Tôi bước ra ngoài cái nóng, dừng lại khi cơn choáng váng xâm chiếm. Tôi nhắm mắt lại và dựa vào bức tường của đồn cảnh sát, chống mình lên để đảm bảo bản thân không ngã vật xuống đất. Một chiếc xe ré còi. Tôi không thể biết nó ở cách bao xa. Có lẽ là chiếc taxi của tôi. Tôi nên nhìn xem, nhưng tôi biết rằng tốt hơn là không mạo hiểm khi tâm trí tôi đang vỡ ra thành từng mảnh xám xịt lờ nhờ. Tôi sẽ không mở mắt cho tới khi mình chắc chắn rằng thế giới trông sẽ bình thường trở lại. Điều tồi tệ nhất ở những cơn choáng váng này là sự méo mó thị giác. Nếu tôi cứ mở mắt ra, nó sẽ rất khủng khiếp - cảm giác như rơi xuống sâu hơn và sâu hơn vào trong đầu mình, bị một dòng chảy bên trong kéo đi khỏi đôi mắt mình, thứ vẫn cố định một chỗ trong khi tôi tuột dần vào thẳm sâu bên trong.
“Connie!” Chiếc xe lại bấm còi một lần nữa. Tôi nhận ra giọng nói, nhưng không thể nhận dạng người nói. Tôi vẫn đang dựa vào tường với đôi mắt nhắm nghiền thì cảm thấy một bàn tay đặt trên cánh tay mình. “Connie, chị có ổn không?”
Em gái tôi. Fran.
“Chỉ hơi váng vất tí thôi,” tôi cố nói. “Chị sẽ ổn ngay đây. Em đang làm gì ở đây? Sao em biết được...?”
“Em gọi cho Kit khi điện thoại của chị để chế độ tin nhắn thoại. Anh ấy bảo em là chị cần người chở về nhà.”
Bởi vì chị làm anh ấy tức giận, và anh ấy bỏ chị mắc kẹt ở đây.
“Em sẽ không đưa chị về nhà ngay đâu. Lên xe đi.”
Không đưa mình về nhà? Vậy thì đâu mới được? Tôi mở mắt. Một nửa chiếc Range Rover của Fran đậu trong chỗ để xe dành cho người tàn tật nằm gần tòa nhà nhất. Cánh cửa ghế lái và ghế phụ đang để mở. Nó làm tôi nghĩ đến một bộ phim mình đã xem khi còn bé về một chiếc xe thần kỳ có thể bay: những cánh cửa của nó là đôi cánh.
Fran đang mặc chiếc quần bò mài và áo bóng bầu dục sọc cam và trắng mà tôi coi là đồng phục mặc khi không làm việc của em ấy. Đôi khi, lúc tôi ở nhà em ấy và thấy chúng được phơi trên giá quần áo, tôi nghĩ đến chuyện trộm chúng và vứt đi, dù không thực sự có gì là sai với mấy cái áo đó cả.
“Chị đã gọi taxi rồi,” tôi nói. “Chị nên đợi.”
“Quên cái taxi đi. Em đã gọi cho Diane để nhờ làm thay em vào ngày nghỉ của cô ấy bởi vì em cần nói chuyện với chị - ngay bây giờ. Dù thích hay không, chị vẫn phải đi với em.”
“Đi đâu?”
“Phòng trà ở Silsford Castle. Chúng ta sẽ uống trà và nói chuyện.” Fran nói với chất giọng quyết tâm không lay chuyển được. Không có bất kỳ dấu hiệu nào trong tông giọng em ấy cho thấy cuộc nói chuyện sắp tới sẽ vui vẻ.
Tôi để mặc em ấy đẩy mình vào xe. Nó có mùi pha trộn giữa khoai tây chiên và khăn ướt trẻ em hương lô hội của hãng Johnson, loại mà em ấy luôn luôn dùng, dù cho Benji đã năm tuổi và hiện giờ không có em bé nào trong họ hàng. Tôi nhận thấy mình chẳng có quyền gì để cảm thấy khó chịu về việc này. Fran vào ghế lái, quẳng túi của em ấy vào lòng tôi và phóng đi, không buồn thắt dây an toàn.
“Sao lại là Silsford Castle?” tôi hỏi. “Sao không phải là chỗ nào đó trên đường về nhà?”
“Nhà ư? Nó nằm ở chỗ nào vậy?” Fran quay ra nhìn vào tôi, để kiểm tra xem những lời nói của em có làm tôi bị sốc theo ý em ấy đã định hay không.
“Cái gì?” Tôi quát. Một cơn đau nhói của nỗi sợ hãi làm dây thần kinh tôi xoắn cả lại. “Ý em là gì?”
Em ấy lắc đầu như thể muốn nói “thôi quên đi”. “Điện thoại của chị đã tắt chưa?” em hỏi.
“Không. Chị bật nó lên khi chị... “
“Tắt nó đi. Đừng hỏi tại sao, cứ làm đi. Em không muốn bị bất cứ ai xen vào.”
Tôi làm theo mệnh lệnh, nhận thức rằng có lẽ tôi nên phản đối, đó hẳn là phản ứng của hầu hết mọi người. Liệu nó có nói lên điều gì tệ hại về tôi, về việc tôi lại thấy dễ chịu khi được ra lệnh phải làm gì, để khỏi phải tự mình suy nghĩ?
Tại sao Fran hỏi tôi nhà ở đâu?
“Chị cần quay lại chỗ bác sĩ,” em nói khi chúng tôi bỏ lại trung tâm Spilling đằng sau.
