Tôi bắt đầu kể cho Sam Kombothekra về cuộc cãi vã đầu tiên của chúng tôi. Nó là về Cambridge. Lúc đó, chúng tôi mới thành đôi được gần một tháng.
Kit không có ý gây sự, anh chỉ cố khen ngợi tôi. Về cơ bản, có lẽ chính tôi là người bắt đầu trận cãi vã, dù lúc ấy tôi không cảm thấy như vậy. Chúng tôi đang đi bộ từ Thorrold House sang căn hộ hai phòng ngủ mà Kit thuê ở Rawndesley, chúng tôi vừa tới chỗ bố mẹ ăn trưa. Đó là lần thứ năm hay sáu Kit gặp gỡ gia đình tôi. Mất chín năm để anh có đủ can đảm hỏi xem liệu đôi khi anh có thể được miễn một vài cuộc viếng thăm một tuần mà anh nhận thấy do tôi yêu cầu.
Bố tôi, vì muốn gây ấn tượng với Kit, đã gợi ý khui một chai rượu vang đặc biệt mà hai năm trước ông được một khách hàng thân thiết của Monk & Sons tặng. Tôi chẳng biết gì về rượu vang, và bố cũng thế, nhưng vị khách hàng đã khiến ông tin rằng có điều gì đó đặc biệt về chai vang đó - có thể là nó rất lâu năm hoặc rất có giá trị hoặc cả hai. Cả bố và mẹ tôi đều không thể nhớ được chi tiết chính xác, nhưng bất cứ điều gì người khách nói cũng đủ gây ấn tượng rằng rất dại dột khi mở chai vang và uống nó ngay, nên thay vào đó họ đã ký gửi nó vào một chỗ an toàn - an toàn đến mức khi bố quyết định rằng sự xuất hiện của một anh con rể tương lai tốt nghiệp Oxbridge khéo ăn nói ở bàn ăn của ông là một dịp xứng đáng để giải phóng quyền năng huyền hoặc của chai vang cổ, cả bố và mẹ đều không nhớ nổi họ cất nó ở đâu. Kit cố gắng bảo họ rằng chuyện đó không quan trọng, rằng anh thích nước lọc hay nước ép táo hơn, bởi anh còn phải lái xe, nhưng bố khăng khăng phải tìm cho ra chai vang đặc biệt đó, có nghĩa là mẹ phải để thức ăn nguội lạnh trong khi nơi mẹ lục soát đầu tiên là hầm rượu và sau đó là cả ngôi nhà. Còn lại chúng tôi nghe theo lời bố và tiếp tục ăn. “Nếu như cháu không đánh chén trong khi đồ ăn vẫn còn nóng hổi, Val sẽ trừng phạt rất ghê đấy,” bố nói với Kit, người đang cảm thấy không thoải mái vì phải bắt đầu dùng bữa mà không có mẹ. Fran, Anton và tôi đã quen với chuyện đó. Bố thường quyết định rằng ông cần mẹ đi lấy cái gì đấy cho mình ngay khi bà chuẩn bị ngồi xuống ăn. Tôi nghĩ ông nhìn vào thức ăn trên đĩa của bà, hơi hoảng lên về việc sẽ mất bao lâu để bà lại có mặt bên cạnh, và quyết định rằng ông muốn sớm có thứ mình yêu cầu.
Trong khi dùng bữa, chúng tôi nghe tiếng thở hồng hộc rất lớn và một tràng những tiếng rên rỉ từ bên kia bếp, mẹ muốn chúng tôi biết chính xác chuyện tìm kiếm chai vang rẻ tiền thiêng liêng khiến bà vất vả thế nào. Tôi có thể thấy rằng Kit đang căng thẳng, cảm thấy mình có trách nhiệm dù cho anh không cần phải thế. Rồi mẹ kêu to, “Ôi, vì Chúa! Lại não làm bằng bịch bông rồi. Mẹ biết mình để nó ở đâu rồi.” Chúng tôi lắng nghe khi một cánh cửa kẽo kẹt mở ra. Đó là tiếng kẽo kẹt mà Fran và tôi biết rõ như chúng tôi biết về nhau vậy, nó đã là một phần của bản nhạc nền Thorrold House kể từ khi chúng tôi còn bé. Bố bật cười và bảo Kit, “Chạn bát đĩa dưới cầu thang - bác không biết tại sao bà ấy không tìm ở đó luôn từ đầu. Đó là nơi nếu là bác thì bác sẽ bắt đầu tìm. Quá rõ ràng.”
“Tiếc làm sao bố không chia sẻ tầm nhìn đó với mẹ,” Fran châm chọc. “Bố đã có thể tiết kiệm cho mẹ khoảng nửa tiếng của cuộc đời mẹ - cuộc đời duy nhất mẹ có.” Tôi vẫn còn nhớ mình đã thắc mắc có phải em tức giận vì bố xun xoe với Kit và lờ Anton đi, người không tốt nghiệp Oxbridge, người có bố mẹ sống tại một ngôi nhà lưu động trong chiếc xe moóc đặt ở ngoại ô của Combingham.
Vài giây sau, có tiếng huỵch và một tiếng hét chói tai. Chai vang đặc biệt không phải là tất cả những gì mẹ tìm thấy trong chạn bát dưới cầu thang. Chúng tôi chạy vội ra hành lang. Bà đang đang quỳ trên sàn, hai tay chống xuống đất, cúi xuống phía trên một chiếc hộp bìa. Bên trong là một đám bùi nhùi lổn nhổn màu đen, một vài chỗ còn cứng nhưng phần lớn đã hóa lỏng. Mùi từ nó thật choáng váng, làm tôi phải bịt miệng. “Cái gì thế?” Ông hỏi, cúi người xuống để nhặt cái chai thiêng liêng lên, cái mà, trong cơn sốc, mẹ đã làm rơi.
“Em nghĩ chắc là bắp cải,” bà nói. “Em nhớ từng bỏ một cái bắp cải vào đây cả năm rồi, trong một cái hộp...”
“Ừ thì, nó không còn là cái bắp cải nữa,” bố nói, dùng cùi chỏ huých vào mạng sườn Kit như thể muốn nói, “Lại một tập hài hước nữa trong bộ phim cuộc sống của nhà Monk!”
“Con sẽ vứt nó đi cho mẹ, Val,” Anton nói. Cậu ta đẩy mẹ sang một bên như một chuyên gia tháo gỡ bom mìn chuẩn bị vây hãm khu vực.
“Anton tới để giải cứu,” bố nói cho Kit, như thể sợ Kit không hiểu chuyện gì đang xảy ra, phụ đề có thể cần thiết. “Khi gặp khủng hoảng thì không ai tốt hơn cậu ta cả.”
“Phải đó,” Fran lầm bầm. “Khi nhắc đến chuyện đi vứt rau củ dập hỏng, không ai có thể bì được với anh ấy.”
Tôi nhìn sang Kit, khiếp sợ trước nỗi kinh tởm mà tôi chắc chắn rằng mình đã thấy trên mặt anh. Anh nhoẻn miệng cười với tôi và mở to mắt trong một tín hiệu bí mật, như thể muốn nói, “Chúng ta sẽ bàn về chuyện này sau.” Tôi mỉm cười với anh, thầm biết ơn bởi anh đã khiến tôi cảm thấy như là một người ngoài, không phải một phần của sự điên rồ Thorrold House. Không dính líu.
Tất cả chúng tôi đứng quan sát khi Anton mở cánh cửa trước và cầm chiếc hộp có chứa thứ trước đây là bắp cải ra ngoài. “Phải rồi.” Bố vỗ tay vào nhau. “Quay trở lại với việc quan trọng thôi nào: đồ ăn và rượu vang.”
Chúng tôi ăn món lagsana lạnh ngắt - mà bố vẫn khăng khăng là nó còn “nóng hổi”, còn mẹ thì cứ đe dọa sẽ làm nóng lại nó trong lò vi sóng - và uống rượu vang, ngon nhưng không có gì đặc sắc, và rồi uống thêm một ít rượu vang thường khi thứ rượu cường điệu quá đà đã cạn hết. Bố mắng mẹ vì đã làm rơi chai rượu trên thảm, dù có hay không thứ bắp cải mục rữa kia, bởi “nó có thể dễ dàng bị vỡ,” dù rằng nó chưa vỡ. Kit hết lần này đến lần khác cố ngăn bố không rót đầy thêm ly, bố làm tôi và Fran phát chán và làm Kit sốc khi bày tỏ quan điểm về chuyện uống rượu và lái xe: “Theo như bác được biết, nếu cháu không thể lái xe một cách cẩn trọng khi đã uống vài ly, cháu hoàn toàn không được phép lái xe. Một người lái xe giỏi là một người lái xe giỏi, dù đang say hay tỉnh.”
Và rồi, chẳng đúng thời điểm gì hết, mẹ òa lên khóc và chạy khỏi phòng. Chúng tôi kinh ngạc nghe tiếng bà sụt sịt khi bà chạy lên tầng. Bố quay sang Fran. “Có chuyện gì với bà ấy vậy? Quá nhiều rượu vang, con có nghĩ thế không?”
