Sam gật đầu. “Dấu vết đó là từ một cây thông Giáng sinh.”
“Một cây thông Giáng sinh?” Anh ta đang đùa à? Tôi lau mồ hôi đọng ở môi trên mình.
Sam hạ màn hình chiếc máy tính xuống, nhìn tôi.
Cứ nói đi, dù nó có là gì đi nữa. Nói cho tôi biết anh làm thế nào để chứng tỏ được rằng tôi đã sai, điên rồ, và ngu ngốc.
“Cảnh sát Cambridge đã hết sức hợp tác,” anh ta nói. “Hơn tôi mong đợi rất nhiều. Nhờ có những nỗ lực của họ, tôi hy vọng mình sẽ có thể làm nguôi bớt những mối lo lắng của chị.”
Tôi nghe tiếng thở dài nhẹ nhõm của Kit. Cảm giác tức giận trỗi dậy trong lòng tôi. Sao anh lại có thể làm như thế, trước khi anh được nghe bất cứ điều gì, cứ như mọi chuyện kết thúc rồi? Bất kỳ giây phút nào kể từ bây giờ anh cũng sẵn sàng lôi chiếc Blackberry ra và càu nhàu về chuyện phải quay lại làm việc.
“Chủ nhân của số 11 Bentley Grove là một bác sĩ tên Selina Gane.”
Vậy ra đó là tên ả ta. Sam đã tìm được nhiều thông tin hữu ích trong bốn mươi tám giờ hơn là tôi trong sáu tháng.
“Cô ấy là bác sĩ chuyên khoa ung thư, làm việc tại bệnh viện Addenbrooke.”
“Tôi biết rõ nó,” Kit nói. “Tôi học đại học ở Cambridge. Addenbrooke đã chữa cho phần ruột thừa bị hoại tử của tôi, một tiếng đồng hồ trước khi nó khiến tôi mất mạng.”
Bằng đại học của Kit là bằng cấp duy nhất của anh. Anh có thể nói “một bằng của tôi,” nếu Sam Kombothekra cho rằng đó chỉ là một trong số nhiều bằng.
Nếu đại học ở Cambridge có khóa thạc sĩ Nghĩ Xấu Cho Người Khác, chắc tôi sẽ lấy được bằng xuất sắc.
“Bác sĩ Gane mua ngôi nhà năm 2007, từ gia đình Beater. Họ mua số 11 từ người phát triển địa ốc khi nó được xây năm 2002. Bentley Grove lúc đó còn chưa tồn tại. Một nhân viên môi giới nhà đất ở địa phương tên là Lorraine Turner phụ trách việc bán ngôi nhà của gia đình Beater cho bác sĩ Gane. Lorraine, trùng hợp thay, cũng là người môi giới đang phụ trách tiếp thị cho ngôi nhà vào thời điểm hiện tại.”
“Không hề trùng hợp chút nào,” Kit sửa lại lời anh ta. “Nếu muốn bán nhà của mình, tại sao không giao nó cho người mà anh biết là lần trước đã bán nó thành công - cho anh? Đó là điều tôi sẽ làm, nếu tôi đi bán Melrose Cottage.”
“Anh sẽ không bán Melrose Cottage.” Tôi không nhịn được mà nói. “Chúng ta sẽ cùng bán nó.” Tôi muốn xin lỗi Sam vì việc Kit ngắt lời, tôi rất ghét khi anh tỏ vẻ khoe mẽ.
“Cảnh sát Cambridge đã nói chuyện với Lorraine Turner hôm qua. Tôi cũng nói chuyện với cô ta trên điện thoại sáng nay. Tôi nghĩ chị sẽ được bảo đảm một lần nữa khi tôi kể cho chị những gì cô ấy đã nói với tôi. Vào tháng Mười hai năm 2006, gia đình Beater quyết định mang số 11 Bentley Grove đi rao bán - họ muốn chuyển về vùng nông thôn.”
Tại sao, vì Chúa?
“Ngày mà họ đưa ra quyết định cũng là ngày bà Beater yêu cầu ông Beater ra ngoài đi mua một cây thông Giáng sinh!”
“Tôi lấy một ly ca cao được không?” Kit nói. “Cái này nghe như phần mở đầu của một câu chuyện kể trước khi đi ngủ vậy.”
“Sớm thôi, anh sẽ nhận thấy vì sao nó lại liên quan ở đây,” Sam bảo anh.
Nói cách khác là, đừng có mà ngắt lời một lần nữa.
“Bà ấy không có nhà khi chồng trở về, vậy nên không thể nhắc ông ấy đặt cái gì đó xuống để bảo vệ tấm thảm trước khi đặt cây thông lên đó, vào trong chậu. Chiếc chậu có những cái lỗ ở dưới đáy, đất trong chậu thì ướt...”
“Thật là ngốc nghếch.” Kit bật cười. “Tôi cá là bà vợ Beater đã sạc cho ông chồng Beater một trận ra trò mà ông ta suốt đời không quên được.”
“Rất có khả năng là thế.” Sam cười.
Tại sao tất cả mọi người đều đang vui vẻ, ngoại trừ tôi? Tôi không thể cảm thấy nghiêm túc về chuyện này, bất kỳ phần nào trong đó - tất cả những chuyện tầm phào về cây thông Giáng sinh và những con người chẳng có chút ý nghĩa gì với tôi; và cùng lúc đó, tôi chẳng thấy có gì đáng cười cả. Đầu óc tôi tràn ngập một hình ảnh kinh tởm: cào xé mặt mình tới khi toạc cả da, cho tới khi chẳng còn lại gì ngoài một hình cầu đỏ lòm chẳng có đường nét gì nơi trước đây là đầu tôi.
“Khi Lorraine Turner tới để định giá ngôi nhà, điều đầu tiên bà Beater cho cô ta xem là tấm thảm phòng khách bị ố. Bà lại làm một tràng rên rỉ dài dòng về sự kém cỏi của ông chồng ‘Dạng đàn ông vô tích sự điển hình - vào đúng cái ngày chúng tôi quyết định bán ngôi nhà thì lại...’ vân vân. Anh chị biết rồi đấy. Bà Beater thuê một người giặt thảm chuyên nghiệp, nhưng vết ố không chịu biến mất hoàn toàn. Một vết nâu trông như vòng tròn còn lại đó mà không thể tẩy xóa được.”
