"Anh cần em làm một chuyện cho anh.”
“Em cũng chào anh.” Charlie làm mặt thô lỗ với cái điện thoại. “Em ổn, cảm ơn vì đã hỏi. Anh đang ở đâu?”
“Liên hệ với Alice Fancourt, sắp xếp một cuộc gặp với cô ấy sớm nhất có thể. Alice Bean chứ, xin lỗi - cô ấy đã bỏ họ Fancourt rồi. Tìm hiểu xem lần cuối cô ấy gặp Connie Bowskill là lúc nào và điều gì...”
“Oaa, đợi một phút đã.” Đây là kiểu hội thoại cần đến sự góp mặt của một ly rượu: vang trắng, lạnh, hoàn toàn không ngọt. Charlie nhấn nút tạm dừng trên điều khiển từ xa, lê mình khỏi ghế sô-pha và đóng rèm phòng khách lại kín hết mức có thể. Hai bên rèm không gặp nhau ở giữa, cô đã treo nó quá ẩu. Liv từng bảo “Tháo chúng xuống và treo lại cho đúng cách đi,” nhưng theo như Charlie nhận thấy, rèm cửa thuộc vào loại chỉ có duy nhất một cơ hội. Chị em cũng vậy.
Cô sẽ không bao giờ thừa nhận với bất kỳ ai, nhưng cô rất vui mừng khi được về nhà - lại một lần nữa được làm nữ hoàng của một ngôi nhà ống nhỏ, bài trí xấu xí, không còn là một kẻ ngoại đạo ở thiên đường nữa. “Connie Bowskill biết Alice ư?” cô nói, cố ghìm cái ngáp.
“Alice là người chữa bệnh theo liệu pháp vi lượng đồng căn của cô ta,” Simon nói. “Anh cần được biết lần cuối hai người gặp nhau, Connie đã nói những gì, liệu cô ấy có biết chút manh mối gì về nơi Connie hiện đang ở không.”
“Dù có nguy cơ bị coi là ích kỷ, em muốn biết bản danh sách cần làm đó có liên quan gì đến em không? Em đang xem DVD.” Cho tới giờ thì nó vẫn rất hay. Tội Ác Tiềm Ẩn. Vai chính là một đứa con nuôi bị tâm thần tên là Esther, kẻ dường như có ý định sát hại tất cả anh chị em của mình. Charlie cảm thấy đồng điệu mãnh liệt với con bé, dù cô ngờ rằng đó không phải là phản ứng mà đạo diễn hy vọng khơi gợi nên.
“Anh không thể nói chuyện với Alice được, đúng không?” Simon nói một cách nôn nóng.
“Cả hai người đều có miệng và có tai, lần cuối em kiểm tra là như vậy. Ý anh là anh không muốn nói chuyện với cô ta.” Charlie tự rót cho mình một ly rượu vang, mừng là anh không trực tiếp có mặt ở đây để trông thấy cô cười. Nụ cười nhạt dần khi cô nghĩ ra rằng việc anh không muốn nói chuyện với Alice có thể được hiểu theo rất nhiều cách: không ưa, ngại ngùng, nỗi ác cảm khi phải gặp lại quá khứ. Bất kỳ cái nào trong số đó cũng ổn thôi, Charlie nghĩ, đặt lại rượu vào trong tủ lạnh. Tình yêu đơn phương tàn héo - kiểu tình yêu mà anh biết rằng nó sẽ bị phóng đại thành nỗi đau đớn khổ sở hơn khi phải đối mặt với đối tượng của mình. Không. Lố bịch. Có thể thấy rõ trong giọng nói của anh rằng Alice chỉ là một phương tiện để đạt được mục đích. Connie mới là người anh đang quan tâm bây giờ. Và không, Charlie khẳng định chắc chắn với bản thân mình - không phải theo cách đó.
“Anh không muốn nói chuyện với Alice, không đâu,” Simon đáp.
Charlie cũng không muốn, nhưng cô biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô từ chối: anh sẽ vượt qua sự ngần ngại của mình và làm điều anh phải làm để có được những thông tin anh muốn. Đây là cơ hội của cô để ngăn chặn một cuộc tái ngộ. “Được rồi, em sẽ giúp. Anh ở đâu?”
“Vẫn ở Cambridge.”
“Anh sắp về chưa?”
“Chưa. Anh sẽ tới Bracknell để nói chuyện với bố mẹ của Kit Bowskill?”
“Bây giờ ư? Khi anh đến nơi thì nửa đêm mất rồi.”
“Họ sẵn sàng đón tiếp anh ngay đầu buổi sáng rồi. Anh sẽ ở lại trong xe ô tô bên ngoài nhà của họ.” Đoán trước sự phản đối của cô, anh nói, “Anh quay về nhà chỉ để dành ra vài tiếng đồng hồ trên giường thì chẳng có ích gì. Dù sao thì anh cũng sẽ không ngủ.”
Cứ như kiểu chẳng có việc gì khác để làm trên giường ngoài ngủ ấy.
“Vậy là...” Anh đang trình bày quá nhanh so với cô hiểu. “Kit Bowskill cho anh số điện thoại của bố mẹ mình?” Tại sao anh ta lại làm thế? Tại sao Simon lại hỏi xin số?
“Danh bạ điện thoại cho anh số. Chỉ có duy nhất một Bowskill ở Bracknell - vần N cho Nigel.”
“Nhưng... anh đã gặp Kit Bowskill rồi?”