“Chịu,” Fran nói. “Sao bố không bắt mẹ lái xe vòng theo đường đua A1 vài tiếng đồng hồ đi? Nếu mẹ đâm vào đâu đấy, mẹ đang bực bội. Nếu mẹ không, thì tức là không phải. Hay là ngược lại, theo như bố?”
“Lên kiểm tra xem mẹ thế nào đi”, bố nói. “Một trong số các con. Connie?”
Tôi nhìn chằm chằm xuống đĩa của mình, kiên quyết lờ ông đi. Fran thở dài và đi tìm mẹ.
Bố nói, “Chúng ta sẽ uống một tách trà thật ngon trong một phút nữa, cùng bánh pudding táo kèm với vụn cây đại hoàng, bố nghĩ là như vậy.” Ý ông là chúng tôi sẽ được cả hai nếu mẹ xuống nhà. Tôi cố kiềm chế cảm giác muốn được nói với Kit, “Bố em có thể nịnh nọt anh hết cỡ và ép anh phải uống thứ rượu ngon nhất, nhưng ông sẽ không bao giờ, không bao giờ pha cho anh một tách trà, dù anh có ngồi ở bàn căn bếp suốt bao nhiêu năm đi nữa, bất kể anh có khát đến mức nào.”
Vào lúc đó, một cảm giác như là nỗi tàn nhẫn đánh vào tôi: biết và yêu thương một người - chính con gái mình - nhưng lại không bao giờ mời chúng một tách trà hay cà phê trong ba mươi tư năm, trừ phi chắc chắn rằng ai đó sẽ pha hộ.
Fran xuất hiện trở lại, trông có vẻ bực tức. “Mẹ nói sẽ xuống trong một phút nữa. Mẹ uất ức vì chuyện cái bắp cải.”
“Tại sao chứ, vì Chúa lòng lành?” Bố mất kiên nhẫn.
Fran nhún vai. “Con không thể khiến mẹ nói ra được gì nhiều. Nếu bố muốn thêm thông tin, hãy tự đi hỏi mẹ ấy.”
Một vài phút sau, mẹ lướt vào bếp với một lớp trang điểm mới và bắt đầu trò chuyện với một niềm vui thất thường về bánh hấp và bánh sữa trứng. Chiếc bắp cải thối rữa không được nhắc tới nữa.
Hai tiếng sau, món tráng miệng đã xong xuôi và trà đã dùng, chúng tôi mới có thể đào thoát. Một cách ngoại giao hết cỡ, Kit đánh chặn những nỗ lực của bố nhằm ép anh lái xe về nhà sau bốn ly rượu vang lớn. Anh để xe của mình bên ngoài Thorrold House - anh hoàn toàn đồng ý với bố về chuyện uống rượu - lái xe, tất nhiên anh đồng ý, nhưng còn phải suy xét đến những tay cảnh sát giao thông hủ lậu ngoài kia - và chúng tôi đi bộ về Rawndesley, mất một tiếng rưỡi. Chúng tôi gần như không để ý đến thời gian, cả hai còn bận rộn bàn tán về gia đình tôi.
“Fran cứ tỏ ra thù địch với bố em, và ông thì chẳng phản ứng lại chút nào,” Kit nói, tươi vui và tràn đầy sức sống khi giờ đây chúng tôi được tự do. “Ông còn chẳng buồn để ý. Thật là hài hước. Con bé thì giống Culver Dorothy Parker ở Culver Valley. Nếu anh mà nói chuyện với bố mình như thế, dù chỉ một lần, ông sẽ gạch tên anh ra khỏi di chúc.” Kit vẫn giữ mối quan hệ chừng mực với bố mẹ vào thời điểm đó.
“Dorothy Parker là ai?” Tôi hỏi.
Kit cười, anh rõ ràng cho rằng tôi đang đùa.
“Không, thật đấy,” tôi nói. “Cô ta là ai?”
“Một người hài hước nổi tiếng,” Kit nói. “‘Khi nhắc đến chuyện đi vứt rau củ dập hỏng, không ai có thể bì được anh ấy.’ Đó đúng là những từ ngữ mà Dorothy Parker sẽ dùng, anh nghĩ vậy. Bố em không hiểu gì cả - rằng Fran đang giễu cợt ông vì xúc phạm Anton bằng lời khen tặng vô vị nhất của vô vị: ‘Khi gặp khủng hoảng thì không ai tốt hơn cậu ta cả.’ Đúng thế, miễn tất cả những gì cần để giải quyết khủng hoảng là một ai đó mang đồ ăn thối hỏng vứt vào thùng rác. Đó là dịp duy nhất bố em công nhận sự tồn tại của Anton trong suốt cả buổi chiều, ông quá bận rộn với việc làm thân với anh. Chẳng lạ gì khi Fran tức giận.”
“Em rất tiếc về chuyện cái bắp cải bốc mùi,” tôi trịnh trọng nói, và cả hai chúng tôi đều phá lên cười. Đó là một ngày tháng Hai lạnh lẽo - đêm dần buông - và trời thì bắt đầu mưa, điều này khiến chúng tôi cười còn to hơn nữa: nhờ có bố và món rượu vang đặc biệt, chúng tôi chuẩn bị ướt như chuột lội.
“Lý do vì sao mẹ em khó chịu vì người nghệ sĩ lúc trước được biết đến với danh xưng bắp cải vô cùng hiển nhiên,” Kit nói, cố giữ vẻ mặt nghiêm túc.
“Bà không thể chịu đựng bất kỳ thể loại phung phí nào,” tôi bảo anh. “Đó là hai mươi xu đáng ra bà có thể tiết kiệm được trong năm ngoái.”
“Bà cảm thấy hổ thẹn vì chuyện đó đã xảy ra trước mặt anh. Giá như bà cứ nói ra, anh có thể đảm bảo lại với bà rằng anh không hề quan tâm tí nào. Thật không giống anh chút nào khi nghĩ xấu về một người để rau củ thối hỏng chảy nhão ra trong một cái...” Anh không nói thêm được nữa, anh đang cười quá nhiều.
Khi chúng tôi đã bình tĩnh lại, tôi nói, “Không phải thế đâu, điều anh vừa nói ấy. Đúng, mẹ chắc là đã cảm thấy xấu hổ, nhưng đấy không phải lý do cho phản ứng kỳ cục của bà. Vẻ ngoài là hết sức quan trọng với mẹ, nhưng sự kiểm soát mới là vị Chúa tối cao của bà. Bà cố gắng rất vất vả để kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc đời mình và của thế giới, và thường thì bà thành công. Thời gian dừng lại vì bà, và thế giới co lại tương đương kích cỡ của căn bếp Thorrold House, dòng năng lượng vũ trụ dừng lại trên đường đi của nó - nó biết rằng tốt hơn hết là không nên bất tuân Val Monk. Và rồi bà tìm thấy một chiếc bắp cải đã ở đó nhiều tháng trời, nếu không nói là nhiều năm trời - thứ mà bà không hề hay biết sự tồn tại của nó, đã thối rữa, bốc mùi và chuyển màu đen xì, mà bà không hề hay biết gì. Và rồi nó không hẹn mà tự động xuất hiện vào một buổi chiều bà có khách. Bà cố bỏ qua và vờ như nó không làm bà bận tâm, nhưng bà không thể vượt qua được. Cái bắp cải là bằng chứng bà không thể lờ đi - bằng chứng rằng bà không hề nắm quyền kiểm soát. Thế lực của cái chết và sự bại hoại đang diễu hành, chúng chính là những kẻ điều hành cuộc trình diễn. Chúng cư ngụ bên trong thành trì, và ngay cả bà mẹ luôn sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy của em, với cuốn sổ ‘thực đơn trong tuần’ và cuốn lịch được điền tỉ mỉ những ngày sinh nhật của bà, cũng không thể xua đuổi được chúng.”
Kit nhìn chằm chằm vào tôi. Anh không còn cười nữa.
“Xin lỗi,” tôi nói. “Khi em uống quá nhiều, em nói cũng quá nhiều.”
“Anh có thể nghe em nói như vậy cả đời cũng được,” anh nói.
“Thật chứ? Nếu vậy thì, anh đã nghĩ sai về Fran rồi.”
“Em ấy không phải bản sao của Dorothy Parker ở Culver Valley ư?”
“Không phải em ấy tấn công bố đâu, dù nếu em hỏi, có thể em ấy sẽ vờ như mình đang làm thế thật. Em ấy mới là người hạ thấp Anton bằng những lời khen vô vị. Em ấy yêu cậu ta, đừng hiểu lầm ý em, nhưng em nghĩ đôi khi em ấy ước rằng cậu ta... em không biết nữa, hữu ích hơn chút.”
“Sao em không đi học đại học?” Kit hỏi tôi.
Sự thay đổi chủ đề đột ngột làm tôi ngạc nhiên. “Em đã bảo với anh rồi: không có bạn bè nào của em đi học đại học cả, và bố mẹ đã dành cho em một công việc được trả lương khá tốt tại cửa hàng.”
“Em vô cùng thông minh và sâu sắc, Connie. Em có thể làm nhiều việc tuyệt vời hơn là kế toán của bố mẹ nếu em muốn. Em có thể tiến được xa - rất xa. Xa hơn Little Holling, Silsford.” Anh dừng bước và khiến tôi cũng dừng lại. Nó khiến tôi có cảm giác lãng mạn vô bờ rằng anh sẵn sàng giữ chúng tôi bất động trong mưa để nói cho tôi biết tôi thông minh và tràn đầy tiềm năng đến thế nào.