“Để làm gì cơ chứ? Ông ta chẳng thấy điều gì bất thường ở chị cả.”
“Ông ta hẳn là không xem xét đủ kỹ,” em làu bàu.
Chúng tôi đi hết quãng đường còn lại trong im lặng. Khi Fran đỗ vào một trong năm chỗ đỗ xe dành cho người tàn tật trải đá cuội bên ngoài Silsford Castle, tôi không thể ngăn mình nói, “Em không được phép đỗ xe ở đây.”
“Em không quan tâm đến chuyện được phép. Và về mặt đạo đức thì em vẫn thấy ổn bởi vì em đi cùng với chị,” em nói. “Nếu đi bộ ra ngoài đồn cảnh sát và gần như gục ngã chẳng vì lý do gì không được tính là khuyết tật, thì em không biết thế nào mới được tính nữa.”
Tôi ghét con bé vì đã nói như thế, vì khiến tôi hoảng sợ về điều sẽ xảy ra khi tôi ra khỏi chiếc Range Rover. Liệu cơn choáng váng có tấn công lần nữa không? Nếu như tôi không có đủ thời gian để kiếm ra thứ gì tôi có thể dựa vào được?
Fran không hề hỏi tôi tình hình với cảnh sát như thế nào. Em ấy hẳn phải biết tại sao tôi ở đó.
Tôi không bị sao cả khi ra khỏi xe và hòa vào buổi chiều. Vậy nên không thể là vì đi từ trong nhà ra ngoài khiến tôi choáng váng được, và cũng không thể bởi phải đứng lên sau khi ngồi một lúc. Tất cả những gì tôi biết được, sau nhiều tháng theo dõi bản thân, là cơn xây xẩm bất cứ lúc nào, trong bất kỳ tình huống nào - không có cách nào dự đoán được nó. Hoặc né tránh nó.
Phòng trà ở Silsford Castle có mùi quế, bánh quy gừng và hoa hồng, vẫn như khi tôi còn bé. Tạp dề của những người phục vụ bàn cũng không thay đổi - chúng vẫn có màu lam nhạt, diềm xếp nếp, điểm chấm những bông hồng nhỏ xíu. Không cần hỏi xem tôi dùng gì, Fran gọi hai ly trà Earl Grey oải hương và đi về phía chiếc bàn tròn cạnh cửa sổ - chiếc bàn mà mẹ luôn đi thẳng tới mỗi khi bà mang chúng tôi tới đây lúc còn nhỏ, để dành cho chúng tôi cái bà gọi là “thết đãi cuối tuần”, sau chuyến đi sáng thứ Bảy tới thư viện.
Được rồi, nào, các cô gái - chúng ta sẽ đi lấy sách ở thư viện và đọc một cuốn trong khi nhà mình ăn bánh mềm sô-cô-la nhé?
“Sao chị lại ở đây?” Tôi hỏi Fran.
Em ấy nheo nheo mắt lại, nhìn chòng chọc vào tôi. “Có phải là Benji không?” em nói. “Hẳn rồi.”
“Có phải cái gì Benji cơ?”
“Lý do chị khó chịu với em.”
“Chị không có.”
“Nếu chị không muốn trông trẻ mỗi tối thứ Ba, chị không cần phải làm - chỉ cần nói ra thôi. Nói ra sự thật, Anton và em cũng không thoải mái với việc đó y như chị vậy. Nó giống như kiểu chị làm thay ca việc trông con trai chúng em. Thường thì cả ba người bọn em muốn tụ tập làm một việc gì đấy vào một ngày thứ Ba nào đó và chúng em không thể - mọi thứ đã được khắc sâu rằng chị phải trông Benji, hoặc đôi khi em có cảm giác như vậy.” Fran thở dài. “Quá nhiều lần em đã suýt gọi chị và hỏi xem liệu có ổn không nếu chúng em trông con chỉ một lần này thôi, và em lại nhát chết không dám làm, sợ rằng chị có thể cảm thấy phật ý. Thật nực cười. Tại sao em lại sợ phải thành thật với chị cơ chứ? Ngày xưa em đâu có như vậy.” Tôi không chắc liệu em đang tức giận với chính bản thân mình, hay là với tôi.
Thay ca trông con trai chúng em. Em ấy không tự nghĩ ra cụm từ đó hôm nay. Em và Anton đã nói xấu về tôi và Kit - có lẽ cũng nhiều như chúng tôi nói xấu về hai đứa.
Chính mẹ là người đã nói, sau lần đầu tiên tôi trông Benji, “Có lẽ việc này có thể diễn ra thường xuyên. Con và Kit giữ thằng bé mỗi tối thứ Ba, qua đêm - cho Fran và Anton được nghỉ ngơi, và cho các con cơ hội được thấu hiểu thằng bé, đấy là còn chưa kể đến chuyện luyện tập một chút trước khi hai đứa có con của riêng mình.” Chẳng quan trọng Fran hay tôi nghĩ gì, mẹ muốn chuyện diễn ra, thì chuyện diễn ra.
Đây không thể là lý do Fran đưa tôi tới đây, để nói về chuyện trông cháu. “Chị không quan tâm,” tôi bảo em. “Chị rất vui lòng được trông Benji mỗi thứ Ba, hoặc vài ngày thứ Ba, hoặc chẳng thứ Ba nào hết - em muốn sao cũng được. Em và Anton quyết định.”
Fran lắc đầu, như thể đáng ra có một điều đúng đắn để nói và điều tôi vừa nói thì lại không phải. Đôi khi tôi cảm thấy như thể, càng lúc càng rõ rệt hơn, tôi đang nói một ngôn ngữ khác với những người còn lại trong gia đình, phiên dịch theo cách nào cũng nhỏ thêm một giọt gây hấn, tráng thêm một lớp xúc phạm, thứ vốn không có trong câu nói ngay từ đầu.