“Ừ. Hỏi anh ta tận ba lần liền nguyên do gây ra sự chia rẽ giữa anh ta và người thân. Hai lần đầu anh ta tránh né câu hỏi. Phải đến câu trả lời thứ ba mới cho thấy anh ta đang che giấu điều gì đó đáng để tâm. Anh ta cho anh một thứ mà bề ngoài có vẻ như là một câu trả lời đầy đủ, nhưng nó hoàn toàn chỉ để gây nhiễu về tâm lý - dùng rất nhiều từ ngữ để làm anh phân tâm, để anh không nhận ra là anh ta đang không cho anh biết gì hết. Anh ta nói bố mẹ mình không chịu ‘đoàn kết lại’, không chịu trở thành gia đình với Connie khi cô ta cần đến. Điều đó gần như chẳng có nghĩa lý gì.”
“Có thể anh ta đã quyết định rằng đó không phải là việc của anh?” Charlie hỏi. Cô có thể hiểu được tại sao Kit Bowskill từ chối thảo luận về mối quan hệ đã bị tàn phá nghiêm trọng với một tay thám tử cộc cằn anh ta chưa từng gặp bao giờ.
“Không. Anh ta đang sợ hãi.” Dừng một lúc, Simon thêm vào. “Anh ta là kẻ xấu. Đừng bắt anh phải chứng minh bởi vì anh không thể. Chưa thôi.”
“Anh còn không biết được liệu có kẻ xấu ở đây không.”
“Anh ta nói với anh là Connie không muốn nói chuyện với anh - cô ta đang tức giận vì anh đi xa mà không nói cho cô ta biết. Như thế nghe có ổn không?”
“Có đấy,” Charlie nói. “Lúc trước, em cũng tức giận với anh, vì anh khởi hành đi Cambridge mà không nói cho em. Em đáng ra có thể đi cùng anh.”
“Nếu như anh ta cũng đã giết vợ, và đó là lý do cô ta không trả lời điện thoại thì sao?”
“Hoàn toàn do anh phỏng đoán, Simon.”
“Em biết được bao nhiêu người cắt đứt quan hệ với bố mẹ mình?”
“Anh bị ám ảnh với bố mẹ của Kit Bowskill rồi,” Charlie càu nhàu.
“Kể từ bây giờ, đây sẽ là nguyên tắc xuyên suốt dẫn dắt cho anh: bất cứ khi nào có hai người nói những điều sai khác và anh không biết phải tin ai, nếu một trong số họ từ bỏ hai con người mang họ tới cuộc đời này, anh sẽ tin người còn lại.”
“Như thế... thật sự ngu ngốc.” Charlie cười và nhấp một ngụm rượu.
“Không, không hề.”
“Chà - thật là một luận điệu thuyết phục.”
“Mỗi ngày trôi qua trong cuộc đời, anh đều nghĩ đến việc mẹ mình chết đi - từng ngày một. Anh nghĩ về việc mình sẽ cảm thấy tự do thế nào. Và rồi anh nhận ra có lẽ bà sẽ sống thêm ba chục năm nữa.”
Charlie chờ đợi. Đếm từng giây: một, hai, ba, bốn, năm, sáu...
“Vấn đề là, anh sẽ không bao giờ định nói với bà, ‘Rất tiếc, mẹ hãy bước ra khỏi cuộc đời con đi,’“ Simon tiếp tục. “Bất kỳ ai có trái tim đều biết bố mẹ mình sẽ cảm thấy thế nào khi nghe những lời đó, bất kỳ ai có khả năng thông cảm với người khác dù chỉ một chút...” Hơi thở giữa từng câu chữ nghe còn rõ hơn lời nói. Simon sẽ không muốn thảo luận trực tiếp chuyện này, Charlie đoán, chỉ có khoảng cách mới khiến cuộc hội thoại này khả thi với anh. “Không có đứa con nào nên từ mặt bố mẹ mình, không thể nào nếu không có cơ sở vững chắc,” anh nói. “Không thể nào trừ phi đó là chuyện sống chết.”
Charlie không chắc là mình đồng ý, nhưng cô tạo ra một âm thanh khiến Simon nghĩ rằng cô cũng đồng quan điểm. “Nếu Kit Bowskill không muốn nói cho anh biết chuyện gì đã xảy ra, có khả năng là bố và mẹ anh ta cũng sẽ không chịu nói đâu,” cô chỉ ra.
“Rủi ro đó anh phải chấp nhận thôi.”
Chấp nhận đi, Zailer: anh ấy sẽ không về nhà đâu.
Charlie mang theo ly rượu vang vào phòng khách và buông mình xuống ghế sô-pha. Đứa trẻ mồ côi tâm thần Esther, bất động một chỗ, quắc mắt với cô từ màn hình ti vi. “Kể cả khi bố mẹ anh ta kể cho anh lý do xảy ra sự rạn nứt đó, vậy thì sao chứ?” cô hỏi. “Làm sao mà nó lại liên quan chút gì đến việc Connie nhìn thấy một xác chết trên một trang web bất động sản? Cứ cho là chị ta thấy cái thứ đó đi. Em vẫn cảm thấy không thuyết phục - em không quan tâm có bao nhiêu nhân chứng độc lập đã xuất hiện.” Chiếc máy ảnh của cô đang nằm trên tay vịn ghế sô-pha bên cạnh cô. Charlie đặt ly xuống và cầm máy ảnh lên. Kể từ khi trở về từ Tây Ban Nha, cô luôn giữ nó bên mình - bên giường khi cô đang ngủ, trên cửa sổ nhà tắm - khi cô đang ngâm mình trong bồn. Cô bị nghiện việc ngắm nhìn những bức ảnh mình chụp Los Delfines.