“Các thầy cô ở trường em đã tha thiết đề nghị em nghĩ đến chuyện học đại học, nhưng... em cảm thấy nghi ngờ. Đến giờ em vẫn thấy thế. Tại sao lại phải dành ra ba năm để bị những người nghĩ rằng họ hiểu biết hơn ép buộc anh đọc một số lượng sách nhất định, khi anh có thể tự chọn ra thứ anh muốn đọc và tự trau dồi kiến thức cho mình mà không cần sự giúp đỡ của bất kỳ ai cả - và không cần phải trả tiền cho việc đó?”
Kit vuốt một giọt nước mưa khỏi gương mặt tôi. “Đó chính xác là kiểu suy nghĩ anh đoán mình sẽ gặp ở một người mà nền tảng giáo dục bị đứt đoạn một cách vội vã ở tuổi mười tám.”
“Mười sáu,” tôi bảo anh. “Em còn chưa học bằng A.”
“Quỷ thần ơi,” anh nói. “Tiếp theo đây em chắc sẽ bảo anh em được nuôi dạy bởi chó sói.”
“Anh có biết bao nhiêu cuốn sách em đã đọc năm qua không? Một trăm linh hai. Em viết tất cả chúng vào một quyển sổ nhỏ...”
“Em nên đi học đại học,” Kit nói át lời tôi. “Ngay bây giờ, với tư cách một sinh viên trưởng thành. Connie, em sẽ yêu việc học đại học, anh biết em sẽ thế. Cambridge là điều tuyệt vời nhất từng xảy đến với anh - không còn nghi ngờ gì nữa, ba năm tuyệt vời nhất trong cuộc đời anh. Anh...” Anh dừng lại.
“Cái gì? Kit?”
Tôi nhận thấy anh không còn nhìn vào tôi nữa. Anh đang nhìn qua tôi, hay xuyên qua tôi, đang nhìn vào một khoảng thời gian khác, một nơi chốn khác. Anh quay đi khỏi tôi, như thể anh không muốn sự hiện diện của tôi xen vào bất kỳ thứ gì anh đang hồi tưởng. Rồi anh hẳn là nhận ra mình vừa làm gì, bởi anh cố gắng một cách có tính toán nhằm kéo bản thân quay về. Tôi thấy cái nhìn ấy trong đôi mắt anh, cùng một ánh mắt tôi thấy mười năm sau, vào tháng Một, khi tôi hỏi anh tại sao số 11 Bentley Grove được lập trình vào định vị vệ tinh của anh là địa chỉ nhà: tội lỗi, sợ hãi, hổ thẹn. Anh đã bị bắt quả tang. Anh cố buông một câu đùa. “Điều tuyệt vời thứ hai từng xảy đến với anh,” anh nói nhanh, mặt đỏ lên. “Em mới là điều tuyệt vời nhất, Con.”
“Cô ta là ai?” Tôi hỏi.
“Không ai cả. Đó không phải là... Không ai hết.”
“Anh không có bạn gái lúc học đại học ư?”
“Anh có rất nhiều, nhưng không ai đặc biệt cả.”
Tuần lễ trước đó, tôi đã hỏi xem anh từng yêu bao nhiều người trước tôi rồi, và anh tránh né câu hỏi, nói những câu kiểu như, “Ý em khi nói đến yêu là gì?” và “Em đang nói đến tình yêu kiểu nào?”, trong khi mắt anh đảo quanh phòng và chối từ nhìn vào mắt tôi.
“Kit, em đã thấy gương mặt anh khi anh nói Cambridge là ba năm đẹp đẽ nhất của cuộc đời anh. Anh đang hồi tưởng lại chuyện tình yêu.”
“Không, anh không hề.”
Tôi biết anh đang nói dối, hoặc tôi nghĩ mình biết. Có thứ gì đó trong tôi sầm tối lại và dồn nén, tôi quyết định trở thành con khốn mà mình có thể dễ dàng biến thành khi tôi cảm thấy khốn khổ. “Vậy là anh đang nghĩ về những bài giảng và hướng dẫn, phải không, với biểu cảm bâng khuâng tiếc nuối trên gương mặt? Đang mơ về những ghi chú bài luận ư?”
“Connie, em đang cư xử buồn cười đấy.”
“Cô ta là giảng viên của anh à? Vợ của giảng viên của anh? Vợ của hiệu trưởng trường đại học?”
Kit cứ phủ nhận và phủ nhận. Tôi vẫn cứ tiếp tục cuộc khảo cung suốt quãng đường trở về căn hộ của anh - đó là một người đàn ông à? Liệu có phải ai đó chưa đủ tuổi không: cô con gái chưa-đầy- mười-sáu-tuổi của ông hiệu trưởng trường đại học? Tôi từ chối nằm chung giường với Kit đêm đó, ném ra một cơn thịnh nộ vô lý và một lời đe dọa chấm dứt mối quan hệ của chúng tôi trừ phi anh chịu nói thật. Rồi, thấy rằng anh không có ý định ấy, tôi đành hạ mức độ đe dọa xuống: anh không nhất thiết phải nói sự thật, nhưng phải thừa nhận rằng có một điều gì đó anh không muốn kể với tôi, để chắc chắn lại rằng tôi không điên rồ và không tưởng tượng ra những cảm xúc mãnh liệt tôi đã thấy trong mắt anh, hay cảm giác tội lỗi. Cuối cùng, anh thừa nhận rằng có thể trông anh có chút bẽn lẽn, nhưng đó chỉ là cảm giác tức giận với bản thân vì đã quá ngu ngốc, đến mức làm cho tôi có cái ấn tượng - là sai lầm, anh đảm bảo với tôi - rằng việc học đại học của anh đối với anh còn quan trọng hơn cả tôi.
Tôi muốn tin anh. Tôi quyết định tin anh.
Lần tiếp theo chủ đề về Cambridge nảy sinh giữa chúng tôi là vào năm 2003, ba năm sau. Tôi đã chuyển hẳn tới căn hộ Rawndesley của Kit lúc đó, và mẹ đã bắt đầu thích thú với việc líu lo, “Xin chào, người lạ,” khi tôi xuất hiện vào mỗi sáng để làm việc. Tôi lờ bà đi, và để phần phản đối lại cho Fran: “Vì Chúa, mẹ! Rawndesley cách đây hai mươi lăm phút đi xe. Ngày nào mẹ chẳng gặp Connie.”
Suốt cuộc đời, tôi đã cho rằng gia đình mình bị tê liệt bởi một chứng bệnh mà không ai khác chịu ảnh hưởng, triệu chứng chính của nó là tầm nhìn vô cùng hạn hẹp. Và rồi một ngày, khi Kit và tôi đang trên đường ra ngoài đi ăn và chúng tôi chạm mặt một vài người hàng xóm, một cặp đôi sống trong căn hộ cạnh chúng tôi, Guy và Melanie. Lúc đó, Kit làm việc với Guy ở Deloitte, chính Guy là người đã cho anh biết có một căn hộ dành cho hai người cho thuê ở tòa nhà anh ta ở với cảnh nhìn ra sông rất đẹp. Trong khi hai người đàn ông nói chuyện công việc, Melanie nhìn tôi từ trên xuống dưới và chất vấn tôi: tôi làm nghề gì, có phải tóc tôi tự nhiên đã tối màu như thế, tôi đến từ đâu? Khi tôi nói là Little Holling ở Silsford, cô ta gật gù như thể mình vừa được chứng minh là đúng. “Nghe giọng chị là tôi biết chị không phải là người ở quanh đây,” cô ta nói.
Sau đó, ở Isola Bella, nơi tốt hơn trong hai nhà hàng đồ Ý của Rawndesley, tôi kể cho Kit nghe là lời nhận xét của Melanie đã làm mình phiền muộn. “Tại sao Silsford lại không được tính là ‘quanh đây’ trong khi anh đang ở Rawndesley?” Tôi phàn nàn. “Người dân ở Culver Valley thật là hẹp hòi. Em cứ nghĩ chỉ có bố mẹ em là như thế, hóa ra không phải. Kể cả ở Rawndesley, nơi đáng ra là một thành phố...”
“Nó là một thành phố mà,” Kit phản bác.
“Không phải một thành phố đúng nghĩa. Nó không sôi động và náo nhiệt, như London. Nó chẳng có... không khí. Hầu hết những người sống ở đây không lựa chọn nó. Hoặc là họ sinh ra ở đây và không giàu trí tưởng tượng đủ để rời đi, hoặc họ giống em - sinh ra và lớn lên ở Spilling hay Silsford, bị bao bọc và cô lập tới mức cái viễn cảnh chuyển đi ba mươi dặm xuống dưới khu thành phố là Rawndesley cũng có cảm giác thú vị như thể chuyển tới Manhattan, hay đại loại thế - cho tới khi anh đến đó. Hay người ta chuyển tới đây bởi vì họ không có sự lựa chọn nào cả, bởi vì họ có công việc mà...”