Sam chuyển hướng từ Kit sang tôi. “Thứ Hai tuần trước, Lorraine tới để định giá số 11 Bentley Grove cho bác sĩ Gane. Ba năm rưỡi kể từ lần đầu tiên cô ta đặt chân vào ngôi nhà đó, vết ố vẫn còn nguyên đó. Cô ta đùa một câu về nó, có vẻ là vậy, và rồi hối tiếc vì có vẻ bác sĩ Gane hiểu sai ý - như thể Lorraine đang ám chỉ là cô ấy là người nhếch nhác, không chịu thay tấm thảm hỏng của người chủ cũ. Lorraine nói rằng lúc đó có chút khó xử.”
Tôi có cần phải cảm thấy tiếc nuối hộ một nhân viên môi giới bất động sản mình chưa từng gặp? Kit đang cười khúc khích: anh hẳn là một khán giả hoàn hảo.
“Cô ta ghi hình lại ngôi nhà và vườn cho tour ảo, chụp ảnh để đưa lên tờ rơi và trên trang web của trung tâm môi giới,” Sam tiếp tục. “Một trong số đó là căn phòng khách, với dấu vết rõ ràng là thấy được của cây thông Giáng sinh trên thảm - đó là tấm ảnh chúng ta vừa xem.”
“Vậy thì sao?” Tôi hỏi, một cách thô lỗ quá mức chủ định. “Có thứ gì ở đây chứng tỏ được điều gì? Nó liên quan gì đến người phụ nữ tôi đã thấy?”
“Connie,” Kit làu bàu.
“Không sao đâu,” Sam bảo anh. Anh ta cảm thấy tội nghiệp cho anh, tôi nghĩ. Hẳn là không dễ dàng gì, khi phải kết hôn với một người đàn bà điên rồ. “Chiều thứ Bảy vừa mới qua, vậy là gần mười hai tiếng đồng hồ sau khi chị nhìn thấy cái xác người trên tour ảo, Lorraine Turner dẫn một cặp đôi trẻ đi xem nhà số 11 Bentley Grove. Cô ta có kể cho họ câu chuyện cây thông Giáng sinh, chỉ cho họ cái vết đó. Vẫn là vết ố đó, Connie ạ - Lorraine sẵn sàng thề là như vậy. Phần còn lại của tấm thảm hoàn toàn không tì vết. Không có chút máu nào.” Anh ta chờ đợi tôi ngấm được câu chuyện. “Chị có hiểu tôi muốn nói gì không?”
“Anh muốn nói rằng như vậy nghĩa là không thể nào từng có máu trên tấm thảm được. Anh có chắc đúng là vậy không? Tôi từng giặt quần áo có vết máu trên đó rồi, và máu biến mất sạch.”
“Connie, em có cần phải...?” Kit cố làm tôi im miệng.
Tôi nói át lời anh. “Rất dễ để loại bỏ vết máu: nước lạnh, xà phòng...”
“Tin tôi đi, nếu ai đó đã mất máu tới chết trên một chiếc thảm màu be, chị sẽ phải thấy dấu vết,” Sam nói. “Dù có tốn bao nhiêu xà phòng và nước lạnh hay dùng bao nhiêu thuốc tẩy Vanish đi nữa.”
Tôi lùa tay qua mái tóc chưa chải của mình, cố cưỡng lại thôi thúc được nằm gục xuống sàn căng tin nhớp nháp, nhắm mắt lại và bỏ cuộc.
“Connie, khi chị thấy thi thể người phụ nữ, có phải vết ố nằm ở đó trong góc phòng, giống như trong tấm hình vừa rồi?” Sam hỏi. “Vết ố cây thông Giáng sinh ấy?”
“Tôi không biết nữa.” Không. Tôi không nghĩ là có. “Tôi không để ý, nhưng...” Tôi lật lại trí óc mình để tìm ra một lời giải thích hợp lý. “Có thể tấm ảnh người phụ nữ đã mất đó được chụp nhiều năm trước, trước khi ông Beater đặt cây thông Giáng sinh vào chỗ đó. Anh đã nghĩ đến chuyện ấy chưa?”
Sam gật đầu. “Chị có mô tả một tấm bản đồ trên tường - chị còn nhớ chứ?”
“Tất nhiên tôi nhớ. Tại sao lại không cơ chứ? Thứ Bảy chỉ mới là hai hôm trước thôi. Tôi chưa bị lẩm cẩm.”
Anh ta lấy ra một cuốn sổ tay từ túi áo, mở nó ra và bắt đầu đọc. “‘Comitatus Cantabrigiensis Vernacule Cambridgeshire, 1646. Jansson, Johannes.’ Còn được biết đến với cái tên Janssonius.” Anh nhìn lên. “Tôi đoán chị chưa từng nghe đến tên ông ta?”
“Ông ấy là một người bạn của gia đình Beater à?” Tôi nói cạnh khóe. Tôi không thể cưỡng lại được.
“Ông ta là một chuyên gia vẽ bản đồ người Hà Lan nổi tiếng. Chiếc bản đồ được đóng khung phía trên lò sưởi của Selina Gane là một phiên bản gốc của Janssonius, đáng giá cả một gia tài đấy. Lorraine Turner đã rất mê nó khi đến định giá nhà cho bác sĩ Gane. Ồ, và chị có nhắc tới những chiếc gia huy - chúng là huy hiệu của các trường đại học ở Cambridge: Trinity, trường St John’s...”
“Đừng quên trường tuyệt nhất,” Kit nói. “King’s”.
“Anh chưa có đủ dịp để khoác lác với những bầy tôi dễ thương của mình ở London à?” Tôi quát vào mặt anh. “Anh có nhất thiết phải biến chuyện này thành một lễ hội huênh hoang nữa không?”
“Tấm huy hiệu bị bỏ không như vậy một cách cố ý - để bất kỳ ai mua tấm bản đồ có thể lồng vào đó gia huy riêng của dòng họ mình,” Sam vẫn tiếp tục như thể tôi chưa từng chỉ trích dữ dội chồng mình vậy. “Bác sĩ Gane kể hết cho Lorraine về nó. Một trong những tài sản quý giá của cô ấy, điều hoàn toàn dễ hiểu. Có vẻ như đó là một món quà mừng tân gia từ bố mẹ khi cô ấy từ Dorchester, nơi ở trước kia, chuyển tới Cambridge.”