“Độc lập,” Simon nói. “Cách dùng từ hay đấy.”
“Gì cơ?” Charlie nhìn chăm chú vào Domingo bé nhỏ đầy mồ hôi, đang tựa vào thân cây huệ tây trồng ngược.
“Có hai người đã nhìn thấy thi thể người phụ nữ trên Roundthehouses: Connie Bowskill và Jackie Napier. Không ai khác. Liệu có thể nào hai người duy nhất nhìn thấy cái xác trên trang web - trong nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi nó ở trên đó, trước khi bị thay đi - lại vô tình là hai người đó? Hãy nghĩ về hàng triệu người đã có thể nhìn thấy nó mà xem.”
“Có thể nào?” Charlie làm một vẻ mặt “la hét trong im lặng”. “Simon, chúng ta đã bỏ cái có thể nào sau lưng được vài năm ánh sáng rồi. Không có gì là có thể nào. Em vẫn nghĩ nó là một kiểu... trò đùa thực tế kỳ cục. Hoàn toàn không có bằng chứng gì cả - bằng chứng thực sự, em đang nói về cái đó - rằng có ai đó đã bị giết, bị thương, bất kỳ thứ gì. Ôi, Chúa ơi!”
“Gì thế? Có chuyện gì vậy?”
“Thật là gớm. Gớm bỏ mẹ!”
“Cái gì gớm cơ?”
“Khuôn mặt! Trên núi. Bây giờ, em có thể thấy được nó thật rõ ràng: mắt, mũi, miệng.” Charlie bấm nút phóng đại trên máy ảnh. “Em đã hỏi anh là trông gương mặt có quyến rũ không - sao anh không nói với em đấy là một bản mặt xấu ma chê quỷ hờn? Trông như nhân vật Jabba the Hutt từ bộ phim Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao ấy.”
“Ý em là sao, giờ em có thể thấy nó?” Giọng Simon có vẻ bực bội. “Em đang ở nhà.”
“Trên máy ảnh của em.”
“Không có cách nào một bức ảnh có thể... “
“Đấy là một bức ảnh toàn cảnh, tấm em chụp ở sân thượng. Bể bơi, bếp nướng thịt, vườn, núi - và một khuôn mặt xấu xí.”
“Khuôn mặt anh thấy không hiện lên trong một tấm hình,” Simon nói.
“Simon, em đang nhìn vào một khuôn mặt ở đây. Một ngọn núi có thể có bao nhiêu khuôn mặt?”
“Em không thể nhìn ra được gì từ một tấm hình,” anh nói cộc lốc.
“Có phải khuôn mặt anh thấy trông như Jabba the Hut từ Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao không?”
Có một khoảng lặng. Rồi Simon nói, “Nếu em không thấy nó ngay từ đầu, em không thể khẳng định mình đã thấy nó - không phải trên cơ sở một bức ảnh bé tí được.
“Em không được khẳng định như vậy với ai?” Charlie trêu anh. “Hội đồng Phân loại Mặt Trên Núi? Có vấn đề gì nếu em cũng nhìn thấy? Nó có khiến anh cảm thấy mình bớt đặc biệt đi không?”
“Không.” Anh có vẻ bối rối bởi câu hỏi của cô. “Anh muốn em thấy nó, nhưng em lại không thấy. Nhìn thấy nó trên một bức ảnh không giống như vậy.”
“Không, không giống. Nhưng em vẫn có thể thấy nó.”
“Không phải trên núi.”
Charlie để điện thoại ra xa và nguýt một tiếng - một tiếng thật to và dài. Khi cô kề điện thoại lên tai trở lại, Simon đang nói nhanh đến mức cô không thể theo kịp được điều anh đang nói. Điều gì đó về một ai đó tên là Basil. “Chậm lại đã,” cô bảo anh. “Em lỡ mất đoạn đầu rồi. Anh bắt đầu lại đi.”
“Basil Lambert-Wall,” anh hổn hển nói. “Ngài giáo sư, người sống ở Bentley Grove, hàng xóm của Selina Gane. Ông ta nói đã nhìn thấy Kit Bowskill lúc trước, nhớ không, khi anh cho ông ta xem một tấm ảnh? Nói rằng Bowskill đã lắp chuông báo động cho ông ta?”
Charlie có nhớ. “Và rồi anh tới công ty kinh doanh chuông báo động, ở đó người ta nói họ không nhận ra Bowskill và anh ta không làm việc ở đó.”
“Em nói với anh là em đã thấy một khuôn mặt trên núi trong khi em chưa hề thấy - em thấy nó trong một tấm ảnh.” Câu chữ của Simon đụng nhau chan chát, chúng luôn như vậy khi anh đang hào hứng. “Tại sao em lại mắc sai lầm như thế? Bởi vì em đồng nhất bức ảnh với ngọn núi - đó là một sự đồng nhất chặt chẽ trong tâm trí em đến mức em nhầm cái này với cái kia.”
Charlie mở miệng định phản đối, nhưng rõ ràng là anh không có ý định dừng lại.
