"Anh hỏi cô ta xem liệu có khả năng chính cô ta đã tự cài đặt địa chỉ ấy vào định vị vệ tinh của chồng không,” Simon kể cho Charlie. Họ đang ngồi tại chiếc bàn gỗ lớn bên cạnh bể bơi - Simon ngồi dưới tán ô còn Charlie thì dưới ánh nắng chói chang. Cô biết như vậy là có hại, nhưng cô ưa thế: cái cách ánh nắng cháy sáng trên làn da khiến cô có cảm giác như não mình đang tan chảy, và cô không có lựa chọn nào khác ngoài việc lao mình xuống bể bơi.
Trước thềm bữa trưa, chuyện không thể tưởng tượng nổi đang xảy ra: Simon lột vỏ tôm và chuyển chúng cho cô, từng con một. Đó là do cô đã khiến anh cảm thấy tội lỗi thế nào. Cô không còn thấy đói nữa, nhưng muốn anh tiếp tục bóc. Xem ra anh không bận tâm, điều đó khiến cô hơi cáu, nhưng anh mới lột được tám con nãy giờ và cô cho rằng mình có thể ăn đến năm mươi con, kể cả cô có phát bệnh sau đó. Cô đã tự tin rằng anh sẽ tức xì khói và chửi thề trước khi cô sẵn sàng miễn cho anh hết trách nhiệm.
“Tại sao chị ta lại tự cài đặt địa chỉ đó, rồi buộc tội chồng mình làm thế?” Cô hỏi Simon.
“Bởi cô ta thực sự tin rằng anh ta làm thế. Nếu cô ta tự xóa bỏ ký ức việc bản thân mình đã làm, và rồi tìm thấy nó ở đó - thì, hẳn là anh ta đã làm việc đó rồi, phải không? Và cô ta muốn biết tại sao. Tại sao anh ta lại cài cái địa chỉ Cambridge không biết ở đâu ra vào định vị vệ tinh là ‘Nhà’?”
“Vớ vẩn,” Charlie nói. “Không có chuyện não con người tẩy xóa ký ức. Dù sao thì, tại sao lại là địa chỉ đó? Giả thuyết trí-nhớ-xóa- bỏ-sau-chấn-thương-tâm-lý sẽ có lý nếu địa chỉ chị ta tìm thấy trên định vị vệ tinh là số 17 Pardoner Lane.”
“Trừ phi số 11 Bentley Grove có tầm quan trọng tương tự với cô ta,” Simon nói. “Mà có thể là thế. Nếu cô ta bị sang chấn tinh thần đủ mạnh để xóa bỏ ký ức việc đã cài đặt nó vào định vị vệ tinh, ai dám khẳng định cô ta không xóa hết tất cả những ký ức liên quan đến ngôi nhà đó? Như thế cho nên, khi thấy địa chỉ đó, nó chẳng có nghĩa lý gì với cô ta cả.”
Charlie rên rỉ. “Đây mới là chuyện đã xảy ra: người chồng, Kit, đã lập trình địa chỉ đó vào. Giải pháp đơn giản nhất, kiểu thế.”
Simon giơ một con tôm đã bóc vỏ lên và nhìn chằm chằm vào nó. “Nguyên lý Dao cạo của Occam? Đó chỉ là chuyện hoang đường,” anh nói. “Nếu em nhìn lại những năm làm việc gần đây của chúng ta...”
“Connie Bowskill không phải công việc, nên anh đừng vờ là như thế nữa,” Charlie nói. “Chị ta là sở thích điên khùng gần đây nhất của anh. Và những năm làm việc của chúng ta không tồn tại. Em rời khỏi phòng điều tra tội phạm nhiều năm rồi. Em đã có công ăn việc làm với bên cảnh sát và được trả lương đàng hoàng, bên cạnh việc làm nhà cung cấp dịch vụ kiểm tra thực tế không lương cho anh.”