Cô ả may mắn thật. Có những người được tặng tấm bản đồ Hà Lan cổ, trong khi những người khác phải lĩnh tấm thảm thêu kinh khủng. Rõ ràng mẹ của Seline Gane có mắt thẩm mỹ tốt hơn mẹ tôi. Tôi phát khiếp lên được khi nghĩ đến chuyện gia huy nhà Monk trông sẽ như thế nào, nếu chúng tôi có một cái. Một bức tranh của căn bếp Thorrold House, nhiều thế hệ của những kẻ vô danh tỉnh lẻ bị trói buộc vào mặt cái lò nướng cũ tàn tạ.
Ánh mắt của Sam gặp mắt tôi. Tôi biết anh ta định hỏi gì.
“Connie, khi chị thấy xác người phụ nữ trên tour ảo, chị có thấy cái bản đồ không? Chị có thấy cả hai thứ trong căn phòng cùng một lúc, trong cùng bức hình?”
“Phải. Điều đó không chứng minh rằng tôi tưởng tượng ra xác người phụ nữ,” tôi nhanh chóng thêm vào, sợ rằng đúng là nó chứng minh được. Tôi cần thời gian để tìm ra điều đó có nghĩa là gì, mà không chịu sự giám sát của Kit và Sam.
“Phải thế không?” Sam nói. “Giả sử chị nói đúng, vậy bức hình của người phụ nữ đã chết đó được chụp lúc nào? Trước khi Selina Gane mua số 11 Bentley Grove? Vậy tấm bản đồ của cô ấy đang làm gì trên tường thế? Sau khi cô ấy mua ngôi nhà? Trong trường hợp đó, máu đáng ra phải làm hỏng tấm thảm và cô ấy - hay ai đó - sẽ phải thay nó đi. Và chúng ta đều biết, nhờ có Lorraine Turner, rằng chuyện đó chưa từng xảy ra, bởi vết ố từ cây thông Giáng sinh của gia đình Beater vẫn còn đó.”
“Thôi nào, Con, em không thể phản bác lại điều đó đâu,” Kit nói, nóng lòng muốn được đẩy nhanh mọi thứ.
“Em không thể ư?” Tôi có thể không? Một cách thuyết phục ấy? Tại sao tôi lại muốn làm thế, nhiều đến vậy? Tại sao tôi lại không vui vẻ nổi khi bị chứng minh là sai? “Anh có thể cắt tấm thảm ra, có thể thế,” tôi nói bằng giọng đều đều. “Nếu có một đường kẻ chạy ngang căn phòng, giữa một đầu tấm thảm màu be và đầu của một tấm thảm khác có màu y hệt, liệu Lorraine Turner có nhận ra không? Anh đã hỏi cô ấy chưa?”
“Thật nực cười,” Kit làu bàu. “Rồi em sẽ bảo nếu mà Selina Gane đặt một tấm thảm màu be khác lên trên tấm cũ, sát hại một ai đó, rồi bỏ tấm thảm ngập máu đi và thấy tấm bên dưới vẫn trong tình trạng hoàn hảo, hoàn toàn không bị bẩn một cách kỳ diệu thì sao.”
“Đó cũng là một định nghĩa cho sự nực cười, em đồng ý,” tôi dữ dội đáp trả anh. “Một cách khác là giả vờ như chuyện gì đó chưa từng xảy ra khi anh thừa biết là có - không chịu tin vào chính đôi mắt mình.” Tôi quay ra phía Sam. “Cảnh sát Cambridge có ý định làm gì?”
Gương mặt anh ta đã biểu lộ ra tất cả những gì tôi cần biết. Tôi mở miệng định phản đối, nhưng chẳng thể kiểm soát nổi những từ ngữ mà mình định dùng. Mọi thứ đều nhòe đi. Sam trở thành một đốm mờ nhạt màu hồng.
“Con?” Tôi nghe thấy Kit gọi. Giọng của anh nghe như thể vọng về từ bên kia thế giới. “Em cảm thấy chóng mặt à?”
Tâm trí tôi co rút lại, lơ lửng trôi thành từng mảnh nhỏ, nhiều phần trên cơ thể tôi tê liệt. Không thể nói được.
“Tôi lấy cho chị ấy cái gì để uống nhé?” ai đó nói - Sam, tôi nghĩ thế.
“Nước,” tôi cố nói.
Em phải để đầu mình giữa hai đầu gối - Kit luôn cố bắt tôi làm thế - nhưng tôi cảm thấy dễ chịu hơn nếu tôi thẳng lưng lên và không làm gì hết ngoài việc hít thở đều cho tới khi cảm giác đó qua đi. Alice nói rằng làm vậy cũng ổn. “Hãy lắng nghe cơ thể chị,” cô ta nói. “Nó đang nói cho chị biết nó cần gì.”
Dần dần, tôi cảm nhận được bản thân mình được gắn kết lại, như thể có ai đó đã khâu tôi lại lần nữa. Cảm ơn Chúa. Mỗi khi chuyện này xảy ra, tôi tự hỏi liệu mình có thể quay về như cũ được không. Khi thị lực của tôi rõ ràng trở lại, tôi thấy Sam đang xếp hàng ở trước ô cửa phục vụ.
“Sao anh ta không lấn hàng lên trước đi?” Kit nói. “Em cần nước khẩn thiết hơn là cái tay đầu bóng dầu kia cần đồ chiên rán.”
“Em không chắc nước có giúp được gì không,” tôi nói.
“Nếu Kombo-cái-gì-đó mời chúng ta nước ngay từ đầu, em đã ổn rồi. Trong này nóng bức ngột ngạt quá - có lẽ em bị mất nước. Gặp mặt ở căng tin làm gì khi em còn thậm chí chẳng được mời một ly nước?”
“Alice cho rằng tình trạng bị choáng váng mê mệt có liên quan đến căng thẳng,” tôi nói. Tôi đã bảo với anh việc này trước đây rồi.
“Tuyệt. Đấy là lỗi tại anh, nhỉ, như tất cả mọi việc khác.”
“Em không có ý đó.”
“Connie, nghe anh nói này.” Kit nắm lấy cả hai bàn tay tôi trong tay anh. “Đây là thời điểm bước ngoặt trong cuộc đời chúng ta. Hoặc nó có thể trở thành như vậy, nếu em để nó xảy ra.”
“Ý anh là nếu như em quên đi cái xác em nhìn thấy trên trang Roundthehouses - nếu em đồng ý vờ như em tưởng tượng ra nó.”
“Em thực sự đã tưởng tượng ra nó, em yêu. Thôi nào, em phải thấy rằng em không thể có hai thứ đối lập cùng một lúc được: nếu căng thẳng có thể khiến em lịm đi và bị choáng váng, nó cũng có thể làm em thấy những thứ không có thật vào một giờ sáng, chắc chắn rồi, khi em kiệt sức.”