“Basil Lambert-Wall đã nhầm về việc Bowskill là người đã cài đặt chuông báo động của ông ta - chúng ta biết thế. Nhưng nếu như ông ta đã đúng về việc nhìn thấy anh ta thì sao? Biết đâu việc bắt gặp Kit Bowskill lại gắn bó quá chặt chẽ với cái ngày Basil lắp chuông chống trộm mới trong suy nghĩ của ông ta thì sao? Biết đâu có việc gì khác cũng xảy ra vào ngày hôm ấy, và ông giáo sư đã nhầm lẫn hai thứ với nhau? Nghĩ về điều đó đi - chắc chắn là như vậy! Lý do gì khác khiến ông ta lại chắc chắn Kit Bowskill là người lắp chuông chống trộm cho mình đến thế trong khi thực tế là không phải?”
Bởi vì ông ta già yếu và run rẩy và chỉ đơn thuần là đã nhầm thôi? Charlie không buồn thốt lên điều đó. Khi Simon đang như thế này, nói chuyện với anh chẳng có ích gì.
Cô nghe một tiếng tách, rồi đường dây tắt lịm. Cô đã không còn hữu dụng. Đến lượt buổi tối của Hiệp sĩ Giáo sư Basil bị ngắt quãng, ông già tội nghiệp. Charlie cảm thấy thật lạ lùng khi cô biết điều gì sắp xảy đến với ông ta còn ông ta lại chẳng hay biết gì. Cô hy vọng không phải ông ta đang ngủ.
Charlie thở dài rồi bấm nút chạy trên điều khiển từ xa và nằm dài người trên ghế sô-pha để xem nốt phần còn lại của bộ phim. Alice Fancourt có thể đợi đến mai. Nếu Simon có nguyên tắc cốt lõi của mình, thì Charlie cũng có: những người kết thúc cuộc điện thoại mà không nói câu tạm biệt không xứng đáng được đáp ứng những yêu cầu của họ ngay lập tức.
***
“Sam.” Kate Kombothekra lấy điện thoại khỏi tay chồng mình và đặt nó xuống bàn cà phê giữa họ. Nàng đang mặc bộ quần áo ngủ màu vàng, một tay cầm cuộn giấy bọc thực phẩm. “Em cần sự chú ý của anh trong vòng năm giây. Anh có nghĩ mình làm được không?”
“Xin lỗi.”
“Anh có nhớ đi mua giấy cho máy in không?”
“Không. Xin lỗi. Mai anh sẽ làm.”
“Anh đã gọi cho hội đồng chưa?”
“Anh phải làm thế à?”
“Phải. Để hỏi về việc thuê thùng lồng và lấy báo giá...”
“Ồ, đúng rồi. Chưa. Anh xin lỗi.”
Kate thở dài. “Thôi được rồi, chỉ một câu hỏi nữa thôi, và bởi vì em quá tuyệt vọng được nghe một câu trả lời ‘có’: liệu có hợp lý không khi cho rằng anh đã bỏ bê không làm tất cả bốn việc anh đã hứa sẽ làm hôm nay?”
“Là Connie Bowskill trên điện thoại,” Sam bảo nàng. “Chị ta muốn anh hỏi xin Grint số điện thoại của Jackie Napier.” Không phải là một yêu cầu vô lý, trong một số trường hợp.
“Ồ, không phải thế nữa chứ!” Kate đập đập cuộn giấy bọc thực phẩm vào lòng bàn tay trái với một điệu bộ chắc chắn đủ tiêu chuẩn để coi là hành động đe dọa, nếu như vũ khí gia dụng có vẻ bớt vô hại. “Quên Connie Bowskill đi. Lại đây và giúp em chuẩn bị đồ cho các con ngày mai nào. Em đã gần gói xong bữa trưa rồi - nếu anh có thể lôi ra được những cái ba lô to đùng của chúng từ tầng hầm. Những cái mà có họa tiết rằn ri ấy, anh biết mà.” Kate trình diễn một màn kịch câm: một người đang ngồi bật dậy từ ghế và vụt chạy.
Sam không nhúc nhích. “Chị ta đang ở tại khách sạn Garden House,” anh nói. “Cùng khách sạn với Selina Gane.” Anh không chắc tại sao cái ý tưởng hai người phụ nữ đó ở gần nhau lại làm anh cảm thấy khó chịu. Có phải anh lo rằng Connie sẽ làm gì không? Không. Chị ta không phải là người ưa bạo lực. Tuyệt vọng thì đúng hơn. Vô số hành động bạo lực Sam gặp phải trong nhiều năm qua sản sinh từ sự tuyệt vọng.
Anh đang chiến đấu với cảm giác thôi thúc được gọi Grint và bảo anh ta tới khách sạn. Để làm gì chứ, khi anh ta đến đó? Thật điên rồ. Việc không muốn Connie nói chuyện với Jackie Napier cũng thế. Sam không thích nghĩ bản thân là đồ quái dị thích kiểm soát - loại người ra quyết định thay mặt người khác và biện minh điều đó trên cơ sở vì muốn tốt cho người ta. Anh có thể dễ dàng bảo với Connie rằng Jackie làm việc cho Lancing Damisz, rằng anh không cần phải phiền đến Grint - Connie có thể liên lạc với Jackie qua chỗ làm của cô ta nếu muốn nói chuyện. Lẽ đương nhiên là Connie sẽ muốn giữ liên lạc với người duy nhất trên thế giới chắc chắn tin tưởng mình, người phụ nữ thấy chính xác những gì mình đã thấy. Đặt vào địa vị của chị ta, Sam cũng sẽ muốn trao đổi ý kiến, đi vào các chi tiết. Vậy tại sao linh cảm của anh lại đang yêu cầu anh phải làm mọi việc có thể để tách hai người phụ nữ đó ra?