“Giống như anh, ý em là vậy?” Kit nhe răng cười.
Lạ lùng thay, tôi còn chưa nghĩ tới anh. “Tại sao anh lại tới đây?” Tôi hỏi anh. “Từ Cambridge, trong số tất cả mọi nơi - em cá rằng đó là một thành phố sôi nổi, náo nhiệt.” Đó là lần đầu tiên Cambridge được một trong hai chúng tôi nhắc tới kể từ trận cãi nhau to dạo nọ.
“Đúng thế,” Kit nói. “Đó cũng là một thành phố xinh đẹp nữa, không như Rawndesley.”
“Vậy sao anh lại rời bỏ nó và chuyển tới Culver Valley ngột ngạt?”
“Nếu anh không tới đây, anh đã không được gặp em,” Kit nói. “Connie, có một việc anh cần hỏi em. Đó là lý do vì sao anh gợi ý mình đi ăn ở bên ngoài.”
Tôi ngồi thẳng lên. “Em có đồng ý lấy anh không? Có phải thế không?” Trông tôi hẳn là hào hứng lắm.
“Không phải thế, không, nhưng vì em đã nhắc tới... em đồng ý chứ?”
“Để em nghĩ về việc này. Được rồi, em đã suy nghĩ rồi. Em đồng ý.”
“Tuyệt vời.” Kit gật đầu, nhăn trán.
“Trông anh có vẻ lo lắng,” tôi nói. “Anh đáng ra trông phải tràn ngập hạnh phúc, đắm đuối trong tình yêu.”
“Anh đang tràn ngập hạnh phúc vì tình yêu.” Anh mỉm cười, nhưng trong đáy mắt có bóng tối. “Anh cũng lo lắng nữa. Đó là một sự trùng hợp quá lớn, nhưng anh phải nói chuyện với em về công việc của anh và... à thì, về Cambridge.”
Tôi nín thở, nghĩ rằng anh đã đủ tin tưởng để chuẩn bị bộc bạch với tôi câu chuyện mà anh từ chối kể ba năm trước. Thay vào đó, anh bắt đầu nói chuyện về Deloitte, kể với tôi rằng có một cơ hội cho anh dẫn đầu một nhóm mới ở chi nhánh Cambridge, làm những công việc mới mẻ thú vị, rằng tương lai sẽ tươi sáng đến thế nào nếu anh đồng ý. Tim tôi bắt đầu đập dồn dập. Những từ ngữ của Kit tuôn ra mỗi lúc một nhanh hơn, tôi không thể tiếp thu hết các chi tiết, và một vài điều anh nói tôi không hiểu được nghĩa - những cụm từ như kiểu “làm việc trực tiếp với khách hàng” và “tỷ lệ hạt” - nhưng tôi nắm được đại ý. Công ty của Kit muốn anh chuyển tới Cambridge, điều đó có nghĩa là tôi, người vừa mới đồng ý lời cầu hôn của anh, dù cho có vẻ như tôi tự cầu hôn chính mình, có một cơ hội trốn thoát khỏi gia đình mình và Culver Valley.
“Anh phải đồng ý,” tôi rít lên với Kit khi người phục vụ bàn tới cùng món bánh tiramisu của chúng tôi. “Chúng mình phải thoát khỏi đây. Họ hỏi anh lúc nào thế?”
“Hai ngày trước.”
“Hai ngày? Anh đáng ra phải nói với em ngay. Nhỡ họ đổi ý thì sao?”
Kit đặt bàn tay mình lên tay tôi. “Họ sẽ không đổi ý đâu, Con.”
“Làm sao anh biết được?” Tôi gặng hỏi, cảm thấy hoảng sợ.
“Họ là một trong những công ty về kế toán hàng đầu Vương quốc Anh, không phải một đám những đứa trẻ vị thành niên bốc đồng. Họ đã đưa ra lời mời của mình - một lời chào mời siêu hào phóng - và bây giờ họ đang chờ đợi câu trả lời từ anh.”
“Gọi cho họ ngay đi,” tôi ra lệnh.
“Ngay bây giờ? Đã chín giờ mười lăm rồi.”
“Sao cơ, họ sẽ đi ngủ à? Tất nhiên là không rồi! Nếu em là một trong những doanh nghiệp kế toán hoạt động trực tiếp với khách hàng dẫn đầu Vương quốc Anh, em sẽ thức đến mười rưỡi để xem chương trình Thời sự đêm.”
“Con, chậm lại nào,” Kit nói, cảm thấy kinh ngạc vì sự tuyệt vọng của tôi. “Em không muốn nghĩ về việc đó trước ư? Dành ra một chút thời gian, suy xét cẩn thận?”
“Không. Tại sao chứ, anh sẽ suy nghĩ à?” Nếu Kit không muốn chuyển đi thì sao? Anh đã sống ở vài nơi khác nhau rồi: anh sinh ra ở Birmingham, rồi chuyển tới Swindon khi anh lên mười, tới Bracknell năm mười lăm tuổi. Rồi tới Cambridge học đại học, rồi Rawndesley. Anh không bị mắc kẹt như tôi, anh không nhất thiết phải chia sẻ khao khát được thoát ra của tôi.
“Công việc đó là một bước tiến, không nghi ngờ gì cả,” anh nói. “Và em nói đúng, Cambridge là một thành phố rất tuyệt. Và Rawndesley... thì không. Nhưng... em có chắc không, Con? Anh gần như còn không buồn nhắc đến nó. Hôm qua, anh đã suýt từ chối nó mà không hỏi ý kiến em. Anh không nghĩ em sẽ sẵn lòng rời bỏ gia đình mình, tất cả mọi người đều rất...”
“Phụ thuộc vào nhau một cách không lành mạnh?” Tôi gợi ý.
“Thế còn công việc của em thì sao?” Kit hỏi.
“Em sẽ kiếm một việc khác. Em sẽ làm bất kỳ việc gì - cắt cỏ, lao công. Hỏi Deloitte xem họ có cần người dọn dẹp không.”
Khi chúng tôi rời khỏi nhà hàng, Rawsndesley đã như thể một nơi chúng tôi từng sống. Chúng tôi là những bóng ma, vất vưởng ở cuộc đời xưa cũ, nuôi sống hy vọng cho một cuộc đời mới.
Tôi kể cho bố mẹ, Fran và Anton ngày hôm sau. Tôi đã sợ rằng họ sẽ tìm ra cách nào đó để ngăn tôi, dù cho Kit đã cố hết sức để đảm bảo với tôi rằng việc này là không thể, rằng tôi hoàn toàn có thể tự quyết.
Một sự im lặng kéo dài sau lời thông báo của tôi. Tôi nhìn gương mặt của bố mẹ sắp xếp lại biểu cảm sau cơn sốc, cảm thấy như tôi vừa đổ xuống bảy tấn gạch vụn tinh thần vô hình vào giữa căn phòng và đè ngạt tất cả những người có mặt ở đó.
Fran là người đầu tiên phản hồi. “Cambridge? Chị chưa bao giờ đến đó cả. Có thể chị sẽ ghét nó.”
“Đó là kế hoạch ngớ ngẩn nhất bố từng được nghe,” bố nói một cách phũ phàng, lắc mạnh tờ báo của ông như muốn rũ những lời nói của tôi đi. “Cứ nghĩ xem sẽ mất bao lâu để con lái xe đi làm mỗi buổi sáng. Hai tiếng đồng hồ một chiều là ít nhất.”
Tôi giải thích rằng mình sẽ rời khỏi Monk & Sons, rằng Kit và tôi đã lên kế hoạch làm đám cưới, rằng Deloitte đã đưa ra cho anh một đề nghị mà có điên mới từ chối. Mẹ có vẻ thực sự sốc. “Nhưng Kit có một công việc ở đây,” bà nói, giọng run run. Bỗng dưng, vì chúng tôi đang lên kế hoạch chuyển tới Cambridge, Rawndesley đã trở thành “ở đây”, không còn là “ở đó”. “Con có một công việc ở đây,” mẹ nói. “Nếu con chuyển tới Cambridge, con sẽ trở thành người thất nghiệp.”
“Con sẽ tìm được một việc gì đó,” tôi bảo bà.
“Việc gì? Chính xác là con sẽ tìm được việc gì?”
“Con không biết nữa, mẹ. Con đâu có thể nhìn trước được tương lai. Có thể con sẽ... học một khóa ở trường đại học.” Tôi không dám dùng từ “bằng cấp”.
“Một khóa học là rất tốt, nhưng nó không phải là một nghề,” mẹ nói. “Nó không giúp con chi trả hóa đơn.”
Fran, Anton và bố đều đang quan sát mẹ, chờ xem bà sẽ chống lại mối họa treo lơ lửng này như thế nào. “Ừ thì,” bà cuối cùng cũng nói, quay mặt đi chỗ khác. “Mẹ cho rằng đấy là tin tốt với Kit, dù sao đi nữa - một sự thăng tiến. Mất mát của chúng ta là lợi ích của cậu ta.”
Trong tấn bi kịch cá nhân của mẹ phác thảo nên về tình hình, Kit là người chiến thắng, mẹ, bố và Fran là những kẻ chiến bại, và tôi thì chẳng xuất hiện ở đâu hết.