Anh nói đúng.
“Tưởng tượng ra nhiều thứ không khiến em thành một kẻ quái dị đâu, Con. Em đang nói chuyện với người đàn ông từng tưởng tượng ra hàng tấn lá cỏ biến thành một con quái vật cỏ khổng lồ và tấn công bàn chân con quái vật đó đấy - nhớ không?”
“Lúc đó, anh đang say bí tỉ. Và đang phê thuốc.” Một cách miễn cường, tôi cười khi nhớ về kỷ niệm. Một vài tuần sau khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên, Kit đánh thức tôi dậy giữa đêm, khóc lóc và đòi tôi kiểm tra dây giày cho anh, khăng khăng rằng chúng đã bị tước hết sợi và thủng lỗ chỗ vì cuộc tấn công của quái vật cỏ. Tôi mất gần một tiếng đồng hồ để thuyết phục anh rằng chẳng có con quái vật nào và dây giày của anh vẫn còn nguyên vẹn. Sáng hôm sau, anh tuyên bố rằng cần sa chính là gốc rễ của mọi tệ nạn. Kể từ đó anh không đụng vào nó nữa.
“Em đã nói dối anh bấy nay,” tôi bảo anh. “Em đã tới Cambridge. Gần như mỗi thứ Sáu.” Tôi nhìn xuống chiếc bàn mi-ca màu trắng, ước gì mình có thể chìm vào đó và biến mất.
Kit không nói gì cả. Anh chắc là ghét tôi lắm.
“Em đi bằng xe lửa,” tôi nói, tha thiết muốn được tiếp tục lời thú tội mà mình đã bắt đầu. “Một vài lần đầu tiên em lái xe đến đó, nhưng rồi mẹ hỏi tại sao xe của em không đỗ ở lối vào ga-ra hai lần liền vào thứ Sáu, khi mà em đáng ra phải ở nhà làm việc. Em không thể nghĩ ra được phải nói gì, cho đến khi tự nhiên em bảo bà đừng có để tâm đến việc của người khác.”
“Cú đó hẳn là đau nhỉ.” Kit nói. Thật nhẹ nhõm, anh không có vẻ giận dữ.
“Sau đó, em quyết định đi xe lửa, lâu hơn gấp hai lần. Không có chuyến nào đi thẳng tới đó - anh phải đổi tàu ở nút giao King’s. Một lần, em... em về nhà chỉ ngay trước khi anh về. Chúng ta đều đi chuyến 17.10 từ London tới Rawndesley. Anh không thấy em, nhưng em thấy anh. Đó là chuyến đi đáng sợ nhất cuộc đời em. Em biết bản thân sẽ không thể nói dối - nếu anh phát hiện ra em, em sẽ phun hết tất cả mọi chuyện ra. Khi anh xuống ở Rawndesley, anh đang nói chuyện bằng chiếc BlackBerry của mình. Em lùi lại, chờ xem anh có ở lại trên sân ga để nói chuyện cho xong không. May cho em, anh không làm thế. Anh đi về phía khu đỗ xe. Ngay khi anh vừa đi, em chạy luôn ra dãy taxi. Em về đến nhà chỉ khoảng hai phút trước anh thôi. Một lần khác, em... “
“Connie.” Kit siết chặt tay tôi. “Anh không quan tâm đến thời gian biểu tàu chạy. Anh quan tâm đến em, đến chúng ta, và... chuyện này nghĩa là sao. Tại sao em lại tới Cambridge gần như mỗi thứ Sáu? Em làm gì khi tới đó?”
Tôi liều mình liếc thật nhanh vào anh, chẳng thấy gì ngoài nỗi đau buồn và khó hiểu. “Anh không đoán được ư? Em tìm anh.”
“Tìm anh? Nhưng anh ở London vào các ngày thứ Sáu. Em biết thế mà.”
“Đôi khi em ngồi trên băng ghế ở đường Trumpington phía cuối Bentley Grove và nhìn vào nhà số 11 hàng giờ đồng hồ, chờ đợi anh mở cửa trước.”
“Lạy Chúa tôi.” Kit lấy tay che mặt mình. “Anh biết chuyện khá tồi tệ. Anh chỉ không biết rằng nó tệ đến mức này.”
“Đôi khi em đứng ở đầu bên kia, sau một cái cây, chờ đợi anh lái xe ngang qua. Điều anh chẳng bao giờ làm. Đôi khi em lang thang quanh trung tâm thành phố, hy vọng bắt gặp anh đi cùng cô ả - trong một quán cà phê, hay đi bộ tới Bảo tàng Fitzwilliam.”
“Cô ả?” Kit nói. “Cô ả nào?”
“Selina Gane. Dù em mới phát hiện ra tên cô ả hôm nay, khi Sam bảo chúng ta. Đôi khi em đứng ở khu đỗ xe ở Addenbrooke’s và...” Tôi đột ngột dừng lại. Selina Gane, Selina Gane... Cổ họng tôi thắt chặt lại khi tôi liên hệ mọi thứ với nhau. Tại sao tôi mất nhiều thời gian đến thế? Ngay lập tức, tôi hối hận vì đã tin Kit, kể cho anh tất cả mọi điều tôi vừa mới nói. “Cho em xem nhật ký của anh.” Tôi nói.
“Gì cơ?”
“Đừng giả vờ như anh không mang nó ở đây. Anh luôn mang nó.”
“Anh sẽ không vờ vịt. Connie, chuyện gì vậy? Trông em như vừa nhìn thấy ma vậy.”
“Đưa nó cho em.” Tôi chìa tay ra.
Anh lấy quyển nhật ký ra khỏi túi, mặt đỏ bừng, và đưa nó cho tôi. Tôi lướt qua các trang. Tôi biết đó là tháng Năm, nhưng không nhớ được chính xác ngày nào. Đây rồi. Tôi mở rộng cuốn sổ trên bàn, để cả hai chúng tôi đều trông thấy bằng chứng rành rành. “Ngày 13/5/2010 - 3h chiều. SG.”
Kit rên rỉ. “Đấy là khám phá lớn lao của em đấy à? Bằng chứng rằng anh và Selina Gane chơi đồ hàng với nhau ở số 11 Bentley Grove sau lưng em? SG là Stephen Gilligan, một luật sư ở công ty Liên minh Tư bản London. Anh gặp ông ta lúc ba giờ chiều ngày 13 tháng Năm, tại văn phòng ở London. Gọi cho Joanne Biss, trợ lý riêng của ông ta đi, rồi hỏi cô ta.” Anh đưa tôi chiếc BlackBerry của mình. “Ngay bây giờ, để em thấy anh không có cơ hội nhờ cô ta nói dối cho mình.”