“Ngôi nhà ở Cambridge, số 11 Bentley Grove đó - không phải chị định mua nó đâu, đúng không?”
Tại sao giọng điệu em ấy nghe có vẻ hân hoan chiến thắng, như thể vừa nắm thóp tôi? Tôi mở miệng định nhắc cho em ấy nhớ rằng mình không thể chi trả được một ngôi nhà 1,2-triệu-bảng, nhưng em át lời tôi: “Chị đang bán nó.”
“Cái gì cơ?”
“Thôi nào, Connie, đừng có quanh co với em nữa. Đó là nhà của chị. Chị sở hữu nó, chị và Kit. Anh chị là những người đã rao bán nó.”
Đây hẳn phải là một trong những điều phi lý nhất từng được nói với tôi từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ. Nó gần như đã làm tôi vui lên. Tôi bắt đầu cười, và rồi dừng lại khi thấy người phục vụ hướng về phía chúng tôi với chiếc xe đẩy. Khi bà dọn ra đĩa lót, tách, thìa, ấm trà, bình đựng sữa và đường, tôi có thể cảm nhận được sự sốt ruột của Fran tỏa ra từ bên kia bàn, em muốn một câu trả lời.
“Sao nào?” em nói, ngay khi người phục vụ rời đi.
“Đấy là điều điên rồ nhất chị từng được nghe. Em lấy cái ý tưởng ấy ở đâu ra vậy?”
“Đừng có nói dối em, Con. Em không biết việc một người phụ nữ nằm chết sấp mặt trên vũng máu liên quan đến câu chuyện kiểu gì - em chẳng tin là chị lại không dựng chuyện lên, dù em không hiểu tại sao chị lại... “
“Em im đi và nghe chị nói được không?” Tôi nạt. “Chị không bịa ra bất cứ chuyện gì hết - chị thấy thứ chị bảo với em là mình thấy. Em nghĩ đấy là ý tưởng về trò vui của chị à, dành cả buổi sáng ở đồn cảnh sát chẳng vì lý do gì? Chị không quan tâm em có tin chị hay không - đó là sự thật. Chị không sở hữu số 11 Bentley Grove. Một bác sĩ tên là Selina Gane sở hữu nó. Đi mà hỏi cảnh sát nếu em không tin chị.”
“Thế tại sao chị lại tìm xem nó trên Roundthehouses vào nửa đêm nửa hôm, nếu chị không sở hữu nó và cũng không đủ khả năng mua nó?” Fran hỏi. “Đừng giả vờ là chị chỉ lướt web chơi. Có một liên kết nào đó giữa ngôi nhà đó với chị và Kit.”
“Sao em biết được?” Chết tiệt. Tôi vừa thừa nhận là em ấy đúng à? Em ấy có vẻ cũng nghĩ thế, không thể không nhận ra tia sáng khải hoàn trong ánh mắt em ấy. Sao tôi không phải kẻ nói dối trơn tru hơn kia chứ? “Đột nhiên, chị lại quan tâm đến số 11 Bentley Grove,” tôi nói một cách cay đắng. Cảm thấy tức giận với Fran dễ hơn là với chính mình. “Vào hôm thứ Bảy em còn chả thèm quan tâm cái quái gì. Chị hỏi em liệu em có nghĩ chị tưởng tượng ra những gì mình thấy không - em có nhớ mình đã nói gì không? ‘Em không biết. Không nhất thiết. Có lẽ thế.’ Là như thế đấy - toàn bộ phản ứng của em, trước khi em hướng sự chú ý trở lại vào bữa tối của Benji.”
Fran rót đầy tách trà của cả hai chúng tôi. Tôi đợi em ấy tự bào chữa cho mình nhưng tất cả những gì em ấy làm là nhún vai. “Lúc đó em nên nói gì đây? Em còn không biết mình nghĩ gì - làm sao em có thể biết được liệu có thật là chị thấy xác một người phụ nữ nào đó trên Roundthehouses hay không? Mẹ và bố đều bắt đầu câu chuyện theo cách khác nhau - em thấy là chị có đủ thứ từ họ để đối mặt rồi, nên em lùi lại đằng sau.” Em đặt bình trà xuống và nhìn tôi. “Ngay khi em cho Benji đi ngủ xong hôm đó, em tự mình đăng nhập vào trang Roundthehouses. Trong khi chị đang ngộp thở vì sự thiếu quan tâm của em và chắc chắn là kể xấu em với Kit rồi, em ngồi nhìn những bức hình số 11 Bentley Grove. Em chẳng làm gì khác suốt cả buổi tối, dù cho những bức hình chẳng có gì thay đổi. Đấy là mức độ không quan tâm của em đấy.”
Điều gì đó khiến em kết nối giữa ngôi nhà với tôi và Kit. Tôi phải cố gắng mới nuốt trôi được trà trong miệng. “Em đã thấy gì rồi?” Tôi hỏi, giọng lạc đi. “Kể cho chị nghe.” Tại sao tôi lại không thấy nó, dù nó là gì đi nữa? Tôi đã dành nhiều tiếng đồng hồ quan sát.
“Chị thật thảm hại, Connie,” Fran nói một cách thẳng thừng, lờ đi câu hỏi của tôi. “Chị ngồi đó và chỉ nghĩ những chuyện tồi tệ nhất về người khác, ấp ủ ác cảm và sự oán giận, thổi phồng những chuyện ngu ngốc thành những vấn đề khổng lồ, bám dính lấy nó không chịu rời, quyết tâm không nói một lời về những điều đang làm phiền lòng chị để không ai có cơ hội giải thích rằng mọi người không đến nỗi tệ như chị quyết là vậy.”