Anh không thể ngừng nghĩ về điều gì đó Jackie đã nói khi anh phỏng vấn cô ta, về người phụ nữ đóng giả làm Selina Gane và rao bán số 11 Bentley Grove. Cô ta biết tất cả những gì mình cần làm là nói về những người trông không giống như trong ảnh hộ chiếu. Nếu cô ta làm mình nghĩ về tất cả những người khác, cô ta sẽ không phải thuyết phục mình - mình sẽ tự làm tất cả những điều đó. Đó là một trong những điều mọi người đều nói, đúng không? “Trông anh ta chẳng giống ảnh hộ chiếu gì cả, tôi ngạc nhiên là anh ta vẫn được nhập cảnh về nước đấy.”
Có phải Sam nhớ nhầm không? Không, anh khá chắc chắn đó là những gì cô ta đã nói.
Anh mở miệng định hỏi Kate liệu anh có đang tưởng tượng ra những vấn đề vốn không tồn tại không, nhưng nàng đã rời khỏi phòng rồi.
***
“Chọn một con số giữa một và ba mươi đi.”
“Mười sáu,” Simon nói. Ngày cưới của anh và Charlie.
Hiệp sĩ Giáo sư Basil Lambert-Wall rê ngón tay giữa của mình lướt qua những cuốn sách trên chiếc giá gần mình nhất, đếm từng quyển một. Khi với tới quyển thứ mười sáu, ông ta kéo nó ra khỏi dãy, móc gậy chống vào lưng chiếc ghế gần nhất và bắt đầu cố gắng nắm lấy cuốn sách bìa cứng to đồ sộ bằng hai tay. Simon bước lên để giúp, hối hận vì sự đa cảm của anh đã khiến ông ta phải lấy cuốn sách rõ ràng là nặng nhất trên giá - Những Lời Thì Thầm, tên là như vậy. Tiêu đề phụ là Cuộc Sống Cá Nhân Trong Nước Nga Của Stalin.
“Ở yên đấy!” vị giáo sư quát lên. Chất giọng thật vang và quyền lực khi so với vóc dáng nhỏ bé của ông ta. “Ta hoàn toàn có thể tự lo tốt.” Ông ta làm một tràng những tiếng thở hổn hển khi đi quanh cái ghế rồi ngồi xuống nó. Rồi lại thêm nhiều những tiếng hổn hển nữa khi ông ta chỉnh lại quyển sách trên đùi mình.
Simon quan sát nỗ lực của ông ta, cố không nhăn mặt, hy vọng cổ tay nhỏ xíu của ông Lambert-Wall không rụng ra. Anh tự trách móc mình vì đã không đoán được ông già nghĩ gì, nếu biết thì anh đã chọn số mười lăm mỏng dính, Những Câu Cách Ngôn Của La Rochefoucauld. Có không ít sách để chọn: tất cả các bức tường đều được phủ kín. Có những giá sách phía trên cánh cửa, bên trên và bên dưới cả hai cửa sổ - tất cả đều chất đầy. Ở giữa hai chiếc ghế bành và ghế sô-pha là ba đống tạp chí. Ở trên cùng của một chồng là ấn bản tờ Nhà kinh tế, trên chồng khác là tờ Đánh giá PN. Chồng thứ ba đang đỡ hai chiếc cốc. Simon không nhìn được tên của tờ báo giữa chúng, nó có bức hình tượng Nữ thần Tự do ở một góc.
“Cậu khéo chọn đấy,” ông giáo sư nói khi đã lấy lại được nhịp thở bình thường. “Những Lời Thì Thầm là một cuốn sách xuất sắc khác thường. Giờ thì, chọn một con số giữa một và sáu trăm năm mươi sáu,” ông lật giở qua các trang sách.
“Ông có chắc là cháu không làm ông mất ngủ không?” Simon hỏi. Bộ áo choàng tắm màu đỏ đang khiến anh cảm thấy tội lỗi, bộ pyjama sọc màu xám, phần ống dài xám xịt của đôi tất thò ra từ đôi dép xỏ mềm màu nâu. Vận đồ như vậy không nhất thiết là đã đến giờ ngủ, Lambert-Wall đã mặc nguyên xi vào lần cuối cùng Simon ghé thăm, lúc buổi trưa.
“Còn chưa đến mười giờ,” ông già nói, khiến Simon cảm thấy như mình là một vị phụ huynh phiền phức bao bọc con cái quá đáng. “Ta ngủ từ bốn giờ đến chín giờ. Và ta viết lách từ mười một giờ mười lăm đến bốn giờ, vậy cho nên miễn là chúng ta xong việc lúc mười một giờ...?” Ông liếc nhìn về phía chiếc đồng hồ điện tử trên bậu cửa sổ, rồi nhướn mày với Simon, người vừa gật đầu. “Tốt. Vậy thì... số?”
“Mười một.”
Ông giáo sư bật cười. “Trang mười một đây rồi. Và giờ thì... một con số nằm giữa một và bốn mươi ba, xin mời.”
“Hai mươi hai,” sinh nhật của Charlie.
“Tuyệt vời. Và cuối cùng, một con số giữa một và... ba mươi tư.”
“Mười hai.” Sinh nhật của Simon. Anh không thấy những sự lựa chọn của mình có thể tiết lộ bất kỳ điều gì về bản thân mà anh không muốn cho một người lạ biết.
“À. Xin lỗi.” Ông giáo sư nhăn trán. “Cậu không thể lấy được từ thứ mười hai ở dòng hai mươi hai được, ta e là thế. Đó là từ ‘Trotsky’. Danh từ riêng là không được.”