“Anh biết em sẽ không gọi cho ai hết.”
“Em không thể mạo hiểm để bị chứng minh là mình đã sai, đúng không?” Kit vươn người về phía tôi, buộc tôi phải nhìn anh. “Em thà bám vào mối nghi ngờ của mình, cái thế giới ảo tưởng em vừa xây dựng nên.”
“Em không hề dựng nên chuyện đã xảy ra vào tháng Một, và em không tưởng tượng ra xác người phụ nữ đó,” tôi nói trong run rẩy.
“Em đã xem hết nhật ký của anh rồi đấy. Nhật ký của tất cả những thứ khốn kiếp...” Kit bấu chặt lấy cánh tay tôi, kéo tôi về phía anh. Móng tay anh bấm sâu vào da thịt tôi. “Anh không biết bất cứ Selina Gane nào cả,” anh nói bằng một giọng thì thầm hung dữ. Anh không muốn bất kỳ ai để ý thấy cơn tức giận của mình - chỉ tôi thôi. “Anh chưa từng tới Cambridge kể từ lần cuối cùng anh tới đó cùng em, vào năm 2003. Anh chưa từng đặt chân vào bên trong ngôi nhà 11 Bentley Grove. Anh không sống cuộc sống hai mặt, Connie - anh đang sống trong một cuộc hôn nhân rất cô đơn, rất đau khổ với một người vợ mà anh gần như chẳng còn nhận ra là ai nữa.” Anh buông tôi ra khi nhìn thấy Sam quay trở lại với cốc nước cho tôi. Sau tất cả khoảng thời gian xếp hàng đằng đẵng và chỉ có một chiếc cốc nhỏ, đầy một nửa. Nếu như thế được tính là một cốc nước ở đây, tôi đáng ra nên gọi bảy cốc. Cổ họng tôi khô cháy, như thể tôi đã gào hét trong suốt một năm liền.
“Connie? Mọi chuyện ổn chứ?”
“Không,” Kit nói. “Mọi chuyện đã đi quá xa khỏi cái mức ổn. Tôi đi làm đây.”
Ngay khi anh đi rồi, ngay khi tôi đã trấn tĩnh được, tôi nói, “Chúng tôi vừa có một cuộc cãi lộn. Tôi đoán là tôi không cần phải kể cho anh chuyện đó. Dù sao thì, anh cũng là một thám tử mà.”
Sam gõ những ngón tay mình xuống mặt bàn, như thể anh ta đang chơi piano. “Sao chị lại không kể cho tôi nhỉ?” anh ta nói.
***
“Sao anh lại không kể cho tôi nhỉ?” Tôi ném lại câu hỏi vào mặt anh ta. “Anh đáng ra có thể kể cho tôi về vết ố trên tấm thảm qua điện thoại. Anh hẳn là bận bịu lắm, vậy mà anh lại ở đây - phung phí thời gian vào tôi và câu chuyện ngu ngốc của tôi. Tại sao?”
Sam trông như vừa bị bắt thóp. “Lorraine Turner có kể một chuyện làm tôi bận tâm,” anh nói.
Tôi vươn người về phía trước, tim đập dồn dập.
“Selina Gane không còn sống ở số 11 Bentley Grove nữa. Ngay sau khi chào bán ngôi nhà, cô ấy chuyển tới D..., à, tới một khách sạn gần đó.”
Tôi lên một danh sách trong đầu để tìm xem khách sạn nào ở Cambridge có tên bắt đầu bằng chữ D. Hoặc cũng có thể nó là “Du”. The Duchess? The Duxford? Không phải có một chỗ ở gần Cambridge tên là Duxford à?
“Sao lại có ai muốn làm vậy chứ?” tôi nói.
Sam nhìn đi chỗ khác. Cả hai chúng tôi đều nghĩ đến một điều, hay ít nhất tôi nghĩ là chúng tôi như thế. Anh ta không muốn là người nói ra điều ấy.
May sao, tôi không có sự dè dặt ấy. “Anh sẽ làm thế nếu biết rằng ai đó đã bị sát hại trong nhà anh. Hoặc chính anh đã sát hại người đó.”
“Đúng,” Sam đồng ý. “Tôi sẽ làm thế. Nhưng, Connie, chị phải hiểu rằng...”
“Tôi biết: điều đó chẳng chứng minh được gì cả. Cảnh sát Cambridge có biết không?”
“Tôi không chắc. Có thể không. Lorraine Turner vô tình nhắc chuyện đó với tôi khi chúng tôi đang nói chuyện về tấm bản đồ - cô ta rất lo về việc một thứ có giá trị như thế bị bỏ lại trong một ngôi nhà trống - một ngôi nhà không có người ở, ý tôi là thế. Hầu như mọi đồ đạc của bác sĩ Gane vẫn còn đó, Lorraine kể. Đồ nội thất, sách vở, đĩa CD...”
“Cô ta có nói cho Lorraine tại sao mình chuyển ra ngoài không?”
“Không. Và Lorraine không hỏi. Cô ta cảm thấy mình không có quyền ấy.”
Tôi nuốt một ngụm nước đầy. “Anh phải nói cho cảnh sát Cambridge biết,” tôi nói.
“Sẽ không khác gì đâu.”
“Nếu họ phân tích tấm thảm, họ có thể tìm thấy dấu hiệu của máu, hoặc DNA.”
“Họ sẽ không làm gì hết, Connie. Không có bằng chứng nào cả. Selina Gane chuyển ra khỏi nhà mình là việc lạ, tôi đồng ý, nhưng người ta vẫn hành xử lạ lùng suốt. Cái gã mà tôi đang phải làm việc cùng, thanh tra Grint - hắn hài lòng với những gì Lorraine bảo hắn.”
“Hắn là một tay thám tử vứt đi! Lorraine là người chụp những tấm hình cho tour ảo, phải không? Cô ta là người cuối cùng trên đời này có lời nói đáng tin. Anh đã đối chiếu với gia đình Beater hay Selina Gane chưa? Nếu câu chuyện về cây thông Giáng sinh là một lời bịa đặt thì sao?”