“Chúc mừng chị đã đính hôn,” Anton nói.
“Em cứ tưởng anh nghĩ hôn nhân cổ hủ và quá rắc rối,” Fran quát vào mặt cậu ta. Em ấy không hề chúc mừng tôi. Cả bố và mẹ cũng vậy.
***
Việc đầu tiên xảy ra sáng hôm sau, là tôi nhảy khỏi giường và chạy tới nhà tắm để nôn. Kit hỏi liệu có phải tôi đang có thai không, nhưng tôi biết là không phải. “Hoàn toàn là do tâm lý,” tôi bảo anh. “Đấy là phản ứng của cơ thể em với phản ứng của gia đình em về chuyện chúng ta chuyển đi. Đừng lo, sẽ qua thôi.”
Không hề. Kit và tôi bắt đầu thói quen tới Cambridge mỗi thứ Bảy để tìm nhà. Chúng tôi đều muốn mua thay vì thuê - với Kit là vì thuê nhà rất tốn kém, còn tôi là để ràng buộc bản thân mình một cách hợp pháp với một nơi không phải là Little Holling, để khiến cái khả năng tôi quay về trở nên ít đi. Mỗi lần chúng tôi đi săn lùng nhà, Kit lại phải dừng xe ít nhất một lần để tôi xuống nôn ở vệ đường. “Anh không chắc lắm về chuyện này, Con ạ.” Anh cứ nói đi nói lại. “Em rất ổn trước khi chúng ta quyết định chuyển đi. Chúng ta không thể sống ở Cambridge nếu em dị ứng với sự phản đối của bố mẹ.” Anh cố buông một câu đùa về chuyện đó: “Anh không muốn em thành ra một bóng ma từ thời Victoria loạn thần kinh liệt giường chiếu, mặc váy ngủ dài trắng toát và có mùi muối.”
“Em sẽ vượt qua chuyện này,” tôi nói với anh một cách chắc chắn. “Đây chỉ là một giai đoạn tạm thời thôi. Em sẽ ổn.” Tóc của tôi bắt đầu rụng, nhưng chưa rõ ràng lắm. Tôi đang cố giấu Kit.
Chúng tôi tìm được một ngôi nhà xinh đẹp: số 17 Pardoner Lane - một ngôi nhà ống trần cao ba tầng kiểu Victoria với lò sưởi truyền thống trong tất cả các phòng khách và phòng ngủ, hàng rào thép màu đen bên ngoài, bậc thềm lên cửa trước và một sân thượng với tầm nhìn ra toàn cảnh thành phố. Bên trong được trang trí rất đẹp, sáng bóng, với một cái bếp và phòng tắm mới. Kit mê mẩn ngôi nhà ngay giây phút đầu tiên để mắt đến nó. “Chính là nó,” anh nói nhỏ với tôi, để người môi giới không nghe thấy.
Đó là ngôi nhà đắt tiền nhất trong số những căn chúng tôi đã đi xem, cho tới lúc bấy giờ, và là lớn nhất. “Làm sao chúng ta có đủ tiền mua nó được?” tôi hoài nghi hỏi anh. Chuyện dường như quá tốt để có thể thành sự thật.
“Nó không có vườn, và nó gắn với một ngôi trường ở một phía,” anh nói.
Tôi nhớ tấm biển chúng tôi đã thấy trên tòa nhà bên cạnh. “Trung tâm Beth Dutton là một trường học?”
“Không hẳn,” Kit nói. “Anh kiểm tra rồi. Nó là nhánh trung học phổ thông của một trường tư mà chỉ nhận tối đa mười bốn học sinh một niên khóa, vậy nên sẽ không có hơn hai mươi tám đứa trẻ dù vào bất kỳ lúc nào. Chúng có thể xích xe mình vào hàng rào của chúng ta, nhưng anh chắc chắn chúng sẽ hành xử văn minh. Hầu hết mọi thứ ở Cambridge đều văn minh.”
“Thế còn chuông thì sao?” tôi nói. “Không phải chuông sẽ kêu sau mỗi tiết học? Như thế sẽ khó chịu lắm - chúng ta có thể nghe được tiếng chuông qua lớp tường.”
Kit nhướn mày. “Anh tưởng em muốn không khí ồn ào náo nhiệt của thành thị? Chúng ta có thể chuyển tới Little Holling, bên cạnh phụ huynh của em, nếu em không muốn nghe gì hơn là âm thanh của hoa mọc lên và, thi thoảng, tiếng rin rít khi ai đó đánh bóng bếp lò.
“Không, anh nói đúng,” tôi đáp. “Em thực sự thích ngôi nhà.”
“Nghĩ về toàn bộ không gian mà xem. Em có thể sở hữu một phòng bệnh kiểu Victoria u ám hoàn toàn cho riêng mình.”
“Em đoán là mình có thể yêu cầu nhân viên ở Beth Dutton giảm âm lượng chuông xuống, nếu có vấn đề gì.”
“Cái chuông sẽ không thành vấn đề đâu.” Kit thở dài. “Nỗi sợ hãi của em là vấn đề duy nhất.”
Tôi biết anh nói đúng, và chỉ có một cách duy nhất để giải quyết nó: tôi phải làm điều tôi vẫn sợ làm, và chứng minh với bản thân rằng sẽ chẳng có tận thế xảy ra. Một thời gian rồi bố mẹ cũng sẽ qua thăm, tôi có thể tới thăm họ thường xuyên. Việc họ tới và ở cùng chúng tôi ở Cambridge có vẻ ít khả thi. Ba năm trước, mẹ đã tới Guildford để thăm một người bạn. Bà đã bị một cơn hoảng loạn vào ngày thứ Hai ở đó, và bố được gọi đến để đón bà về. Kể từ đó, trung tâm thị trấn Silsford là quãng đường xa nhất bà có thể đi.
“Vậy, chúng ta sẽ làm gì đây?” Kit hỏi tôi. Chúng tôi đang ngồi trong xe của của anh bên ngoài văn phòng Cơ quan bất động sản Cambridge trên đường Hills. “Chúng ta có định mua ngôi nhà đó hay không?”
“Chắc chắn rồi,” tôi nói.
Chúng tôi hủy các cuộc hẹn xem nhà khác mà mình đã lên lịch hôm đó. Kit đề nghị mua ngôi nhà số 17 Pardoner Lane, và người môi giới nói với anh rằng cô ta sẽ phản hồi với anh ngay khi cô có cơ hội trao đổi với chủ nhà.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy và phát hiện ra mình không thể cử động một bên mặt. Mắt phải của tôi không thể nhắm lại được - tôi cố hết sức cũng chỉ hạ được mí mắt trên của mình xuống như một tấm rèm và để nó yên ở đó - và khi tôi thè lưỡi ra, nó lệch về bên trái thay vì thẳng ra đằng trước. Kit sợ rằng tôi bị đột quỵ, nhưng tôi đảm bảo với anh rằng không phải thế. “Đó là cái anh đã nói hôm qua đấy,” tôi bảo anh. “Căng thẳng. Sợ hãi. Cứ lờ nó đi - đó là điều em sẽ làm.” May sao, nó không dễ nhận thấy lắm khi mọi người mới nhìn mặt tôi. Kit lo lắng hơn tôi rất nhiều. Tôi hứa với anh rằng ngay khi chúng tôi chuyển đi và bắt đầu ổn định ở nơi mà giờ đây cả hai đều đã gọi là nhà “của chúng ta”, những triệu chứng của tôi sẽ biến mất. “Anh không hiểu em được bằng em đâu,” tôi cứ nói với anh như vậy.
“Đây là nỗ lực tẩy não tuyệt vọng một mất một còn cuối cùng của tiềm thức của em nhằm chắc chắn rằng em phải dành quãng đời còn lại để tôn thờ Thần Sợ hãi. Em phải cưỡng lại nó. Em không quan tâm nếu chân em có rụng ra, nếu em có hóa mù lòa hay dù em có biến thành một con bọ hung đi nữa - chúng ta sẽ mua ngôi nhà đó.”
Mất một thời gian người môi giới mới liên lạc lại cho Kit. Khi cuối cùng cô ta gọi lại, sau khi tránh nghe điện thoại và lờ đi các tin nhắn của Kit suốt bốn ngày, cô bảo anh rằng một người mua khác có hứng thú với số 17 Pardoner Lane, và đã đưa ra một khoản tiền nhiều hơn chúng tôi, thậm chí còn cao hơn cả giá chào bán. “Chúng ta có thể trả giá cao hơn,” Kit nói với tôi, đi đi lại lại trong căn phòng khách của chúng tôi ở căn hộ Rawndesley. “Thứ chúng ta không thể làm là trả giá cao hơn, mà vẫn đủ khả năng đi ăn tiệm, đi nghỉ mát...”
“Vậy mình đừng mua nó nữa,” tôi nói. Sau những tuôn trào thất vọng lúc đầu, tôi cảm thấy một nút thắt bắt đầu được nới lỏng ra bên trong mình.
“Anh sẵn lòng hy sinh và thắt lưng buộc bụng nếu em cũng sẵn lòng,” Kit nói. “Chúng ta ăn bên ngoài rất nhiều, và đồ ăn trong một nửa số lần đi ăn đó thật đáng thất vọng.”