“Thôi được rồi, những năm làm việc của anh,” Simon mất kiên nhẫn. “Chưa có chuyện gì đến tay anh giải quyết mà lại đơn giản dễ dàng cả. Chẳng có gì thực sự giống như vẻ ngoài của nó, chẳng có gì là dễ đoán hết.” Anh thở dài. “Có lẽ giải pháp đơn giản nhất lại là kẻ chiến thắng khi anh không xía vô, nhưng với anh thì nó chưa bao giờ đúng cả.”
“Người chồng đã từng là một sinh viên của Cambridge,” Charlie nói. “Anh ta là người gợi ý việc chuyển tới đó vào năm 2003, và địa chỉ được cài vào định vị của anh ta, trong xe của anh ta. Em sẽ nghĩ chính xác những gì Connie Bowskill đã nghĩ: rằng anh ta hẳn có một người vợ và gia đình khác ở số 11 Bentley Grove...”
“Anh ta không có,” Simon cắt lời cô. “Anh đã tới Cambridge, tới nhà đó. Chủ nhân là một người phụ nữ tên Selina Gane, một bác sĩ. Ngoại tứ tuần, không con cái, sống một mình. Anh đã hỏi liệu cô ta có biết đến Kit Bowskill nào không. Cô ta nói cái tên đó chẳng có ý nghĩa gì với mình cả. Cô ta cũng không đeo nhẫn cưới, vậy nên...”
“Chuyện đó xảy ra lúc nào vậy?” Charlie giật lấy con tôm từ tay anh. “Anh tới thăm nhà số 11 Bentley Grove lúc nào vậy?”
“Vài tuần trước. Anh xin nghỉ vài hôm.”
“Anh bảo với em là anh đang đi mua lễ phục và giày cho đám cưới.”
“Anh cũng làm cả những việc đó nữa.”
“Ở Cambridge á?”
Anh biết anh đã bị bắt thóp rồi.
“Anh nói với em là anh đã mua cả hai thứ đó ở cửa hàng Remmick’s ở Spilling.”
“Chỉ bởi vì anh không muốn nói cho em biết rằng anh đã tới Cambridge. Em sẽ lại hỏi tại sao. Mọi chuyện sẽ lại tuôn ra, và anh không muốn cho em biết lúc đó. Anh muốn bây giờ mới nói cho em.”
“Em không đói nữa,” Charlie nói, khi anh cố đưa cho cô một con tôm nữa. “Anh giữ kín chuyện, để nói với em vào tuần trăng mật của chúng ta?”
Anh gật đầu. “Anh đã lên kế hoạch cho tất cả mọi thứ - viết địa chỉ đó vào chỗ nào đó để em thấy, phủ nhận là anh đã biết nó... mọi thứ.” Trong khoảng hai mươi giây, anh cố tỏ vẻ hối lỗi. Khi anh thấy Charlie cố nín cười, anh mỉm cười, và cô hiểu rằng anh vẫn rất hài lòng với bản thân vì đã dàn xếp sự tái thiết của mình thành công đến vậy. “Chúng ta chưa từng dành ra hai tuần ở riêng với nhau trước đây,” anh nói. “Anh sợ rằng mình sẽ hết cả chuyện để nói.”
“Tin em đi, chuyện đấy sẽ không bao giờ xảy ra đâu. Vậy, cô ta có hấp dẫn không?”
“Ai cơ? Connie Bowskill hay Selina Gane?”
“Cả hai.”
“Anh không biết nữa. Em lúc nào cũng hỏi anh như thế.”
“Không, không có,” Charlie tự động phản đối.
“Em thậm chí còn hỏi như vậy về gương mặt trên núi. Nhìn kìa.” Anh chỉ. “Em có thể thấy nó từ đây, chắc chắn thế?”