“Em đã thấy gì, Fran?”
“Chị rùng mình mỗi khi mẹ mở miệng, cứ như thể mẹ là ác quỷ đeo găng tay lò nướng. Đúng, bà có thể khó chịu, nhưng chị nên làm điều em vẫn làm: bảo với bà hãy kiềm chế cảm xúc của mình đi và rồi tiến về phía trước, quên mọi chuyện đi. Tương tự với bố. Bảo tất cả nhà mình cút đi nếu chị muốn, nhưng hãy thẳng thắn về điều đó, vì Chúa.”
Fran rất thông minh. Em ấy khiến mọi thứ nghe thật dễ kiểm soát và bình thường. Lắng nghe lời em ấy nói, tôi gần như bắt đầu tin rằng gia đình Monk là một tổ chức hoàn toàn vô hại, rằng các thành viên của tổ chức này được phép rời khỏi Little Holling theo cách họ muốn và vào lúc họ thích, và sẽ không phải chịu bất cứ một tác dụng phụ nào khi lựa chọn theo đuổi thứ tự do ấy.
“Nói cho chị nghe em đã thấy gì,” tôi hỏi một lần nữa.
“Chị nói cho em trước,” Fran nói, vươn người về phía tôi qua bàn. “Tất cả mọi thứ. Số 11 Bentley Grove - có chuyện gì thế? Chết tiệt, Con, chúng ta là chị em hay người dưng nước lã? Cho em biết, bởi em có thể là một trong hai điều đó. Đây là lựa chọn của chị.”
“Phải. Đúng là như thế, nhỉ?” Em ấy mong tôi từ chối. Tôi sẽ làm em ấy ngạc nhiên. Em ấy đòi hỏi được biết mọi thứ, vậy thì tất cả mọi thứ là điều tôi sẽ cho em ấy: không chỉ những sự thật trần trụi, những hoán đổi của khả năng, tất cả những cách tôi đã dùng để thay đổi suy nghĩ rồi lại đổi về như cũ, đôi khi mười hoặc mười hai lần một ngày. Khi tôi nói chuyện, tôi bắt đầu cảm thấy thích thú. Tôi biết từ chính kinh nghiệm bản thân trong suốt sáu tháng khốn khổ vừa qua rằng câu chuyện tôi đang kể không đem lại sự thỏa mãn hay cái gì cũng được, chỉ là một chuỗi những vấn đề không thể giải quyết. Cứ để Fran bối rối như tôi, để em ấy bị cuốn vào cơn ác mộng không bao giờ chấm dứt. Tôi tự hỏi liệu em ấy có thể cảm thấy sự thỏa thê tà ác trong giọng nói của tôi trong lúc tôi đảm bảo rằng mình không bỏ qua một chi tiết nhỏ nào.
Khi tôi cuối cùng cũng kết thúc, trông em không có vẻ bối rối như tôi hy vọng. Em trông chẳng có vẻ gì ngạc nhiên, hay bị sốc. “Vậy chị đã gọi cho ông ta chưa?” em hỏi.
“Ai cơ?”
“Stephen Gilligan - cái người SG mà Kit có cuộc hẹn gặp vào ngày 13 tháng Năm. Chị đã gọi cho thư ký của ông ta, Joanne gì gì đó?”
“Joanne Biss. Chưa. Chị định gọi, lúc ngồi taxi trên đường về nhà, nhưng rồi em xuất hiện, và chị...”
Fran không thèm nghe nốt. Em đã lấy điện thoại ra, và chưa gì đã hỏi số điện thoại của văn phòng của Ngân hàng Liên Minh tư bản London tại Canary Wharf. Tôi nhắm mắt lại và chờ đợi, suy nghĩ về những gì Alice đã nói: rằng tôi không thực sự muốn biết sự thật về Kit. Cô ấy có nói đúng không? Liệu tôi có gọi cho Stephen Gilligan, nếu để tôi tự quyết định? Liệu đó có phải lý do tôi bị một cơn choáng váng ngay sau khi rời đồn cảnh sát, để tôi có thể tránh việc gọi điện?
“Joanne Biss, vâng,” Fran nói. “Ổn thôi. Tôi rất vui lòng chờ đợi.”
“Đáng ra chị định gọi.” Tôi bảo với em. “Khi chị về nhà.” Ánh mắt em lóe về phía tôi một tia nhìn ngờ vực. Tôi có thể tưởng tượng chính xác em đang nghĩ gì. “Tại sao chị lại phải tiêu tốn tiền bạc vào thám tử tư trong khi chị có thể tự mình theo dõi căn hộ Limehouse của Kit, không mất phí?” Tôi nói đầy vẻ phòng thủ.
“Chị đã làm thế chưa?” Fran hỏi.
“Chị đã lái xe tới đó vào buổi tối hai hay ba lần, ngồi bên ngoài trong bóng tối. Kit không bao giờ đóng rèm phòng khách và căn hộ thì nằm ở tầng trệt. Chị gọi cho anh ấy từ khu đỗ xe bên ngoài, giả vờ như chị đang gọi từ nhà. Chị quan sát anh ấy qua cửa sổ, uống rượu vang đỏ trong khi nói chuyện với chị - cùng loại rượu anh ấy uống ở nhà. Chưa bao giờ có ai ở cùng anh ấy ở đó.” Và khi anh mỉm cười, vẫn là nụ cười trìu mến tôi thường thấy trên gương mặt anh khi anh biết tôi đang quan sát. Tôi không thể nào đủ can đảm chia sẻ sự thật này với em gái tôi. Điều đó rất quan trọng với tôi, và tôi không tin tưởng để chia sẻ với em.