“Cháu sẽ chọn số mười một nữa vậy,” Simon nói, quá tò mò nên không lấy làm mất kiên nhẫn. Dụng ý của trò chơi này là gì?
“Cậu vừa chọn từ ‘cuộc đời’.” Lambert-Wall mỉm cười. “Một kết quả rất ấn tượng - kết quả tốt nhất trong suốt một thời gian dài.” Ông ta gập quyển sách lại, đặt nó trên tấm thảm màu be bên cạnh chân mình. Simon nghĩ về tấm thảm màu be của Selina Gane ở nhà bên cạnh, với vết ố của cây thông Giáng sinh ở một góc. Có phải những chuyên viên thiết kế đã trải tất cả các ngôi nhà với cùng một loại thảm khi họ xây chúng không? Nhìn từ bên ngoài, chúng có vẻ đồng bộ: một kiểu thiết kế, nhân lên ba mươi mấy lần. Simon nhận thấy mình đang nhìn chăm chú vào ba chồng tạp chí trước mặt. Tưởng tượng ra việc dời chúng đi làm lộ ra ba viền vết ố màu đỏ thẫm, mỗi cái có dạng hình đầu người. Anh tự nhắc mình hãy bình tĩnh lại.
Basil Lambert-Wall đã kéo mình ra khỏi ghế và đang đi tập tễnh, mà không nhờ đến chiếc gậy, về phía một chiếc bàn đứng trước cửa sổ, với rất nhiều đồ chặn giấy trên đó nhưng chẳng có tờ giấy nào. Khi đến được đích, ông ta nhặt một chiếc bút không có nắp lên và viết gì đó vào một quyển sổ để mở trên bàn. Lưng quay về phía Simon, ông ta nói, “Cậu là con người của sự sáng suốt và là sức mạnh đại diện cho những điều tốt đẹp trên thế giới. Và cậu có một câu muốn hỏi ta. Xin cứ hỏi đi.”
Simon cảm thấy bối rối. Có phải ông giáo sư vừa khó nhọc đi về phía chiếc bàn để ghi chép lại kết quả bài kiểm tra lập dị của ông ta không? Simon rất muốn được tìm hiểu nội dung của cuốn sổ một cách chi tiết. Mỗi khi có ai đó dành cho anh một lời khen, anh bị cám dỗ bởi cảm giác phải tranh cãi lại. “Cuộc đời” là sự lựa chọn thứ hai của anh. Anh đã chọn từ “Trotsky” lần đầu tiên - một kẻ thảm sát hàng loạt. Từ đó nói lên điều gì về anh? Dựa trên cơ sở nào mà những danh từ riêng lại bị loại ra?
“Cái ngày mà ông lắp chuông chống trộm mới - thứ Ba ngày 29 tháng Sáu.”
“Làm sao cậu biết được đúng là ngày đó?” Ông giáo sư hỏi.
“Ông đã nói với cháu, lần cuối cùng chúng ta nói chuyện. Công ty Chuông báo động Safesound đã xác nhận thông tin đó.”
“Cậu đã kiểm tra ta à?”
“Cháu kiểm tra mọi thứ,” Simon bảo ông. “Lúc nào cũng vậy.”
“Nếu ta nói với cậu một ngày chính xác, thế nghĩa là ta hẳn đã tra nó trong nhật ký của mình.”
“Đúng thế.”
“Vậy thì không việc gì phải kiểm tra.” Lambert-Wall hạ thấp mình ngồi xuống ghế, rồi nhấc mình dậy lần nữa để chỉnh bộ đồ.
Simon chờ cho tới khi ông ta ngồi yên vào chỗ. “Không cần quan tâm đến ngày tháng đâu ạ. Cháu cần ông nghĩ về ngày hôm đó. Ông lắp chuông báo động mới. Còn việc gì ngày hôm đó mà ông nhớ, bất kỳ điều gì mà xảy ra gần như cùng một lúc không?”
“Có.” Ông già hấp háy mắt nhiều lần liên tiếp. Trông thật khó coi - như thể có ai đó đang quậy tung bộ phận điều khiển mí mắt của ông. “Ta đã đọc một cuốn sách lạ thường - Những Con Người Của Sự Dối Trá của M. Scott Peck. Nó đưa ra định nghĩa chuẩn xác nhất về sự xấu xa của loài người mà ta từng đọc.”
Simon mường tượng một dòng chữ hai từ, hai từ đó là “Giles” và “Proust”. “Còn gì nữa không ạ?” anh hỏi.
“Có. Ta ăn một thứ gọi là ‘tian’ vào bữa trưa. Ta đã ăn và vẫn chưa biết tian là cái gì, nhưng vị rất ngon. Nó có dạng hình ống. Ta thích hình dạng của nó lúc ở cửa hàng, nên đã nghĩ mình nên thử một lần. Ồ, ta đã tới cửa hàng, tất nhiên - ở siêu thị.”
“Vào ngày mà chuông chống trộm của ông được lắp?”
Lambert-Wall gật đầu. “Con gái ta chở ta, vào buổi sáng, tới Waitrose. Con bé chở ta mỗi sáng thứ Ba. Nó muốn ta mua hàng trên mạng, nhưng ta không chịu.”
Simon gật đầu. Chuyện này sẽ chẳng đưa anh tới đâu. “Vậy là ông đã đọc Những Con Người Của Sự Dối Trá, ăn trưa, đi mua sắm...”