Charlie tự hỏi liệu đó có phải là trò vòng quanh luẩn quẩn khác của anh không. Có lẽ Connie Bowskill không phải tiểu thư mắc nạn duy nhất anh cần phải giải cứu ngay bây giờ. Có lẽ ở đâu đó còn có một người phụ nữ nào khác mà chồng cô ta khẳng định rằng anh ta nhìn thấy một gương mặt trên ngọn núi, thứ mà cô ta không thể nhìn ra dù cố đến đâu đi chăng nữa. Có lẽ cô ta cuối cùng sẽ dìm chết anh ta trong một cái bể bơi Tây Ban Nha.
“Selina Gane có những gì mà hầu hết đàn ông gọi là quyến rũ, anh nghĩ vậy. Tóc hoe vàng óng ả, gương mặt thanh thoát, thân hình nảy nở.”
“Nảy nở?”
“Em biết mà.” Simon dùng tay mình vẽ ra dáng người.
Charlie nheo mắt với anh. “Thường được biết đến với cái tên ‘đồng hồ cát’,” cô nói. “Cô ta ngoài bốn mươi, anh vừa nói thế phải không?”
“Khoảng tầm đó. Cô ta giàu có nữa.”
“Connie Bowskill bao nhiêu tuổi?”
“Ba mươi tư.”
“Quyến rũ chứ? Vì Chúa, Simon à, chẳng có gì đáng xấu hổ về chuyện nói rằng một người có quyến rũ hay không!”
“Mảnh khảnh, tóc màu tối. Em có thể nói rằng cô ta rất xinh.”
“Ồ, em có thể nói thế đấy, phải không nhỉ? Sao anh biết được Selina Gane giàu có?”
“Vẻ ngoài của cô ta,” Simon nói. “Quần áo, mọi thứ. Nứt đố đổ vách, anh sẽ nói vậy.”
“Vậy thì, nếu Kit Bowskill quan hệ với cả Connie và Selina, anh ta được cả đôi đường, nhỉ? Một người tóc sẫm, một người tóc vàng; một mảnh dẻ, một đầy đặn; một người già hơn, một trẻ hơn; một giàu, một không giàu lắm. Chắc anh ta giống như Sellers ấy - miễn là phụ nữ, thì đều là mẫu người của anh ta.”
“Anh ta không dính líu gì đến cả hai người,” Simon tiếp tục. “Anh đã nói chuyện với một vài người hàng xóm khi anh tới Bentley Grove, hỏi họ về bất kỳ người nào họ thấy đến và đi từ số 11...”
“Em đoán là anh hỏi họ với tư cách thám tử của mình, dù cho việc anh tới đó chẳng liên quan gì đến công việc?” Charlie đá xoáy, biết rằng Simon sẽ không cho phép những suy xét về mặt đạo đức cản đường mình. Anh chỉ để tâm đến kết luận của riêng mình về việc thứ gì là đúng hay sai; sự đồng thuận về quan điểm của số đông chẳng liên quan gì đến anh. Anh và Charlie giống nhau ở điểm đó; nếu đặt mình vào tình cảnh của anh, cô cũng sẽ lạm dụng quyền lực bản thân theo chính xác cùng một cách.
“Anh đã kiểm tra với Cơ quan đăng ký sở hữu đất đai rồi. Số 11 Bentley Grove được đăng ký với cái tên duy nhất là Selina Gane - không đề cập gì đến Kit Bowskill. Anh cũng cho những người hàng xóm sống ngay cạnh xem những tấm hình từ cả phía trước và sau của Bowskill mà anh lấy từ Connie. Một trong số họ nói rằng trông anh ta không quen, bà ấy chưa từng thấy anh ta trước đây. Nói với anh rằng bà ấy chỉ thấy nhiều phụ nữ khác nhau và một cặp đôi lớn tuổi viếng thăm nhà số 11. Một người hàng xóm khác, một ông già lưng còng trông cỡ hai trăm tuổi và có cái tên dài dòng nhất anh từng nghe - Hiệp sĩ Giáo sư Basil Lambert-Wall - ông ta nói tương tự về những người đến thăm nhà: rất nhiều phụ nữ, một cặp đôi ông ta miêu tả là trung tuổi, nhưng anh nghĩ những người đó và cặp đôi lớn tuổi mà người hàng xóm kia kể là một - bố mẹ của Selina Gane, có lẽ thế. Lambert-Wall có nhìn qua bức hình của Kit Bowskill và bảo, ‘Tất nhiên là tôi nhận ra anh ta. Anh ta đã lắp đặt chuông chống trộm mới cho tôi.’“
“Bệnh Alzheimer sao?” Charlie hỏi.