“Đó là bởi vì những nhà hàng chúng ta đi đều ở Rawndesley. Ở Cambridge thức ăn sẽ ngon miệng hơn. Mọi thứ sẽ tốt hơn.”
“Vậy chúng ta có thể ăn tiệm vài tháng một lần, thay vì một tuần một lần,” Kit nói. “Bất kỳ sự hy sinh nào mà chúng ta phải bỏ ra đều sẽ xứng đáng, Con. Chúng ta sẽ không phải lòng một ngôi nhà nào khác theo một cách như vậy nữa. Anh sẽ gọi và trả cao thêm năm ngàn nữa.” Thêm năm ngàn bảng so với mức giá người mua kia đã ra, ý anh là vậy, có nghĩa sẽ là thêm hai mươi ngàn bảng so với mức giá chúng tôi đưa ra ban đầu.
“Không.” Tôi chặn anh lại khi anh đi về phía điện thoại. “Em không muốn bước tiến này trở thành cái gì đáng sợ hơn lúc đầu. Mình hãy tìm một ngôi nhà rẻ hơn, một căn mà chắc chắn mình có đủ khả năng mua.”
“Em đang nói cái gì vậy?” Kit giận dữ. “Em từ bỏ nhà số 17 Pardoner Lane dễ dàng thế sao? Anh tưởng em yêu nó.”
“Em có chứ, nhưng...” tôi ngừng lại khi Kit chỉ vào tôi.
“Gương mặt em,” anh nói. “Nó đã trở lại bình thường.”
Anh nói đúng. Tôi còn không để ý. Một cách ngập ngừng, tôi chạm vào chân mày mình, rồi má mình. Tôi thè lưỡi ra. “Hoàn toàn thẳng thớm,” Kit nói. “Dù đó có là gì đi nữa, nó đã mất rồi. Chỉ cần hai giây suy nghĩ rằng em đã thoát được trách nhiệm, và nó biến mất.” Anh lắc đầu. “Không thể tin nổi.”
“Không thể như vậy được,” tôi phản đối. “Kể cả khi không mua ngôi nhà đó, chúng ta vẫn sẽ chuyển tới Cambridge cơ mà.”
“Trên lý thuyết,” Kit nói. “Em có thể chịu được lý thuyết. Thực tế - chào mua một ngôi nhà, đề nghị mua được chấp thuận, để bước tiến này thực sự diễn ra - khiến em tê liệt vì hoảng sợ, theo đúng nghĩa đen.”
Tôi chẳng cảm thấy gì ngoài nỗi khinh ghét dành cho người phụ nữ anh đang mô tả. Cái ý nghĩ rằng cô ta chính là mình làm tôi phẫn nộ đến mức tôi muốn tự móc mắt mình ra. “Gọi cho người môi giới đi,” tôi nói. “Trả cao hơn mười ngàn, và em thề với anh, em sẽ ổn - hoàn toàn khỏe khoắn. Em sẽ không buồn nôn vào buổi sáng, mặt em sẽ không cứng đơ lại...”
“Làm sao em biết được?” Kit hỏi.
“Bởi vì em đã quyết định rồi. Tất cả những thứ đó đã kết thúc rồi. Em chán ngán việc bị... mắc tật rồi. Từ giờ trở đi, ý muốn của em là thép tôi đặc, và nó sẽ dành từng phút một mỗi ngày để đá đít cái tôi khác - một đứa trẻ nhát chết - trong em. Tin em đi, em sẽ ổn.”
Kit nhìn chằm chằm vào tôi thật lâu. “Được rồi,” anh nói. “Nhưng anh không nâng giá tiền lên tận mười ngàn bảng khi không cần thiết. Với tất cả những gì mình biết, thì năm thôi cũng được rồi.” Anh gọi cho người môi giới bất động sản, cô ta nói sẽ trả lời anh.
Ngày hôm sau, khi tôi đang ở văn phòng của Monk & Sons thì Kit xuất hiện bất ngờ. “Sao anh không đi làm?” Tôi hỏi anh, rồi thở dồn. “Chúng ta đã có được nó chưa? Mình đã có được ngôi nhà chưa?” Tôi không nhận thức được bất kỳ nỗi sợ hãi nào lúc đó, không có cái “nhưng” nào trong đầu tôi cả, tôi muốn nhà số 17 Pardoner Lane, thuần khiết và giản đơn. Tôi rất hào hứng, hào hứng hơn bất cứ lúc nào trong đời.
“Người chủ đã chấp nhận đề nghị của chúng ta,” Kit nói. Tôi cố vòng tay mình quanh cổ anh, nhưng anh bắt tôi dừng lại. “Và rồi anh rút lại,” anh nói.
“Rút lại gì cơ?” Tôi không hiểu.
“Đề nghị. Chúng ta sẽ không chuyển đi, Con. Anh xin lỗi, nhưng... chúng ta không thể.”
“Tại sao không?” Nước mắt tôi trào ra. Không. Chuyện này không thể xảy được, không phải bây giờ. “Có phải Deloitte...”
“Không liên quan đến Deloitte. Anh lo rằng nếu ta làm việc này, em sẽ... anh không biết nữa, chịu đựng một sự sụp đổ nào đó.”
“Kit, em hoàn toàn... “
“Em không hề ổn, Con. Đêm qua em hét lên trong lúc ngủ.”
“Không, không phải đâu. Lúc đó em nói gì?”
Anh tránh nhìn vào tôi. “Tóc em đang rụng và em cố giấu nó,” anh nói. “Và... anh không nghĩ chúng ta sẽ vui vẻ sau khi biết được cảm giác của bố mẹ về việc chúng ta chuyển đi. Thật là khó mà sống với suy nghĩ mình vừa làm người khác khốn khổ, nhất là khi họ lại chính là bố và mẹ em.”
“Thật là vớ vẩn!” Tôi rít vào mặt anh, vươn người về phía trước, đóng sầm cánh cửa lại để khách không nghe thấy. “Em không khiến họ khốn khổ - tự họ khiến bản thân khốn khổ bởi vì họ quá ngốc nghếch không nhận ra rằng việc con gái mình chuyển nhà đi một trăm năm mươi dặm không phải là một thảm họa khủng khiếp! Em thích họ vui lòng vì chuyện đó hơn, tất nhiên em thích như vậy rồi, nhưng không có chuyện em phải chịu trách nhiệm cho việc họ không hài lòng!”
“Anh đồng ý, em không cần chịu trách nhiệm,” Kit nói. “Anh cũng biết rằng em sẽ như thế. Em sẽ cảm thấy tệ. Nó sẽ phá hỏng mọi chuyện. Chúng ta sẽ luôn có thứ... bóng đen này lơ lửng trên đầu mình.”
Đến lúc này thì tôi khóc nức nở, kinh hoàng bởi những gì mình đang nghe, nhưng cũng lo sợ rằng đó là sự thật. Nếu tôi chuyển đi, liệu có phải sẽ luôn có một giọng nói trong đầu tôi thì thầm rằng tôi đã ruồng bỏ gia đình mình? “Anh đã nghĩ rồi,” Kit nói. “Có nhiều cách để đạt được điều chúng ta muốn mà không phải chuyển đi.”
Tôi tự hỏi có phải anh đã mất trí rồi không. Chuyển đi xa là điều chúng tôi muốn, không phải sao? Đó là điều duy nhất chúng tôi muốn: sống ở Cambridge. Làm sao chúng tôi có thể có được điều đó từ căn hộ của mình ở Rawndesley?
“Chúng ta có thể mua một ngôi nhà thay vì thuê - không phải ở Rawndesley xấu xí, mà là ở Spilling, hoặc Hamblesford, hoặc...”
“Spilling?” Tôi muốn lôi đầu anh ra khỏi cổ và đá nó sang bên kia phòng. Có phải có ai đó đã tách sọ anh ra vào buổi đêm và ăn trộm mất não không? “Các bà già chơi đánh bài và tham gia câu lạc bộ Rotary sống ở Spilling! Em còn trẻ, Kit - em muốn được sống một cuộc đời đúng nghĩa ở một nơi có sự sống động ấy. Em không thể tin được anh lại đang nói chuyện này!”
Ánh mắt Kit trở nên cứng rắn. “Đâu cũng có người này người kia, Connie. Em không thể đánh đồng như vậy. Em nghĩ ở Cambridge thì không có các bà già chơi đánh bài à?”
“Đúng, có thể - giữa rất nhiều những sinh viên và... những con người thú vị khác.” Tôi biết mình nói năng nghe như một đứa nhà quê ngây ngô vậy, đó là vấn đề tôi đang cố xác định với sự thay đổi này. “Ở Cambridge, những người già cổ lỗ có thể dở đến mức nào cũng được, họ vẫn không thể làm ngột ngạt nơi ấy với sự nhàm chán của họ, bởi có một dòng chảy liên tục những con người mới mẻ, thú vị, nhờ có trường đại học. Em tưởng anh muốn em đi học lấy bằng?”
Kit im lặng, quay mặt đi. Vài giây sau, anh nói nhẹ nhàng, “Anh rất muốn em được học lấy bằng, nhưng... Chúa ơi, thật khó khăn.”