“Hai hay ba lần không chứng minh được điều gì cả,” em nói cộc cằn.
“Chị đã dành nhiều tiếng đồng hồ chờ đợi trong xe của mình trên phố Bentley Grove để thấy anh ấy ra khỏi nhà số 11. Chưa bao giờ xảy ra.” Tại sao tôi lại đang cố thuyết phục Fran rằng mọi chuyện đều ổn khi tôi biết rằng không phải thế?
Em ấy giơ một tay lên làm dấu để tôi im lặng rồi áp điện thoại lên tai. Tôi lắng nghe khi em ấy tự giới thiệu với Joanne Biss là nhân viên mới của Nulli, và hỏi về cuộc gặp giữa Kit và Stephen Gilligan vào thứ Năm ngày 13 tháng Năm - nó có diễn ra như kế hoạch không, hay đã bị hủy? Em ấy không nói gì về lý do mình cần được biết, nhưng giọng nói của em ấy lộ rõ sự tự tin và quyền lực của một người cảm thấy không cần phải giải thích gì cả. Tôi chưa bao giờ có được tông giọng đặc biệt ấy, tôi sẽ nói một cách lo lắng và nghe có vẻ dối trá, và hẳn là sẽ bị chất vấn tại sao tôi lại cần thông tin về một cuộc gặp từ hai tháng trước. Một vài giây sau, Fran cảm ơn Joanne Biss và nói tạm biệt.
“Kit đã nói sự thật,” em nói, đặt điện thoại xuống bàn. Giọng em nghe có vẻ thất vọng. “Anh ấy và Stephen Gilligan gặp nhau vào hôm thứ Năm ngày 13 tháng Năm lúc ba giờ.”
Cảm giác như thể một đám mây tối đen khổng lồ đã được dời đi.
“Kit có thể đã gọi cho Joanne Biss và bảo cô ta phải nói gì,” Fran nói. “Anh ấy có dư thời gian. Kể cả không phải thế, kể cả khi SG trong nhật ký của anh ấy đúng là Stephen Gilligan, như thế cũng không có nghĩa anh ấy không ngoại tình với cô ả Selina Gane kia.”
“Điều đó có nghĩa anh ấy có thể không phải thế,” tôi nói, cảm thấy đã lâu lắm rồi mình mới lạc quan như vậy. “Chẳng có gì liên hệ anh ấy với cô ả - không có gì hết - ngoại trừ địa chỉ của cô ả trong định vị của anh ấy là ‘Nhà’. Và có thể anh ấy không phải người đã cài nó vào đó. Có thể một ai khác đã làm thế.” Tiếp tục đi. Nói đi. “Có thể em đã làm thế. Hoặc Anton.” Thật khó để xua đuổi một mối nghi ngờ một khi nó đã cắm chốt bên trong bạn, việc thay đổi hướng tập trung của nó dễ hơn nhiều việc trục xuất tận gốc nó.
“Em sẽ chẳng thèm phản ứng với cái đó,” Fran nói một cách mất kiên nhẫn. “Em hoặc Anton,” em làu bàu. “Tại sao chúng em lại làm thế chứ?”
Bởi vì em ghen tị. Bởi vì bọn chị có nhiều tiền hơn, bởi vì Kit thành công còn Anton thì không.
“Tại sao em lại nhanh chóng nghĩ tới những điều xấu xa nhất về Kit vậy?” tôi khởi động đợt tấn công của mình, trước khi Fran nhận thấy và chỉ ra sự đạo đức giả của tôi. “Sao em không kể cho chị những gì mà em cần phải nói cho chị biết ấy?” Nếu chuyện đó là thật, chẳng phải là em ấy đã kể luôn với tôi rồi? Liệu em ấy có đủ thông minh và đê tiện để thêu dệt nên một kế hoạch tỉ mỉ nhằm phá hoại cuộc hôn nhân của tôi và phá hủy thần trí tôi, một kế hoạch rắc rối và gian xảo đến mức thậm chí tôi còn không biết bắt đầu suy từ đâu?
Mẹ nó, Connie - em ấy là em gái mày đấy. Mày đã biết em ấy cả cuộc đời rồi. Tỉnh lại đi.
Fran không thể nào khiến xác một người phụ nữ xuất hiện trên màn hình máy tính của tôi được. Em không thể có bất kỳ mối liên quan nào đến số 11 Bentley Grove. Em chưa từng tới Cambridge, em chưa từng đi bất cứ đâu ngoài Monk & Sons, trường học của Benji, siêu thị và nhà bố mẹ.
“Em không thể nào quan sát những tấm hình của số 11 Bentley Grove cẩn thận hơn chị được,” tôi nói trong run rẩy. “Không có dấu hiệu gì của Kit trong những bức ảnh đó, và chẳng có gì liên hệ anh ấy với Selina Gane. Không có gì cả. Đó thậm chí còn chẳng phải kiểu nhà của anh ấy. Kit sẽ không bao giờ gọi một nơi như thế là ‘Nhà’ - một cái hộp hiện đại, không có cá tính, được bao bọc bởi những bản sao của chính nó, những ngôi nhà hiện đại không có cá...”