“Anh không nghĩ thế,” Simon nói. “Tâm trí ông ta có vẻ sắc sảo như người mới đôi mươi vậy, dù ông ta phải vịn vào cây gậy chống to gấp hai lần người mình. Anh không muốn bỏ qua điều ông ta cho anh biết chỉ vì ông ta trông quá già nua, nên anh đã xuống cửa hàng Chuông báo động an toàn ở Trumpington...”
“Nơi mà người ta chưa từng nhìn hay nghe thấy gì về Kit Bowskill trước đây cả,” Charlie kết luận.
“Đúng, họ chưa từng.”
“Vậy là ông già đã nhầm lẫn.”
“Ông ta có vẻ chắc chắn lắm,” Simon nói một cách ương bướng. Anh thở dài. “Em nói đúng. Dù cái tên của ông ta rất hoành tráng, ông ta hẳn đã nhầm rồi. Kit Bowskill sẽ làm gì với cái việc lắp đặt chuông báo động cơ chứ?”
“Nếu em cũng điên khùng như anh, em sẽ nói rằng anh ta đang sống hai cuộc đời cùng một lúc, với mỗi bên là một người vợ và một gia đình, rồi mỗi bên là một công việc khác nhau - hệ thống dữ liệu gì gì đó ở Silsford, người lắp đặt hệ thống báo động ở Cambridge. Có thể tồn tại một nét văn hóa chống cảnh sát sâu sắc ở cửa hàng Báo động an toàn, cho nên họ tự động phủ nhận tất cả mọi thứ khi cảnh sát xuất hiện.” Trông thấy Simon cau mặt lo lắng, Charlie vỗ vào cánh tay anh. “Em đùa đấy. Em hy vọng anh đã nói với Connie Bowskill rằng chồng chị ta trong sạch.”
“Chưa đâu. Anh không muốn làm cô ta hy vọng. Chỉ bởi vì không ai trong số những người hàng xóm từng nhìn thấy anh ta ở ngôi nhà đó không có nghĩa anh ta chưa từng tới đó. Biết đâu anh ta và Selina Gane rất cẩn thận. Không.” Simon thường làm như vậy khi anh đang trong chế độ bị ám ảnh: bày tỏ thành lời sự không tán thành với chính mình. “Họ không có quan hệ tình cảm. Không thể được. Vậy thì anh ta làm cái gì mà lại cài đặt địa chỉ nhà cô ta vào định vị là ‘Nhà’?”
“Sao họ lại không thể có quan hệ tình cảm với nhau?” Charlie hỏi.
Cô quan sát khi Simon nhận ra mình vừa nói gì, rằng anh đã nói năng có chút quá chắc chắn. Trông anh có vẻ bế tắc.
“Em xin lỗi, anh không muốn kể cho em toàn bộ câu chuyện ngay bây giờ ư?” Cô hỏi. “Anh định để dành câu mấu chốt cho tuần thứ hai ư?”
“Có điều này rất lạ khi anh nói chuyện với Selina Gane,” Simon nói.
“Thậm chí còn lạ lùng hơn, ý anh là vậy. Mọi chuyện vốn đã lạ sẵn rồi.”