“Nhưng sao? Anh nghĩ em không đủ thông minh? Anh không nghĩ Cambridge sẽ chấp nhận em?”
Anh quay lại. “Em nghĩ là vì cái đó sao? Con, họ sẽ nhận em ngay trong vòng một nốt nhạc. Anh cũng sẽ chuyển tới Cambridge với em trong vòng một nốt nhạc nếu anh nghĩ em sẽ đủ khả năng chinh phục nó, nhưng...” anh lắc đầu.
“Đêm qua em đã nói gì?” Tôi hỏi anh.
“Gì cơ?”
“Đêm qua - anh nói rằng em la hét trong lúc ngủ. Đó là lý do khiến anh thay đổi quyết định, đúng không? Ngày hôm qua chúng ta vẫn ổn - chúng ta chuẩn bị mua số 17 Pardoner Lane, bất kể mức giá nào, trả cao hơn hẳn người mua khác kể cả khi việc đó có nghĩa là không được ăn gì khác ngoài cháo lạnh trong suốt hai năm trời. Anh nhớ không? Em đã hét cái gì trong lúc ngủ mà lại khiến anh muốn quên đi tất cả và bỏ cuộc, Kit?”
Anh ấn ấn sống mũi mình bằng ngón giữa và ngón trỏ. “Em nói, “Đừng bắt em đi.” Anh nhấn mạnh chữ “bắt”. Tôi hiểu tại sao, và đó là sự nhấn mạnh của anh, chứ không phải của tôi. Thẳm sâu bên trong, tôi muốn ở lại, anh nghĩ, và nếu chúng tôi chuyển đi thì tôi sẽ cảm thấy buồn khổ, tôi sẽ quy trách nhiệm cho anh, bởi anh là người bắt đầu toàn bộ chuyện này, với lời đề nghị công việc quá- tốt-không-thể-từ-chối từ Deloitte. “Em cứ nhắc đi nhắc lại câu đó,” anh bảo tôi. “Em đã cầu xin anh, Connie. Mắt em mở to, nhưng em không hề phản ứng khi anh... em không nhớ sao?”
Tôi lắc đầu. Thứ gì đó trong tôi ngừng hoạt động. Kit và tiềm thức của tôi thông đồng với nhau chống lại tôi. Tôi chẳng làm được gì với sự chống đối như thế. “Thế còn Deloitte thì sao?” Tôi hỏi một cách đều đều. “Việc thăng tiến của anh.”
“Anh sẽ rời Deloitte,” Kit nói. Anh mỉm cười. “Anh đã bảo em rồi mà: anh đã suy nghĩ, điều chỉnh lại. Cả hai chúng ta đều cần phải thoát khỏi con đường mòn - chúng ta cần một thứ gì đó để hào hứng, kể cả khi điều đó không phải là Cambridge. Vậy nên chúng ta sẽ tự xây dựng việc kinh doanh riêng. Em vẫn có thể làm việc bán thời gian cho bố mẹ nếu em muốn, nhưng cơ bản là em sẽ làm việc cùng anh. Em cần phải độc lập hơn khỏi gia đình mình - ở đó tám tiếng một ngày, năm ngày một tuần là quá nhiều. Họ cần hiểu rằng em có thể làm được những việc mà từ đầu không phải do bố em, hay do bố của bố của bố em, khởi xướng nên. Việc đó sẽ giúp em hiểu được con người mình: một người phụ nữ thông minh, giỏi giang, độc lập.”
Tôi mở miệng định nói rằng anh không thể quyết định tất cả việc này mà không hỏi ý kiến tôi, nhưng anh nói quá nhanh, và đã đến đoạn mô tả phần tiếp theo trong kế hoạch của anh. “Chúng ta sẽ tìm một ngôi nhà chúng ta thích - thực sự thích, còn nhiều hơn cả số 17 Pardoner Lane. Sẽ không khó đâu. Đấy là điểm mà những nơi như Spilling và Silsford hơn hẳn Cambridge - nhiều những ngôi nhà độc đáo hơn, nhiều sự đa dạng hơn. Ở Cambridge hầu như mọi nhà đều là nhà gạch xây thành dãy.
“Em thực sự thích số 17 Pardoner Lane,” tôi vớt vát một cách vô vọng. Giờ đây, lần đầu tiên và với một sự rõ ràng đáng ngạc nhiên, tôi nhận ra rằng đó là ngôi nhà hoàn hảo, ngôi nhà duy nhất tôi muốn, khi giờ đây tôi thấy được bảo rằng mình không thể có nó.
“Em sẽ yêu ngôi nhà mình mua ở Culver Valley, anh hứa với em,” Kit nói. “Nếu em không thích, mình sẽ không mua nó. Nhưng em sẽ thích. Và rồi, công việc kinh doanh của chúng ta sẽ nhanh chóng thành công, và chúng ta sẽ có thật nhiều tiền, và em đã có thể cho phụ huynh thấy rằng em có thể tự lo liệu cho mình, không cần đến món tiền lương gần-như-không-tồn-tại mà họ trả cho em...”
“Em tưởng mình vẫn sẽ làm việc bán thời gian cho họ,” tôi nói. Việc rời khỏi Monk & Sons nói chung sẽ làm phiền lòng mẹ không kém gì việc chuyển tới Cambridge.
“Lúc đầu là thế, nếu em muốn.” Kit gật đầu. “Nhưng một khi việc làm ăn của chúng ta bắt đầu khởi sắc, một khi chúng ta thu được kha khá lợi nhuận từ việc ấy, thật sự, sẽ thật ngớ ngẩn nếu em vẫn tiếp tục kiếm có bảy trăm bảng một tháng hoặc bao nhiêu cũng được với tư cách kế toán viên trông giữ sổ sách bán thời gian của Monk & Sons, lúc đó em chỉ cần bảo với bố mẹ rằng em có những việc quan trọng hơn phải làm - nói, ‘Con rất tiếc, bố ạ, nhưng nếu con muốn làm tình nguyện, con sẽ đi đăng ký với hội Chữ thập đỏ.’“
Tôi không thể không cười. “Vậy công việc kinh doanh đem lại lợi nhuận khổng lồ này của chúng ta sẽ là gì nào?” tôi hỏi.
“Chưa biết được,” Kit nói đầy lạc quan, nhẹ nhõm khi tôi nhìn và nói năng có vẻ vui tươi hơn. “Anh sẽ nghĩ ra một việc gì đó, và nó sẽ rất tuyệt, dù là gì đi nữa. Và, trong năm năm tới, chúng ta có thể nói về chuyện chuyển tới Cambridge một lần nữa, có thể, hoặc một nơi khác - London, Oxford, Brighton - và em sẽ nhận thấy mình sẽ không sợ hãi bằng một nửa bây giờ, bởi em đã sẵn sàng trên con đường” - anh làm điệu bộ đang bóc một thứ gì khỏi một thứ khác - “giải thoát bản thân mình.”
“Đó là lý do vì sao Melrose Cottage lại đẹp đẽ đến vậy,” tôi nói với Sam Kombothekra, mắt anh ta giờ đã đờ đẫn đi vì lắng nghe tôi quá lâu. Lúc này, có lẽ anh ta đang rút ra kết luận rằng chẳng có người nào thần trí tỉnh táo lại vẽ ra cả một vở cải lương từ một kế hoạch chuyển tới sống ở một nơi khác đơn giản đến vậy. Thế nên tôi hẳn là điên khùng, và có khả năng là đã ảo tưởng ra người phụ nữ chết trong bể máu trên màn hình máy tính của mình. “Melrose Cottage là tên ngôi nhà của chúng tôi ở Little Holling,” tôi thêm vào, phòng khi anh ta không chú ý đến tấm bảng trên cánh cửa.
“Nó chắc chắn là cực kỳ hoàn hảo,” anh ta đồng ý.
“Nó phải là như thế. Để bù đắp cho... tất cả mọi thứ.” Đã bảy năm kể từ cuộc trò chuyện giữa Kit và tôi tại văn phòng của Monk & Sons. Anh chưa từng nhắc lại khả năng chuyển tới Cambridge hay London hay Brighton lần nào, chưa một lần. London chắc chắn là bị loại ra khỏi danh sách; giờ đây khi anh làm việc ở đó vài ngày một tuần, anh bắt đầu trở về nhà với những câu chuyện về việc thành phố đó giống địa ngục thế nào: xả rác bừa bãi, ồn ào, xám xịt. Đó là kiểu chuyện mà mẹ tôi, người chưa từng tới London, vẫn ca cẩm, nhưng nó làm tôi chán nản nhiều hơn khi nghe từ Kit, người đáng ra phải là đồng minh trong những nỗ lực vì tự do của tôi.
Giáng sinh sau khi chúng tôi chuyển tới Melrose Cottage, Kit mua cho tôi bản in Nhà nguyện King’s College ‘4/100’. “Anh nghĩ mình nên có một bức hình để gợi nhắc chúng ta về Cambridge, vì chúng ta sẽ không sống ở đó.” Tôi không thể nhìn nhận bản in theo cách nào khác ngoài biểu tượng bại trận của tôi, và nó làm hỏng kỳ Giáng sinh của tôi. Người phụ nữ đang cười trên bậc thềm nhà nguyện dường như đang cười vào mặt tôi.