“Đúng, dù không phải theo thứ tự như thế. Ta đã đi ngủ lúc chiều, như mọi khi - một giờ tới bốn giờ. Ồ, và một trong những người hàng xóm đã rất thô lỗ với ta, làm hỏng cả một ngày đáng ra là khá vui vẻ của ta.”
“Hàng xóm nào ạ?”
Ông giáo sư chỉ về phía cửa sổ. “Một trong số những người sống trong ngôi nhà đối diện,” ông nói. “Anh ta bình thường là một tâm hồn tràn đầy sự lịch thiệp, và đó là lý do ta lại ngạc nhiên đến thế. Anh ta và vợ mua rèm cửa mới, và họ đang mang nó vào trong nhà. Cô vợ đã phải hạ ghế sau xuống để đặt vừa những cái rèm đó vào. Ta đi loanh quanh đấy để nói chuyện phiếm, có ý định bình phẩm về sự trùng hợp ngẫu nhiên - rèm cửa mới, chuông báo động mới. Không ép buộc quá đáng gì cả, ta đảm bảo với cậu, nhưng không ngờ là nó lại làm nảy sinh những vấn đề lớn hơn. Phản ứng của anh ta hoàn toàn không lường trước được.”
“Anh ta đã làm gì?”
“Anh chồng gào vào mặt ta. ‘Không phải bây giờ! Ông không thấy tụi này đang bận à?’ Rồi anh ta nói với vợ mình, ‘Đuổi cổ ông ta đi, nhé?’ và rồi đi thẳng vào trong nhà, tay ôm một đống rèm cửa. Chúng cũng là những loại kém hấp dẫn nhất, xét từ những gì ta nhìn thấy qua túi bọc.”
Simon bắt đầu nổi gai ốc. Nhất định phải là thế: một người đàn ông bình thường thì lịch thiệp, đột nhiên thô thiển và lỗ mãng. Kit Bowskill? Ngoại trừ việc này chẳng có lý gì cả. Cứ cho câu chuyện có tồn tại đi, thì mối liên hệ sai trái của Kit Bowskill là với số 11 Bentley Grove. Đó là địa chỉ vợ anh ta đã tìm thấy trên định vị vệ tinh của chồng, ngôi nhà chị ta đang xem lúc nhìn thấy cái xác. Số 11 Bentley Grove ở bên cạnh nhà của Basil Lambert-Wall, không phải đối diện.
“Vợ của anh ta cảm thấy vô cùng có lỗi,” ông già tiếp tục. “Cô ta phải xin lỗi đến hai chục lần. ‘Mặc kệ anh ấy đi ạ,’ cô ta nói. ‘Không phải tại ông, là tại hai tiếng đồng hồ chúng cháu vừa mất ở xưởng làm rèm. Không bao giờ anh ấy hành xử như thế một lần nữa đâu ạ!’ Cậu cứ nghĩ xem, sau khi mất từng ấy thời gian đáng ra họ đã lắp đặt rèm xong xuôi rồi, nhưng hóa ra vẫn chưa.”
Simon lấy ra một tấm ảnh từ trong túi, cùng tấm mà anh đã cho Lambert-Wall xem lần trước, ảnh Kit Bowskill. “Gương mặt này ông thấy có quen không?” anh hỏi.
“Có, chính là anh ta,” ông giáo sư nói.
“Người hàng xóm đã thô lỗ với ông?”
“Phải.”
“Từ ngôi nhà chính diện?” Simon đi về phía cửa sổ và chỉ ra, để tránh nhầm lẫn.
“Đúng vậy. Cậu có vẻ ngạc nhiên.”
Kit Bowskill sống ở Little Holling, Silsford. Kit Bowskill lại là hàng xóm của Hiệp sĩ Giáo sư Basil Lambert-Wall, ở Cambridge. Làm sao mà cả hai lời khẳng định đó đều đúng?
“Vậy là... người đàn ông trong ảnh, anh ta không phải người từ Safesound, người đã lắp đặt chuông báo động cho ông?”
Lambert-Wall lại làm trò máy mắt một lần nữa. “Tại sao cái thằng cha bên kia đường lại đi lắp đặt chuông báo động cho ta?”
Simon chẳng còn tâm trí đâu để nhắc ông ta nhớ lại những gì ông ta đã kể vào lần cuối họ nói chuyện với nhau. “Ông miêu tả anh ta là ‘một trong những người sống trong ngôi nhà đối diện’. Vậy là còn người nữa?”
“Phải. Anh chàng Ban đêm.”
Simon cố gắng không để lộ sự ngạc nhiên của mình. Có vẻ như anh đã thất bại, bởi ông giáo sư bật cười. “Ta nên giải thích mới phải: người đàn ông bất lịch sự với ta là Anh chàng Ban ngày. Đó không phải tên thật của họ - ta quên mất chúng từ lâu rồi, ta e là thế, nếu ta từng biết được tên họ.”
“Ông cho cháu biết về Anh chàng Ban Ngày và Anh chàng Ban Đêm đi,” Simon cố nói một cách bàng quan hết mức có thể.
“Anh Ban đêm kết hôn với Chị Ban đêm và họ có hai đứa con - một trai một gái, nhưng ta chưa từng thấy ai trong số họ vào ban ngày, chỉ có buổi tối thôi. Và Anh Ban ngày kết hôn với Chị Ban ngày. Ừ thì, ta nói ‘kết hôn’ - ai mà biết được điều đó có nghĩa lý gì trong thời buổi này? Có thể họ chẳng cưới nhau, nhưng họ chắc chắn là một đôi.”