“Anh cho cô ta xem bức hình, và không nhận được phản ứng gì cả. Cô ta không giỏi nói dối - anh nhận ra điều đó mười giây sau đấy - cho nên anh khá chắc việc không phản ứng của cô ta là thật. Gương mặt Kit Bowskill không có nghĩa lý gì với cô ta cả. Rồi anh bỏ tấm hình đi và hỏi cô ta có biết cái tên không. ‘Không.’ Cô ta nói. ‘Cô ta là ai? Tôi chưa từng nghe tên cô ta cả. ‘“
“Khá dễ hiểu.” Charlie ngáp dài. “Kit có thể là tên một người phụ nữ cũng có thể là đàn ông.” Cái nóng đang gây ảnh hưởng như thuốc an thần lên cô. Làm sao người ta có thể làm việc trong cái khí hậu này được? Nếu mình mà sống ở Tây Ban Nha, mình sẽ thành một con mèo mất, cô nghĩ.
“Khi anh trả lời Selina Gane rằng Kit Bowskill là một người đàn ông, có cái gì đó thay đổi trên gương mặt cô ta,” Simon nói.
Charlie không nhịn được. “Anh có thấy một ngọn núi trên đó không?”
“Cô ta rất ngạc nhiên - thậm chí là bị sốc. Có một thứ... anh không biết miêu tả nó như thế nào - bùng nổ trong đôi mắt cô ta là thứ cảm xúc ‘Không, không thể như vậy được’. Anh quan sát cô ta điều chỉnh lại những phỏng đoán của mình. Khi anh hỏi về nó, cô ta ngậm tăm, nhưng càng cố giấu thì cô ta càng lộ ra bản thân đang nói dối rõ ràng hơn.”
“Chuyện đó đúng là lạ lùng,” Charlie đồng ý. “Vậy thì...” Trong một giây, cô không thể nào hiểu được điều đó. Không ai lại phải suy nghĩ khổ sở như thế vào kỳ nghỉ. “Cô ta không biết mặt anh ta, còn không biết tên anh ta. Vậy thì...” Cuối cùng, bộ não bị nắng mặt trời làm cho kiệt quệ của cô bật ra câu hỏi mà nó đã mò mẫm từ nãy tới giờ. “Vậy thì tại sao cô ta lại chắc chắn đến thế rằng Kit Bowskill là một người phụ nữ?”
***
Khi Sam quay lại phòng Điều tra tội phạm của mình, không có dấu hiệu nào của Sellers hay Gibbs ở đó. Proust cũng không có ở văn phòng.
Sam kiểm tra email của mình. Anh có bảy thư mới, năm trong số đó trông như có thể lờ đi mà không gặp vấn đề gì, hai cái còn lại là từ thanh tra Ian Grint và Olivia Zailer, chị gái của Charlie. Sam mở thư từ Grint, người đã cố và thất bại trong việc liên lạc với anh. Sam không chắc anh còn năng lượng để gọi lại cho anh ta sau buổi làm việc kiệt sức với Connie Bowskill, anh cảm thấy mình như một bác sĩ tâm thần không được trả lương - một cuộc gặp như vậy nữa và chính anh sẽ phải đi gặp bác sĩ tâm thần. Grint có lẽ đã gọi để thông báo số điện thoại hiện thời của nhà Beater, đôi vợ chồng từng sở hữu số 11 Bentley Grove trước Selina Gane, Sam đã có lúc yêu cầu nó, nghĩ rằng mình có thể hỏi họ về vết ố của cây thông Giáng sinh trên tấm thảm. Anh tự mỉm cười với mình. Chắc Grint nghĩ anh điên thật rồi, Sam sẽ không trách cứ gì nếu anh ta nghĩ thế.