“Hãy lắng nghe những gì chị đang nói và nghĩ xem nó có nghĩa lý gì,” Sam nói. “Lorraine Turner hẳn phải là một ả sát nhân tâm thần, người giết hại những nạn nhân của mình trong ngôi nhà cô ta đang cố bán đi, rồi đăng những tấm hình chụp cái xác đó trên mạng. Điều đó nghe có hợp lý với chị không?”
“Tại sao lại là những nạn nhân, số nhiều? Có lẽ chỉ có một nạn nhân thôi: người phụ nữ tôi thấy. Và anh có thể nói thế về bất kỳ tội phạm nào, bằng cái tông giọng rõ là không tin ấy, để khiến mọi thứ nghe khó tin. ‘Gì cơ, vậy anh ta thủ tiêu tất cả các nạn nhân của mình bằng một bồn a-xít?’ ‘Gì cơ, vậy là hắn ta cắt nhỏ xác của những thanh niên và trữ chúng trong tủ đông?’”
“Chị có đọc nhiều về các vụ án diễn ra ngoài đời thật không?” Sam hỏi.
Tôi không thể nhịn cười. “Không đọc cái nào,” tôi bảo anh ta. “Tất cả mọi người đều biết những câu chuyện như vậy. Chúng là kiến thức phổ thông rồi. Anh có hàm ý gì, rằng tôi là một thể loại tâm thần khát máu bệnh hoạn? Thế nếu Lorraine Turner mới là kẻ bệnh hoạn, hay Selina Gane, hay tất cả bọn họ? Tại sao lại phải là tôi?”
Tại vì mày là cái người đang la hét váng lên trong một căng tin đầy người, đồ ngốc.
“Tôi đã trả lời câu hỏi của chị,” Sam đáp một cách bình thản. “Chị có định trả lời câu hỏi của tôi không?”
Sao anh ta biết được tôi đang giấu điều gì? Bởi vì tôi và Kit vừa có một cuộc cãi vã? Anh ta không thể nào nghe được chi tiết, lúc đó anh ta ở quá xa.
“Tôi đã nói chuyện với Alice Bean,” anh ta nói.
Tôi cố không để cơn giận dữ của mình lộ ra. Alice thuộc về tôi, đôi khi tôi cảm thấy cô ấy là tất cả những gì tôi có, người duy nhất tôi có thể tin là sẽ đặt lợi ích của tôi lên trước nhất. Sao Sam dám chĩa mũi vào cuộc đời tôi? Tại sao Alice không kể tôi nghe là cô đã nói chuyện với anh ta?
“Chị bảo tôi Alice khuyên chị liên lạc với Simon Waterhouse, nhưng chị chưa nói chuyện với cô ấy lúc sáng sớm thứ Bảy, đúng không? Chị chưa kể cho cô ấy chuyện nhìn thấy cái xác.”
“Tôi gặp cô ấy sau đó vào ngày thứ Bảy và có kể cho cô ấy.”
Sam chờ đợi.
“Anh nói đúng,” tôi nói. “Tôi chưa kể với cô ấy vào sáng thứ Bảy, khi tôi nói chuyện với anh.”
“Vậy hẳn là cô ấy gợi ý chị liên lạc cho Simon vì một chuyện khác.”
Tôi chẳng nói gì.
“Tôi rất muốn được nghe xem chuyện khác đó là gì.”
“Nó không hẳn là chuyện khác đâu. Ý tôi là, đúng thế, nhưng... nó có liên quan đến nhau. Số 11 Bentley Grove chính là sự liên kết.” Tôi hít một hơi thật sâu. “Anh có nhớ trận tuyết chúng ta phải chịu hồi tháng Một không?”
Sam gật. “Tôi đã lo là nó sẽ không bao giờ hết,” anh ta nói.
“Tôi đã nghĩ đó chính là khởi đầu của kỷ băng hà mới mà những nhà khoa học về biến đổi khí hậu vẫn dự đoán.”
“Vào hôm mùng sáu tháng Một, tôi tới Combingham để mua mười bao than. Kit rất thích lửa thật và chúng tôi hết nguyên liệu, và anh không đi được - anh ấy đang ở London. Nếu anh định hỏi tại sao tôi lại không tới ga-ra nào gần nhất, thì Kit không cho chúng tôi mua than từ bất cứ ai ngoại trừ Gummy ở Combingham. Đó không phải tên anh ta, nhưng mọi người gọi anh ta như thế. Tôi hơi sợ anh ta, và anh ta không mạnh về khoản khiến người ta nghe theo mình, nhưng Kit khăng khăng rằng than của anh ta là tốt nhất. Tôi không biết hoặc quan tâm đủ về than để tranh cãi với anh ấy.”
Sam đang mỉm cười, và anh ta không nên thế. Đây không phải chuyện vui.
“Tôi lấy xe của Kit vì nó chạy trong tuyết tốt hơn của tôi - nó là xe dẫn động bốn bánh. Tôi chưa từng tới chỗ Gummy trước đây, không phải đi một mình, và khả năng về phương hướng của tôi thì rất tệ, vậy nên tôi dùng định vị vệ tinh trên xe Kit.”
“Anh ấy không tới London, hôm đó?” Sam nói.
“Anh ấy chẳng bao giờ lái xe tới London. Thường thì anh đỗ xe ở ga Rawndesley, nhưng sáng sớm hôm đó đường quá trơn trượt để có thể lái xe đi bất cứ đâu, ngoại trừ đường lớn. Kit đi bộ cả quãng tới đường Rawndesley và bắt xe buýt tới ga.”
Tôi ước anh đã lái xe. Tôi ước xe của anh được đỗ ở bãi đỗ của sân ga thay vì nằm trước cửa nhà, trông có vẻ an toàn và thu hút hơn cái xe của tôi nhiều lần.
“Tôi mua than. Tôi cũng có thể tìm được đường về, nhưng tôi không muốn nhầm đường, nên tôi quyết định chọn phương án an toàn và dùng định vị vệ tinh một lần nữa. Tôi nhấn nút ‘Nhà’.” Tôi hít một hơi sâu. “Điều đầu tiên tôi để ý là thời gian lái xe: hai tiếng mười bảy phút. Rồi tôi để ý địa chỉ.”
Sam biết. Tôi có thể thấy trên vẻ mặt anh ta rằng anh ta biết.
“Theo như định vị vệ tinh của Kit nhận biết, ‘Nhà’ là số 11 Bentley Grove ở Cambridge. Không phải Melrose Cottage ở Little Holling, Silsford.” Tôi bắt đầu khóc, tôi không thể kiềm chế được. “Tôi xin lỗi. Tôi chỉ không thể... tôi không thể tin được sáu tháng sau tôi vẫn đang kể ra chuyện này mà không hiểu nổi nó nghĩa là sao.”