“Vào tháng Một, khi tôi tìm ra địa chỉ đó ở định vị vệ tinh của anh ấy, tôi bắt đầu tự hỏi về... à thì, về sự thay đổi quyết định đột ngột của anh ấy,” tôi nói với Sam. “Anh ấy tỏ ra lo lắng về mức độ căng thẳng của tôi, nhưng nếu mọi thứ không phải như vậy? Nếu lý do anh muốn chuyển tới Cambridge lúc đầu là bởi anh có một người bạn gái ở đó thì sao?” Selina Gane. “Rồi họ chia tay - có một cuộc cãi vã to, cô ả bỏ anh ấy - và đó là lý do anh ấy thay đổi thái độ. Thế rồi, vào một thời điểm nào đó sau này, một trong hai người liên lạc lại với người kia và họ quay về với nhau, nhưng lần này, thay vì đề xuất với tôi rằng chúng tôi chuyển nhà, Kit có một ý tưởng hay hơn: xây dựng gia đình với cô ta ở số 11 Bentley Grove, trong khi giữ tôi ở lại Little Holling, để tránh làm vướng anh. Anh ấy rất thích Melrose Cottage - anh ấy làm chính xác những gì mình lên kế hoạch năm 2003: tìm ra một ngôi nhà anh ấy yêu thích còn hơn cả số 17 Pardoner Lane. Anh ấy sẽ không đời nào chịu từ bỏ nếu không bị bắt buộc phải làm thế. Một vài tuần trước đó, anh ấy đặt hàng một họa sĩ chân dung địa phương vẽ nó, cứ như nó là một con người hay đại loại thế.”
Không phải đó cũng là cái cảm giác của mày về nó sao?
Tôi không dám thừa nhận rằng tôi đang trên bờ vực bắt đầu ghét chính tổ ấm của mình, dù rằng nó rất xinh đẹp và chẳng làm gì sai cả.
“Kit muốn cả hai, giống như rất nhiều người đàn ông khác,” tôi nói một cách tức giận. “Hai cuộc đời. Tôi và Melrose Cottage ở một ngăn, Selina Gane và Cambridge ở một ngăn khác. Và anh ấy chẳng hề quan tâm tôi muốn gì. Tôi vẫn muốn được rời đi. Anh ấy thậm chí còn chẳng buồn hỏi tôi nữa. Anh tự cho rằng tôi đang hạnh phúc với mọi thứ, nhưng sao tôi lại hạnh phúc được?” Tôi quát lên với Sam, người mà, cũng như Melrose Cottage, chẳng làm gì sai cả.
“Chị đâu biết chắc rằng Kit có quan hệ tới Selina Gane,” anh ta nói.
“Anh cũng đâu biết chắc là không.”
Và giờ thì anh chẳng còn gì để nói, đúng không? Chẳng còn gì để nói, chẳng còn gì có thể làm, không có cách nào để biết được. Chào mừng tới thế giới của tôi.
“Chị đã nói với Simon Waterhouse tất cả những chuyện này chưa?” Sam hỏi.
Nói chuyện với Simon dễ hơn là với Sam, dễ hơn nhiều. Tôi bớt cảm thấy mình giống đồ quái dị hơn. Simon không bị đẩy lùi trước sự lạ lùng trong câu chuyện của tôi. Sam thì lại như vậy, dù anh ta đang cố gắng hết sức để che giấu sự khó chịu của mình. Tôi có ấn tượng rằng, bằng một cách nào đó, khi tôi nói chuyện với Simon, sự lạ thường ấy lại là sân nhà của anh ta. Simon đã gật gù với những điều mà đáng lẽ đã khơi dậy sự hoài nghi của hầu hết mọi người, và có vẻ bối rối bởi những chi tiết bình thường hơn, đặt những câu hỏi không có mối liên hệ rõ ràng tới bất kỳ điều gì. Anh ta cứ liên tục hỏi tôi về bố mẹ của Kit, khi nào và tại sao anh ấy cắt đứt liên lạc với họ.
Tôi không kể cho Simon hết mọi thứ. Không muốn thừa nhận bất kỳ điều gì có thể là phạm pháp, tôi không nhắc đến thói quen rình rập của mình, những ngày thứ Sáu ở Cambridge. Tôi không nói cho anh ta là thỉnh thoảng tôi bám theo Selina Gane tới chỗ làm, đi đằng sau cô ả, hay có lần cô ả từng tấn công tôi ở khu vực tiếp tân của bệnh viện, hỏi xem liệu có phải cô ả từng nhìn thấy tôi trước đây.
“Không,” tôi nói nhanh, cảm thấy xấu hổ. “Tôi không nghĩ vậy.”
“Chị sống trên đường Bentley Grove à?” cô ả hỏi. Cô ả hẳn là đã thấy tôi ở đó, hơn một lần.
Tôi lại nói dối tiếp, vờ rằng mình có bạn bè sống ở đó.
Tôi không nói cho Simon rằng, chỉ hai tuần sau sự việc ở bệnh viện, tôi lại đụng mặt Selina một lần nữa - vô tình, trong thành phố. Tôi đã kết luận là không có chuyện gì xảy ra ở số 11 Bentley Grove hôm đó, nên tôi đi bộ vào trong thành phố để kiếm gì đó ăn. Tôi đang chuẩn bị vào quán Brown’s trên đường Trumpington thì bắt gặp cô ả đi về phía mình. Tôi biết đó là cô ả. Tôi đã đỗ xe ở phía cuối đường Bentley Grove và quan sát cô ả rời khỏi nhà sáng hôm đó, và cô ả cũng mặc bộ quần áo đó: áo khoác bò màu xanh lá, quần dài màu đen, bốt cao cổ. Đó chính là cô ả, và cô ả chưa thấy tôi. Tôi cảm thấy tức tối một cách phi lý vì cô ả không ở Addenbrooke’s, nơi mà tôi đã chắc chắn rằng cô ả tới sáng nay, nơi đáng ra cô ả phải ở đó cả ngày.
Tôi đi theo cô ả hết con phố King’s Parade và vào đường Trinity. Khi cô ả bước vào một cửa hiệu quần áo, tôi loanh quanh bên ngoài. Cô ả ở trong đó cả buổi - lâu đến mức tôi bắt đầu lo rằng đôi mắt mình đã đánh lừa bản thân. Có thể tôi đã mất dấu cô ả và đang đứng ngoài cửa hiệu trong khi cô ả đã vội vàng đi đâu đó rồi, bỏ lại tôi đằng sau.
Sau khi đợi được gần một tiếng, sự nản lòng đã khiến tôi làm một việc thật ngu ngốc, đến mức giờ đây tôi vẫn khó lòng tin được mình đã làm thế. Tôi bước vào cửa hàng. Tôi đã rất chắc chắn mình sẽ không gặp cô ả trong đó, nhưng cô ả có ở đó. Cô ả và người phụ nữ đứng đằng sau quầy thu ngân nhìn chằm chằm vào tôi với cùng một cái nhìn tức giận và đắc thắng trong mắt, tôi biết ngay mà không cần ai nói rằng họ là bạn bè. “Chuyện gì đang xảy ra ở đây?” Selina Gane cật vấn. “Cô là ai, và tại sao cô đi theo tôi? Đừng nghĩ đến chuyện phủ nhận, nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát đấy.”
Chân tôi gần như rụng rời. Tôi nhìn chằm chằm lại dữ dội vào cô ả, không biết phải nói gì. Tôi nhận thấy cô ả không đeo nhẫn cưới, điều khiến tôi cảm thấy chẳng dễ chịu chút nào.
“Khóa cửa lại đi,” cô ả bảo bạn mình. Rồi, với tôi. “Tôi sẽ có được câu trả lời từ cô - dù có phải làm gì đi nữa.”
Trước khi bạn cô ả có cơ hội rời khỏi quầy thanh toán, tôi chạy ra cửa rồi thoát ra ngoài và xé toạc con phố Trinity như một con thú bị săn lùng chạy bán sống bán chết. Tôi chạy một quãng đường cảm giác như rất nhiều dặm. Khi cuối cùng tôi cũng dám dừng và quay lại, tôi thấy rằng không có ai ở đó cả, ít nhất không ai có vẻ để tâm đến tôi, và rơi nước mắt vì nhẹ nhõm. Tôi đã thoát rồi. Cô ả không biết tôi là ai. Chỉ tới ngày hôm sau, tôi mới đột ngột nhận ra rằng mình đã có thể nói, một cách bình tĩnh, “Tên tôi là Connie Bowskill. Tôi là vợ của Kit Bowskill.” Cô ả sẽ phản ứng ra sao? Một sự khó hiểu trống rỗng, hay sốc? Cô ả có biết Kit không? Cô ả có biết Kit có vợ rồi không?
Tôi cũng không biết được tên cô ả hôm đó. Tôi chỉ mới tìm ra sáng nay, khi Sam Kombothekra bảo tôi.
“Connie?”
“Hả?”
“Chị đã kể với Simon Waterhouse chưa?”
“Rồi,” tôi nói. “Tôi đã kể cho anh ta tất cả mọi thứ tôi vừa kể cho anh.”
“Cậu ta nói sao?” Sam hỏi.