Email từ Olivia chứa đựng một chuỗi những chỉ dẫn khó hiểu, phủ định hai lần và những lời buộc tội không cụ thể úp úp mở mở - “Tôi không nói rằng anh nên hay không nên...”, “xin đừng, hay đúng hơn, chỉ làm nếu anh cảm thấy bắt buộc phải...”, “sau khi tôi đã xem xét lại, tôi quyết định rằng tôi chỉ là không thể không cho anh số...”, “rõ ràng là sẽ không một ai khác có ý định cho anh biết...” - và cung cấp cho Sam một phương tiện để liên lạc với Simon, điều đã đặt anh vào một tình thế mà anh sẵn sàng đánh đổi bất kỳ điều gì để không bị rơi vào. Không thể tha thứ cho việc làm phiền ai đó đang trong tuần trăng mật, dù chỉ bằng một cuộc điện thoại chóng vánh. Cuộc gọi mà, Sam phải thừa nhận, sẽ không thể ngắn gọn cho nổi. Có quá nhiều điều anh muốn hỏi Simon hay kể cho cậu ta, anh không chắc mình biết nên bắt đầu từ đâu. Tuần trăng mật sẽ kết thúc ngay khi anh kéo cậu ta vào, và Charlie sẽ hành quân vào phòng điều tra tội phạm để đập cho Sam bất tỉnh nhân sự bằng một cái va li nặng chịch.
Điện thoại trên bàn anh bắt đầu đổ chuông. Sam cầu nguyện đó sẽ là Simon, buồn chán, giết thời gian trong khi Charlie ngủ trưa, gọi với hy vọng được nói chuyện lâu lâu.
Đó là Ian Grint. Anh ta đi thẳng vào vấn đề mà không rào đón trước sau. “Xem ra cô nàng của anh đang nói thật. Tôi vừa có một người phụ nữ xuất hiện sáng nay, nhìn thấy chính xác cùng một thứ. Anh có tin vào thần giao cách cảm không? Tôi chưa từng, nhưng chắc phải bắt đầu tin.”
“Đó là...” Cái gì thế? Sam không biết. Anh không chắc mình đã kỳ vọng chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng chắc chắn không phải là chuyện này.
“Cùng một mô tả,” Grint nói. “Về người phụ nữ và căn phòng. Bản đồ được đóng khung, bàn cà phê, các tác phẩm. Người phụ nữ: thanh mảnh, nhỏ nhắn, váy họa tiết xanh lá và tím nhạt, mái tóc tối màu rũ rượi trải rộng, một bể máu lớn, tối màu hơn ở gần bụng. Thời điểm cũng trùng khớp nữa. Họ hẳn là đã nhấp nút xem tour ảo cách nhau vài giây. Có thể là hai người duy nhất trong cả nước làm việc đó, vì đó là hơn một giờ sáng.”
“Có thể không phải,” Sam nói. “Có thể những người khác đang trên đường tìm tới anh - hoặc không, bởi họ không biết chắc phải chứng minh việc họ đã thấy như thế nào.”
“Nó biến mất khỏi trang web gần như ngay sau khi hai người được biết nhìn thấy, không nghi ngờ gì cả,” Grint nói. “Jackie Napier - người phụ nữ ở đây - nói rằng cô ta đã tắt tour đi, rồi khởi động nó lại một lần nữa và cái xác không còn ở đấy. Đó chính xác là chuyện đã xảy ra với Bà Bowskill của anh đúng không?”
“Đúng vậy,” Sam nói với anh ta.
“Anh và cô ta có thể xuống đây sớm nhất là khi nào?” Grint hỏi.
“Tôi và... tôi và Connie Bowskill?” Anh mới thoát khỏi cơn kích động gần như không kiểm soát nổi của chị ta chưa đầy năm phút trước, và không hề mong muốn tìm gặp chị ta trong tương lai gần. Chị ta vừa gọi một chiếc taxi đến đón mình, bởi anh chồng đã lấy xe và bỏ lại chị ta không một phương tiện gì đi lại. Bây giờ chị ta có lẽ đã đi xa rồi. Nghĩ đến chuyện bỏ lại mọi thứ và đi tới Cambridge, Sam có thể tưởng tượng ra phản ứng của Proust. “Tôi không chắc mình có thể.”