“Sao chị không kể với tôi chuyện này hồi sáng thứ Bảy?” Sam hỏi.
“Tôi không nghĩ anh sẽ tin chuyện cái xác người phụ nữ nếu tôi kể với anh mọi thứ. Nếu anh biết tôi vốn bị ám ảnh bởi số 11 Bentley Grove từ trước...”
“Chị như vậy thật sao?”
Phủ nhận điều đó có ích gì không? “Đúng vậy. Hoàn toàn bị ám ảnh.”
“Bởi Kit đã cài đặt nó trong phần mềm định vị vệ tinh là địa chỉ nhà?”
Tôi gật.
“Và chị muốn biết tại sao. Chị đã hỏi anh ấy chưa?”
“Ngay giây phút đầu tiên anh ấy bước vào cửa. Kit khẳng định mình không biết tôi đang nói về chuyện gì. Anh phủ nhận nó, hoàn toàn phủ nhận. Anh nói anh chưa từng cài vào bất kỳ địa chỉ nhà nào - không phải nhà chúng tôi, và không phải một địa chỉ ở Cambridge mà anh chưa từng nghe tới. Chúng tôi đã cãi nhau dữ dội - kéo dài hàng giờ liền. Tôi không tin anh ấy.”
“Có thể hiểu được,” Sam nói.
“Anh ấy đã mua về phần mềm định vị còn mới - còn ai khác có thể lập trình địa chỉ vào, ngoại trừ anh ấy? Tôi nói thế, và anh nói, ‘Dĩ nhiên là như vậy, đúng không? Hẳn là em làm thế rồi.’ Tôi không thể tin nổi. Sao tôi lại phải làm một việc như vậy? Và nếu tôi làm, sao tôi lại buộc tội anh ấy làm thế?”
“Cố gắng bình tĩnh đi, Connie.” Sam vươn tay ra, vỗ nhẹ cánh tay tôi. “Chị có muốn uống thêm cốc khác không?”
Tôi muốn một cuộc đời khác - bất kỳ cái nào trừ cuộc đời này, vấn đề của ai cũng được miễn chúng không phải của tôi.
“Nước, làm ơn,” tôi nói, lau mắt mình. “Lần này anh có thể bảo họ rót một cốc đầy tận miệng không?”
Anh ta quay lại vài phút sau với một ly cao đầy ắp nước. Tôi uống một ngụm to đến mức làm lồng ngực đau nhói.
“Có phải chị nghi ngờ Kit có một gia đình khác ở Cambridge?” Sam hỏi.
“Đó là điều đầu tiên nảy ra trong óc tôi, đúng vậy. Song thê.” Đây là lần đầu tiên tôi nói ra thành tiếng từ ấy. Kể cả với Alice, tôi chỉ ám chỉ nó. “Nghe có vẻ cường điệu hóa, nhưng chuyện đó có xảy ra, đúng không? Đàn ông thực sự có thể kết hôn với hai người cùng lúc.”
“Họ có thể,” Sam nói. “Một số người phụ nữ cũng vậy, tôi đoán thế. Chị đã nói chuyện với Kit về sự nghi ngờ của mình chưa?”
“Anh ấy phủ nhận điều đó - thẳng thừng phủ nhận mọi điều. Anh ấy đã phủ nhận nó suốt sáu tháng nay. Tôi không tin anh ấy, và đó lại là một chuyện nữa để tranh cãi - sự bất bình đẳng. Tôi không tin anh ấy nhiều như anh ấy tin tôi.”
“Vậy anh ấy tin khi chị nói chị không làm thế?”
“Anh ấy chuyển sang buộc tội gia đình tôi - mẹ tôi, Fran, Anton. Gợi nhớ cho tôi về tất cả những lần ai đó trong số họ lại gần khi thiết bị định vị của anh ấy nằm chơ hơ trong nhà.”
“Fran và Anton là ai?” Sam hỏi.
“Em gái tôi và bạn đời em ấy.”
“Kit có nói đúng không? Liệu có thể nào một thành viên trong gia đình chị đã lập trình địa chỉ đó?”
“Họ có thể, nhưng họ không làm thế. Tôi biết rõ gia đình mình như lòng bàn tay. Bố tôi sợ tất cả những thứ gì hiện đại và tân tiến - ông từ chối tiếp nhận sự tồn tại của iPod và sách điện tử - ngay cả đầu DVD cũng là quá sức của ông. Không đời nào ông lại gần một thứ như thiết bị định vị. Fran và Anton thì không đủ trí tưởng tượng hay đủ xấu xa. Mẹ tôi thì có thể sở hữu cả hai phẩm chất đó, nhưng... tin tôi đi, bà sẽ không cài một địa chỉ như thế vào thiết bị định vị của Kit.”
Bà thà nuốt phải lửa. Tôi từng thấy bà đông cứng lại và chuyển ngay chủ đề khi thứ gì đó có liên hệ tới Cambridge xuất hiện trong cuộc hội thoại: cuộc đua thuyền, Stephen Hawking và thuyết về hố đen của ông ta. Bà thậm chí còn không muốn tôi nghe về Oxford, hay bất cứ trường đại học nào, phòng trường hợp nó làm tôi nghĩ đến Cambridge. Lúc đầu tôi tưởng bà sợ sẽ khiến tôi buồn bực, nhưng rồi tôi nhận ra động cơ của bà ích kỷ hơn thế: bà muốn tôi quên đi rằng Cambridge tồn tại trên đời, quên rằng Kit và tôi từng có lúc nghĩ tới việc chuyển tới đó. Nỗi sợ hãi lớn nhất của bà là một ngày nào đó tôi sẽ rời khỏi Little Holling.
Nỗi sợ của tôi là tôi không thể rời đi được.