“Trưởng thành lên tí đi, Connie, có được không?” Fran gắt. “Nếu si mê người phụ nữ trong nhà, anh ta sẽ chẳng thèm quan tâm quái gì đến sự thiếu hụt của gờ đắp nổi và họa tiết hoa hồng trên trần nhà. Chị đã quên cảm giác khi yêu là thế nào rồi ư?” Em nhếch mép cười với chính mình. “Em gần như đã từng, nhưng không hẳn. Em có thể kể cho chị ngay bây giờ: nếu như em đã mê như điếu đổ một người nào đó, em sẵn lòng sống ở bất kỳ đâu cùng người ta. Em sẽ sống ở một ngôi nhà hội đồng ở Brixton, hay một nơi nào đó ảm đạm tương đương - những tòa nhà cao tầng gớm ghiếc ấy.” Em nhăn mũi lại trong sự chán ghét.
Tôi gần như bật cười. Hầu hết những người ở Brixton sẽ cảm thấy bản thân thật bất hạnh nếu họ phải dành thời gian, dù chỉ nửa tiếng đồng hồ, ở Little Holling. Trong một phần tư khoảng thời gian ấy, họ thử nghiệm mọi thứ có ở đó, và sẽ tự hỏi tại sao cư dân ở đây chưa đào thoát khỏi chốn tươi xanh tĩnh lặng chết người này và chạy tới thành phố náo nhiệt gần nhất với tốc độ một trăm dặm một giờ.
“Ai cũng có thể cài đặt cái địa chỉ đó vào định vị của Kit,” tôi bảo Fran. “Một ai đó ở cửa hàng, như lời anh ấy nói.” Tôi có tin vào điều mình đang nói không, hay tôi đã mặc kệ mọi thứ ngoại trừ khao khát trở thành người chiến thắng ở đây? Nếu như Fran đang bảo vệ Kit, liệu tôi có khăng khăng anh ấy là một kẻ dối trá không? “Trừ phi em có thể chứng minh anh ấy đã nói dối chị...”
“Em không thể,” Fran cắt lời. “Nhìn này, em nghĩ mình nhìn thấy cái gì đó trên Roundthehouses, chỉ thế thôi. Có thể em sai, em không biết nữa. Em có thể thấy rằng chị không hề nóng lòng muốn tìm ra đó là gì.”
“Không phải chị đang phủ nhận thực tế, Fran. Chỉ là chị đang bắt đầu suy nghĩ một cách lý trí - cố gắng cứu vãn cuộc hôn nhân của chị, thứ mà trong suốt sáu tháng qua chị đã phá nát bằng những lời buộc tội và hoài nghi.” Tôi nuốt ngược nước mắt. “Chị đã luôn tra tấn Kit - không hề nói quá đâu, tin chị đi. Cật vấn anh ấy liên miên, quay lưng vào anh ấy khi nằm chung giường... Anh ấy đã thật kiên nhẫn và thấu hiểu - bất kỳ ai khác cũng có thể đã rời bỏ chị rồi. Em có biết hôm trước chị đã làm gì không? Chị về nhà từ cửa hàng và anh ấy ở trong nhà tắm khóa trái cửa. Anh ấy chưa bao giờ khóa cửa cả. Chị bắt anh ấy mở cửa. Đầu tiên anh ấy không chịu, nói rằng đang ngâm mình trong bồn, nhưng chị biết là không phải thế. Chị nghe tiếng anh ấy đi lại. Chị khăng khăng đòi. Bảo rằng chị sẽ bỏ anh ấy nếu không chịu cho chị vào ngay lập tức. Chị nghĩ chắc anh ấy vào đó để gọi điện cho cô ả - Selina Gane, dù lúc đó chị chưa biết tên cô ả. Khi anh ấy tháo khóa và mở cửa, chị đã trông chờ sẽ thấy anh ấy cầm trên tay chiếc điện thoại với vẻ mặt tội lỗi, hay cố gắng xả nó xuống bồn cầu hoặc đại loại thế. Chị đã nghĩ, cuối cùng thì, thế này đây - chị sẽ tóm lấy cái điện thoại của anh ấy và tìm ra tên cùng số điện thoại của cô ả, rồi chị sẽ có bằng chứng. Chị đã xem xét điện thoại của anh ấy từ trước và không tìm ra gì cả, nhưng chị nghĩ có thể lần này...” tôi ngừng lại. Thật khó để miêu tả một trạng thái tinh thần mà giờ đây dường như quá đỗi xa lạ. Như thể tôi đang báo cáo lại hành vi của một người khác, một kẻ tâm thần.
“Tim chị đập nhanh đến nỗi chị nghĩ nó sẽ nổ tung mất. Và rồi chị thấy dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật” trên một cuộn giấy gói bên chân Kit, và một chiếc túi xách Chongololo. Kéo và băng dính...” tôi lấy tay mình che mặt. “Con người tội nghiệp đó đang cố gắng bọc quà sinh nhật cho chị, không phải che giấu một chiếc điện thoại khỏi tầm mắt. Anh ấy đang làm một việc tử tế cho chị, và chị đã phá hỏng nó. Sự nghi ngờ của chị đã phá hoại điều đó, như cách nó phá nát mọi thứ. Chị hẳn sẽ tức giận lắm nếu có ai đó làm vậy với mình, nhưng Kit thì không. Anh ấy cố làm chị cảm thấy khá hơn - kiên quyết nói rằng chị không làm hỏng điều gì cả, rằng món quà của chị vẫn là một bất ngờ. ‘Tất cả những gì em biết là nó từ Chongololo,’ anh ấy nói, ‘mà em thậm chí còn không biết điều đó. Chiếc túi có thể chỉ là mồi nhử. Em còn không biết có quần áo bên trong đó hay không.’“
“Vì Chúa, làm ơn đừng tự trừng phạt mình nữa,” Fran nói. “Để em cho chị xem cái mà em đã thấy trên Roundthehouses. Một khi chị thấy nó rồi, có muốn tin Kit hay không là tùy vào chị. Đi nào.” Em đứng dậy.