“Ồ, anh có thể đấy, tin tôi đi.” Tiếng cười gằn của Grint cho thấy rõ rằng anh ta không lấy gì làm hài lòng. Sam nghe được sự nghiêm túc ẩn giấu, dấu hiệu của sự đe dọa. “Còn có vài chi tiết khác nữa, và tôi không thể nói qua điện thoại - anh cần trực tiếp nghe nó. Chúng ta đang có một mớ hỗn độn trong tay, những thứ anh chưa từng thấy trước đây. Tôi biết tôi cũng chưa từng thấy. Tôi cần cả hai người có mặt ở đây, anh và cô ta.”
Một vài giây sau, Sam gấp gáp chạy dọc hành lang, phòng trường hợp Connie Bowskill còn đang ở khu đỗ xe đợi chiếc taxi vẫn chưa tới.
TANG VẬT CảNH SÁT SỐ: CB13345/432/23IG
Gửi Elise, Donal, Riordan và Tilly
Chỉ là một lời nhắn ngắn gọn, rất muộn màng, để bày tỏ sự biết ơn VÔ CÙNG vì cuối tuần tuyệt vời! Đó chính là điều mà chúng mình cần sau một vài tháng căng thẳng như địa ngục - một liều thuốc bổ thực sự! Từng ngóc ngách Cambridge đều đẹp đúng như các cậu đã mô tả, chúng mình rất nóng lòng được tới thăm và ở lại một lần nữa! Trên đường về, chúng mình đã hỏi bọn trẻ điều chúng thích nhất trong kỳ nghỉ cuối tuần và chúng trả lời, “Tất cả mọi thứ” - cũng là câu nói tổng kết lại cảm nhận của chúng mình. Chuyến đi thuyền dọc con sông thật tuyệt đỉnh: những tòa nhà trường đại học tuyệt đẹp, mặt trời... Ồ, tiện đây, chúng mình nghĩ đã giải mã được bí ẩn của chiếc thuyền chúng ta đụng phải dưới cây cầu: “Bước Tới Thiên Đường”. Một người bạn của chúng mình tại đây là sinh viên trường đại học Trinity, và anh ấy nói họ có những chiếc thuyền riêng, và mỗi cái được đặt tên theo một thứ gì đó thuộc về một bộ ba - có một bài hát tên là “Ba Bước Tới Thiên Đường”, đúng không nào? Gene Vincent, hay là Eddie Cochrane hát nhỉ? Dù sao thì, chúng mình cũng đang cố gắng tìm hiểu xem những chiếc thuyền khác của Trinity sẽ được gọi là gì: Người Lính Ngự Lâm? Chú Chuột Mù? Nhà Thông Thái? Cho chúng mình biết nếu các cậu thấy bất kỳ cái thuyền nào trong số đó ở sông Cam (hoặc ở sông Granta, hoặc bất cứ nơi nào nữa!).
Nhà các cậu đẹp đến ngỡ ngàng - chúng mình rất ghen tị! Có cảm giác thoải mái như ở nhà chưa, hay các cậu vẫn cảm thấy như đang chơi đồ hàng? Mình nhớ các cậu cũng đã nói như vậy về chỗ cũ, và cảm thấy như thể ai đó có thể giành mất chỗ đấy khi các cậu không để ý! Thư giãn đi, nó là nhà của các cậu mà! Trong khi đấy, mình ước ai đó sẽ đến giật mất cái lều rách nát của mình đi cho rồi - tiện thể cả cái trần nhà bị dột luôn! Dù sao thì, cảm ơn các cậu lần nữa vì đã khiến cho gia đình mình cảm thấy được chào đón đến thế!
Leigh, Jules, Hamish và Ava
Tái bút: Jules khăng khăng rằng một trong những chiếc thuyền của Trinity phải là “Con Sư Tử Trên Áo Phông”, nhưng mình cho rằng như thế thì hơi quá!