“Kit đã cài đặt địa chỉ đó,” tôi bảo Sam. “Phải là anh ấy. Đó là điều mà, dù sao đi nữa, tôi vẫn đang nghĩ. Là điều tôi đã nghĩ hàng ngàn lần, và rồi anh thuyết phục tôi lần nữa rằng anh không nói dối về bất cứ điều gì, và anh nói... rất thuyết phục. Tôi rất muốn tin anh ấy, tôi thành ra lại tự hỏi liệu có phải tôi đã làm vậy, rồi xóa ký ức đó khỏi tâm trí mình không. Có thể tôi đã làm. Làm sao tôi biết được? Biết đâu tôi đã cài đặt số 11 Bentley Grove vào định vị vệ tinh của Kit, và tự huyễn ra một thi thể không có ở đó. Biết đâu tôi là một kẻ tâm thần loạn trí nào đó.” Tôi nhún vai, đột nhiên cảm thấy xấu hổ bởi sự lạ lùng và thảm hại trong câu chuyện của tôi. “Đấy là cuộc đời của tôi kể từ tháng Một,” tôi nói. “Cứ xoay vòng: tin, không tin, nghi ngờ sự tỉnh táo của mình, chẳng đi đến đâu. Không mấy vui vẻ.”
“Với chị hay với Kit,” Sam nói. Có phải như thế nghĩa là anh ta tin rằng Kit đang nói thật không?
“Có lần anh ấy thậm chí còn cố nói rằng có lẽ một ai đó ở cửa hàng mà anh mua nó đã cài đặt địa chỉ đó vào.” Tôi nghĩ thế là xong rồi, nhưng tôi không thể để kệ như thế được. “Anh ấy muốn chúng tôi xuống cửa hàng cùng nhau, hỏi tất cả nhân viên.”
“Sao chị không đi?” Sam hỏi.
“Bởi vì thế thật vớ vẩn,” tôi nói đầy bực tức. “Tôi không sẵn sàng để anh ấy chơi đùa với mình. Tôi gần như đã đồng ý, nhưng rồi trong một khoảnh khắc mọi thứ trở nên rõ ràng với tôi. Tôi có những lúc như vậy, đôi khi, khi mà tôi bất chợt nhận ra rằng tôi chẳng cần phải hành hạ bản thân mình bằng việc quá suy tính, thắc mắc. Tôi biết sự thật: không phải ai ở cửa hàng, hay tôi, hay một người trong gia đình tôi. Đó là Kit. Tôi biết chính anh ấy đã làm thế.” Ngay khi ra khỏi đây, tôi sẽ gọi cho Ngân hàng Tư bản London và yêu cầu được nói chuyện với thư ký của Stephen Gilligan. Có thể ông ta có một cuộc hẹn với Kit lúc ba giờ chiều ngày mười ba tháng Năm, có thể là không. Tôi cần phải biết.
“Trong suốt sáu tháng, Kit đã luôn nói với chị rằng anh ấy không lập trình địa chỉ đó,” Sam nói. “Điều gì khiến chị chắc chắn là anh ấy làm thế đến vậy?”
Chắc chắn ư? Tôi tự hỏi anh ta đang nói về cái gì. Liệu tôi còn có thể cảm thấy chắc chắn về bất kỳ chuyện gì không?
“Ba điều,” tôi nói. Cảm giác kiệt quệ trào lên khắp cơ thể tôi, thật khó tập hợp được năng lượng để mà nói. “Một: đó là định vị vệ tinh của anh ấy. Anh ấy chẳng có lý do gì để nghĩ rằng tôi sẽ dùng đến nó, chẳng có lý do để cho rằng tôi sẽ tìm ra.” Tôi nhún vai. “Lời giải thích đơn giản nhất thường là đúng. Hai: khi tôi mới hỏi anh ấy về nó, trước khi anh có cơ hội sắp xếp cơ mặt của mình thành biểu cảm bối rối, tôi thấy một điều gì đó trong đôi mắt anh ấy, một điều gì đó... tôi không biết phải miêu tả nó như thế nào. Nó chỉ xuất hiện trong một phần của một giây: tội lỗi, xấu hổ, hổ thẹn, sợ hãi. Anh ấy trông như một kẻ vừa bị bắt quả tang. Nếu anh định hỏi tôi liệu có phải tôi đã tưởng tượng ra điều đó không, đôi khi tôi nghĩ là có, hẳn là vậy. Những lúc khác tôi lại chắc chắn mình không tự tưởng tượng ra.” Tôi muốn nói cho Sam biết thật đáng sợ làm sao khi dòng câu chuyện của cuộc đời mình đổi chiều, lảo đảo và tình thế thay đổi mỗi lần anh quan sát kỹ hơn, nhưng tôi không chắc liệu có bất kỳ từ ngữ nào có thể miêu tả nó cho chính xác. Thậm chí, liệu Sam có thể bắt đầu hiểu được cảm giác khi phải sống trong một thực tại thiếu ổn định đến thế? Anh ta gây cho tôi ấn tượng là một người đàn ông gắn bó chặt chẽ với một thế giới vững chắc, luôn giữ vững dáng hình và ý nghĩa của nó từ ngày này sang ngày khác.
Tôi cảm thấy như thể mình có hai cuộc đời: một cuộc đời được tạo dựng nên bởi hy vọng và một bởi nỗi sợ hãi. Và nếu như cả hai đều là những sản phẩm tự tạo, tại sao tôi lại nên tin vào bất kỳ cái nào trong đó? Tôi không biết những chuyện xảy ra trong đời tôi sẽ có dáng vẻ như thế nào nếu tôi lột bỏ hết những cảm xúc đan xen trong đó ra.
Tốt hơn hết đừng nên nói điều nào cho Sam. Chẳng cần phải kéo anh ta vào cuộc tranh luận về bản chất của hiện thực, tôi cũng đã gây đủ mối bận tâm cho anh ta rồi.
Chị suy nghĩ quá nhiều, Con. Fran đã nói với tôi như thế kể từ khi chúng tôi mới lớn.
“Điều thứ ba là gì?” Sam hỏi.
“Sao cơ?”
“Điều thứ ba khiến chị chắc chắn rằng Kit đã cài đặt địa chỉ đó.”
Tôi sẽ phải nói cho anh ta - lột bỏ thêm một lớp nữa, nhìn lại thậm chí còn xa hơn. Tôi phải làm thế, nếu tôi muốn anh ta hiểu. Mọi thứ đều có sự liên kết. Những gì xảy ra vào rạng sáng thứ Bảy không thể nào bị tách rời khỏi chuyện xảy ra vào tháng Một, chuyện xảy ra vào tháng Một có liên kết tới chuyện xảy ra năm 2003. Nếu tôi muốn Sam giúp đỡ, tôi phải sẵn lòng kể cho anh ta toàn bộ câu chuyện, cũng như tôi đã kể cho Simon Waterhouse.
“Cambridge,” tôi nói. “Tôi chắc chắn bởi số 11 Bentley Grove ở Cambridge.”