Tôi làm theo một cách tự động. “Chúng ta đi đâu đây?”
“Sang bên cạnh, tới thư viện. Chúng ta có thể lên mạng ở đó.”
Thế này tốt đấy, tôi tự nhủ khi hai chúng tôi đi xuống cầu thang xoắn ốc bằng đá và ra khỏi quán. Đây là một cuộc kiểm tra, và tôi sẽ vượt qua. Cứ để Fran tung ra quân át chủ bài, dù nó có là gì đi nữa. Tôi biết không có điểm gì trong những bức ảnh về số 11 Bentley Grove trên trang Roundthehouse mà lại có liên quan đến Kit, vậy nên tôi chẳng có gì phải sợ cả.
Tôi không thể tin là Fran lại sẵn sàng nghĩ ra những điều xấu xa nhất về anh. Sao em ấy lại dám cơ chứ?
Quay trở lại ngôi nhà kính với chiếc túi đựng đá lớn, phải không?
“Nhắc đến Chongololo, cái áo khoác hồng của chị đâu rồi?” em hỏi, khi chúng tôi đi bộ sang đường để tới thư viện.
“Áo khoác? Trời đang ấm, nếu em không nhận ra.”
“Nó đâu rồi?”
“Chị không biết. Trong tủ quần áo của chị, chắc thế.”
“Nó có màu hồng tươi, Con. Nếu nó ở trong tủ, chị sẽ phải thấy nó mỗi ngày - nó sẽ đập vào mắt chị.”
“Có thể nó được treo trên những cái móc gần cửa sau. Tại sao chứ?”
“Em muốn mượn nó,” Fran nói.
“Vào tháng Bảy ư?”
“Đã lâu lắm rồi chị không mặc nó,” em tiếp tục nói, không nhìn vào tôi. “Có thể chị đã ném nó đi rồi.”
“Không, không có chuyện... ồ, chị biết nó ở đâu rồi - trong xe của Kit, đằng sau ghế hậu, bị nhét vào phía sau chỗ dựa đầu. Nó đã ở đấy được khoảng hai năm rồi. Chị sẽ lôi ra cho em nếu em thực sự muốn nó. Chị cứ nghĩ em ghét màu hồng cơ.”
Một biểu cảm căng thẳng hiện lên trên mặt Fran khi chúng tôi bước vào thư viện. Tôi muốn hỏi thêm vài câu hỏi, nhưng em ấy còn đang bận thu hút sự chú ý của người thủ thư. Về phía bên phải của cánh cửa chính, bốn chiếc bàn hình chữ nhật màu xám được đẩy vào cạnh nhau tạo thành một hình vuông lớn. Xung quanh đó, những người phụ nữ độ hai mươi tuổi, trung tuổi và già lão cùng với một người đàn ông trẻ có bộ râu tí hin nhất mà tôi từng thấy đang uống trà cam từ những chiếc cốc giấy và ngắt lời nhau. Đó hẳn là một buổi gặp mặt của hội những người đọc sách, trên bàn đầy các bản in của một cuốn sách tên là Nếu Không Ai Nói Về Những Điều Đáng Lưu Tâm.
Tôi rất thích tham gia vào một hội đọc sách, nhưng không phải hội ở Silsford. Brixton, có lẽ thế.
Khu trẻ em đầy những bà mẹ đang cầu xin những đứa con của mình, đang cười rúc rích và kêu ré lên, hãy nhỏ tiếng thôi. Hồi mẹ còn mang tôi và Fran đến đây, chúng tôi yên lặng ngay từ giây phút đặt chân vào đây cho tới khi rời đi. Chúng tôi giao tiếp bằng cách chỉ tay và gật đầu, sợ hãi rằng những người thủ thư sẽ ném chúng tôi ra cửa nếu chúng tôi mở miệng. Hẳn là mẹ đã bảo với chúng tôi họ sẽ làm thế. Tôi còn nhớ mình từng nghe thấy những đứa trẻ khác thì thầm một cách phấn khích về cuốn sách nào của Enid Blyton mà chúng đã đọc và chưa đọc, tôi luôn tự hỏi tại sao chúng lại không sợ chết khiếp như tôi.
Fran vẫy tay gọi tôi lại. Biết rằng mình sắp sửa nhìn thấy số 11 Bentley Grove một lần nữa, tôi phải cố ép bản thân di chuyển về phía màn hình. Trong một khoảnh khắc điên rồ, tôi tưởng tượng ra Selina Gane sẽ xuất hiện từ phía sau một giá sách và bắt quả tang tôi có hành động gián điệp ảo: Tại sao cô vẫn đang nhìn ngó nhà tôi? Tại sao cô không thể để tôi được yên?
Tôi đứng sau lưng Fran, thẳng người lên, chờ đợi em ấy nhấn vào nút xem tour ảo. Nhưng thay vào đó, em ấy chọn nút bên cạnh: Cảnh Đường Phố. Em nhấn một lần nữa nhằm mở rộng bức hình con đường khi nó hiện lên, để tấm hình trải ra toàn màn hình. Nó hơi nhòe một chút, như thể được chụp từ một chiếc xe đang chạy. “Đấy không phải số 11,” tôi nói. “Đấy là phía bên kia, và xa hơn xuống dưới - số 20 hay đại loại thế.” Có những đường kẻ trắng và biểu tượng mũi tên chồng lên bức hình, để di chuyển lên và xuống con phố. Dù chúng có vẻ đồng bộ và nhân bản thế nào đi nữa, những ngôi nhà ở Bentley Grove trông chỉ giống hệt nhau với những ai chưa từng dành ra hầu hết các ngày thứ Sáu trong suốt sáu tháng để đồng hành với chúng, tôi biết rõ đường viền của từng tấm rèm, những hạt đính trang trí của từng bức mành.