“Vậy là sáu người họ sống trong ngôi nhà đó - Anh Ban đêm, Chị Ban đêm cùng hai đứa con của họ, và Anh Ban ngày, Chị Ban ngày?”
“Ta không hiểu họ làm điều đó kiểu gì,” ông giáo sư nói. “Những ngôi nhà đó không to như nhìn từ bên ngoài đâu - còn không có đủ phòng trong ngôi nhà này cho ta và đại gia đình của ta nữa là.”
Một sự ngạc nhiên nữa. “Ông sống ở đây cùng gia đình mình ư?”
Lambert-Wall mỉm cười, đưa tay chỉ xung quanh phòng. “Ta đang nói đến những quyển sách của mình,” ông nói.
Simon hỏi câu tiếp theo mà không biết mình hỏi thế là có ý gì.
“Ông đã bao giờ gặp Anh và Chị Ban ngày lẫn với Anh và Chị Ban đêm cùng nhau chưa?” Anh không thể nào suy nghĩ cho ra hồn khi đang nói chuyện với ông già được. Anh phải hy vọng rằng bản năng đang đẩy mình đi theo đúng hướng.
“Bây giờ khi cậu nhắc đến ta mới nhớ ra, không, ta chưa thấy.
Anh và Chị Ban đêm ở đây vào những buổi tối, và ta đã nói...”
“Thế còn cuối tuần thì sao?” Simon hỏi.
“Ta dành những ngày cuối tuần ở nhà con gái tại Horseheath.
Con bé đưa ta về lúc mười giờ tối Chủ nhật, ta chỉ đủ thời gian để dỡ đồ đạc và có mặt tại bàn viết lúc mười một giờ.”
Họ quay lại với con số 11.
“Còn điều gì nảy ra trong đầu ông không?” Simon hỏi.
“Có. Tất cả những nhà với hơn một người ở đều có tôn ti trật tự nắm quyền, và ngôi nhà đối diện cũng không phải là ngoại lệ. Ta sẽ liều mình đoán là quyền đó thuộc về Anh và Chị Ban đêm. Họ và các con ở địa vị cao hơn.”
“Sao ông lại nói thế?” Simon không biết bất kỳ ai lại mua rèm cửa cho một ngôi nhà sở hữu bởi người khác.
“Cách sắp xếp vị trí đỗ xe của họ.” Giáo sư mỉm cười. “Anh và Chị Ban đêm đỗ xe của họ trong ga-ra. Anh và Chị Ban ngày đỗ xe của họ ngoài đường. Họ không thể đỗ xe trên lối vào ga-ra. Nếu Anh hay Chị Ban đêm về nhà vào ban ngày, họ sẽ không thể cho xe vào được. Lúc nào cũng thế, bất kể đêm ngày, quyền được đỗ xe của họ được bảo toàn. Cậu không thấy thế có nghĩa họ là những cư dân được quyền ưu tiên, và vì thế họ hẳn là chủ nhân sao?”
“Có thể như vậy, hoặc...” Simon ngừng lại. Liệu nói thêm có phải là thiếu chuyên nghiệp không? Anh không thấy có lý do nào, đêm nay, để anh không nên làm chính xác những gì mình muốn. Đây không phải công việc, về mặt danh nghĩa thì anh vẫn đang trong tuần trăng mật. “Hay Anh và Chị Ban ngày không được phép ở đó,” anh nói.
“Cậu đang ám chỉ điều gì?” Vị giáo sư rướn người về phía trước. Trong một giây, Simon sợ rằng ông ta vươn người quá xa và sắp sửa bổ nhào khỏi ghế.
“Nếu như Gia đình Ban đêm không hề hay biết rằng họ đang chia sẻ ngôi nhà với Anh và Chị Ban ngày?” Anh và Chị Ban ngày. Kit Bowskill và... ai?
“Kẻ mạo danh, ý cậu là thế? Kẻ xâm nhập bất hợp pháp?” Lambert-Wall suy nghĩ trong im lặng một vài giây. “Không, ta e là cậu nhầm rồi.”
“Điều gì khiến ông khẳng định thế ạ?”
“Anh chàng Ban ngày có chìa khóa vào nhà. Chị Ban ngày cũng thế. Ta đã thấy họ tự mở cửa vào, cùng nhau và đi riêng.”
Simon gật đầu. Anh nghĩ về loại người có thể kiếm được chìa khóa vào nhà, và về Lorraine Turner, một nhân viên môi giới bất động sản anh chưa từng gặp. Sam cũng chưa từng gặp cô ta, dù anh ta đã nói chuyện điện thoại với Lorraine.
“À.” Ông giáo sư giơ ngón trỏ trên bàn tay phải của mình lên. “Ta vừa nhớ ra một cái tên. Có kỳ lạ lắm không khi một phút trước cậu hoàn toàn không nhận thức được điều gì đấy, và ngay phút sau lại như thể một bức màn vừa bị tháo bỏ và nó đây: thông tin mà đáng lẽ ra đã ở đó ngay từ trước tới giờ?”
“Một cái tên?” Simon gợi ý.
“Đúng. Chị Ban ngày tên là Catriona. Dù cô ta nói với ta không ai gọi mình như thế cả, có chút đáng tiếc. Cách gọi tắt của những cái tên Thiên Chúa là một dạng mọi rợ, cậu có nghĩ thế không?”
Simon biết, với một cảm giác nôn nao nơi dạ dày, chuyện gì đang đến. Anh cũng biết một người tên là Catriona.
“Tất cả những người cô ta biết gọi cô ta là Connie,” ông già nói.