“Vậy hãy quay lại và tìm số 11 nào,” Fran nói, thận trọng di chuột. Tôi quan sát khi con phố Bentley Grove bắt đầu xoay vòng.
Con đường xoay vòng, căn phòng khách xoay vòng. Xác một người phụ nữ xoay vòng vòng trong bể máu.
Tôi túm lấy lưng ghế của Fran và ra lệnh bản thân mình không được phép choáng váng, không phải bây giờ. Trong sự ngạc nhiên và nhẹ nhõm của tôi, cách đó lại có hiệu quả.
Giờ chúng tôi đang đối mặt với hướng đi đúng. “Đi một chút về phía bên trái,” tôi nói với Fran, dù em ấy không cần sự chỉ dẫn của tôi, em hẳn đã tập luyện ở nhà rồi. Em nhấn vào một mũi tên trắng và chúng tôi được đưa tới số 9. Cửa chính đang mở. Có bóng dáng lờ mờ của mái tóc xù màu trắng và bộ áo choàng tắm màu đỏ ở ngưỡng cửa: ông già nhỏ thó lưng gù sống ở đó. Ông ta đang nắm lấy chiếc gậy chống. Tôi không nghĩ ông có thể đi nổi vài bước chân mà không có nó. Tôi vẫn thường thấy ông, bằng xương bằng thịt - hay bằng những gì còn lại, khiến ông trông như thể một trăm năm mươi tuổi. Ông cứ đi cà nhắc từ nhà mình ra chỗ những chiếc thùng rác được đặt vòng tròn kiểu Stonehenge ở giữa vườn trước. Không hề có ngoại lệ, tất cả những cư dân khác của Bentley Grove đều để thùng rác của họ ở trong ga-ra.
Tôi chờ đợi Fran nhấn vào mũi tên trắng một lần nữa, nhưng em không làm thế. Em quay lại và ngẩng lên nhìn vào tôi. “Đó là số 9,” tôi nói. “Không phải số 11.”
“Quên ngôi nhà đi. Nhìn vào chiếc xe đang đi ra từ lề đường kìa. Biển số xe bị mờ, thật bực mình, nhưng kể cả như thế...”
Một vị chua gắt lấp đầy miệng tôi. Tôi muốn nói với Fran là em đang hành xử lố bịch, nhưng tôi không thể nói được gì, tôi cần toàn bộ năng lượng của mình để xua đuổi cơn sợ hãi và hoảng loạn đang trào lên trong tôi. Không. Em ấy sai rồi.
“Ngay khi em thấy nó, em đã nghĩ, ‘Họ đã xem ngôi nhà rồi. Mình cá là họ đã chào mua rồi.’ Và rồi em nhớ là chị đã nghiêm túc hứa với bố mẹ rằng chị không định mua nó, và em tự hỏi liệu như thế có phải vì chị vốn sở hữu nó ngay từ đầu hay không. Chị đang bán nó - đó là lý do chị lại đặc biệt quan tâm đến ngôi nhà đó như vậy. Phải thừa nhận là em có hơi quá đà. Em đi đến kết luận là chị và Kit đã bí mật trở thành triệu phú hàng năm rồi, giấu giếm gia đình mình.” Tông giọng Fran nghe hời hợt và xấc xược. Em ấy thích thú chuyện này lắm sao? “Tất nhiên, nếu đó là nhà hai người, chị đáng ra phải để xe ở chỗ đỗ, không phải trên vệ đường. Em không hiểu tại sao mình lại không nghĩ ra. Những ngôi nhà ở Bentley Grove có đường lái xe vào nhà rất rộng. Kit có thể đỗ xe ngay bên ngoài cửa trước số 11 Bentley Grove, nhưng anh ấy không làm thế, phải không?”
Nói với em ấy đi. Nói rằng em ấy đang nói chuyện vớ vẩn, rằng mày không muốn nghe nữa.
“Không, nếu như anh ấy đúng ra không nên ở đó,” Fran tiếp tục, bắn một tràng câu từ vào tôi quá nhanh. “Anh ấy không muốn bất kỳ ai liên hệ được anh ấy với Selina Gane. Trong khi đó, nếu như anh ấy đỗ xe ở vỉa hè, bên ngoài ngôi nhà hàng xóm...”
“Không có mối liên hệ nào cả,” tôi cố gắng nói trước khi tâm trí lại mờ nhòe, cuộn các góc của những suy nghĩ trong tôi lại. Tôi nhắm mắt, chào đón sự trống rỗng thần trí xuất hiện. Xua nó biến đi, toàn bộ chuyện này. Khi màu xám xịt nhơ nhuốc bao trùm lấy và kéo tôi xuống, tôi nhận ra rằng chẳng có ích gì, nó chẳng có hiệu quả. Tôi đã mang theo điều mình muốn bỏ lại phía sau nhất: hình ảnh chiếc xe của Kit trên phố Bentley Grove, đánh xe ra khỏi vệ đường, với chiếc áo khoác Chongololo hồng của tôi lồ lộ qua tấm kính chắn gió phía sau, bị nhét vào giữa chỗ kê đầu của ghế hậu.