Selina Gane đang đứng bên ngoài cửa chính khi tôi tấp xe vào lề. Một chùm chìa khóa đung đưa trên bàn tay phải của cô ả. Vận chiếc quần dài màu đen và áo vải linen xanh dương, cô ả cũng giống nhân viên môi giới bất động sản, sẵn sàng cho cuộc gặp với một khách mua nhà tương lai.
Không phải chính là tôi sao?
Mái tóc vàng của cô ả được buộc gọn lên, trông có vẻ nghiêm túc. Tôi tự hỏi liệu cô ả có mang cùng một biểu cảm ấy khi buộc phải thông báo tin xấu cho bệnh nhân. Hay có thể cô ả không phải kiểu bác sĩ ấy, có thể cô ả dành cả ngày của mình trong phòng thí nghiệm nghiên cứu các mẫu mô, không bao giờ liên hệ với chủ nhân của chúng.
Từ cử chỉ của cô ả, tôi có thể thấy cô ả đang căng thẳng. Cô ả không mong đợi điều này.
Tất nhiên cô ả không mong đợi gì việc này cả. Tại sao cô ả lại mong chứ?
Tôi lau mồ hôi đọng ở môi trên và ra khỏi xe, tự nhắc mình rằng chẳng có lý do gì để lo lắng cả. Tôi đã nói cho cô ả tất cả mọi thứ, trong lá thư của tôi. Hôm nay đến lượt cô ả nói cho tôi những gì mình biết. Tôi không thể tin là cô ả không biết gì hết. Số 11 Bentley Grove là nhà của cô ả.
Trừ phi cảm giác không phải vậy, khi tôi đi về phía cô ả trên lối đi có hoa oải hương chạy dọc hai bên. Ngôn ngữ cơ thể lạc lõng của cô ả gợi ý rằng cô ả cảm thấy bản thân đứng đó, bên ngoài một ngôi nhà chẳng liên quan gì tới mình, và cô ả không chắc là vì sao. “Tôi không muốn vào trong một mình,” cô ả nói, và tôi nghe thấy được mong ước giá như số 11 Bentley Grove không phải của cô ả lớn đến thế nào.
“Cảm ơn vì đã đồng ý gặp tôi,” tôi nói.
Cô ả mở khóa cửa trước. Mắt nhìn xuống, cô ả có ý muốn tôi vào trước. Cô ả thà ở ngoài trong ánh nắng và không khí trong lành, hoãn lại khoảnh khắc vào trong càng lâu càng tốt. Đó là lúc tôi biết chắc chắn: cô ả sẽ chấp nhận lời đề nghị của tôi.
Cô ả không muốn có mối liên hệ gì với số 11 Bentley Grove, và đó là một mong muốn mãnh liệt, không phải chỉ là một sở thích nhạt nhẽo. Khi chúng tôi cùng nhau vào trong, cô ả hẳn phải cảm thấy như thể mình đang xâm nhập vào hiện trường vụ án trong quá khứ của chính mình.
Tôi đang bước chân vào tương lai của chính mình, mà không biết nó có thể chứa đựng những gì.
Tôi đã chờ đợi một bầu không khí tồi tệ, nhưng chẳng có gì cả. Bên trong số 11 Bentley Grove sáng sủa và thoáng đãng. Vô hại. Nhưng thứ gây hại đâu thể là ngôi nhà, mà là những con người sống trong đó. Tôi nhìn xung quanh, nhận thức rõ sự hiện diện của Selina Gane sau lưng mình. Tôi ngửi thấy mùi oải hương. Cô ả chưa đóng cửa trước. Tôi mong cô ả sẽ để cửa mở chừng nào chúng tôi còn ở trong nhà, không muốn bị khóa ở đây.
Không đợi được cho phép, tôi di chuyển theo hướng về phòng khách. Tôi không thể nhớ mình đã xem bản vẽ mặt bằng trên Roundthehouses chưa, nhưng chắc là tôi xem rồi, bởi tôi thấy được nó trong tâm trí, và tôi biết mọi thứ ở đâu. Tôi biết căn phòng nơi người phụ nữ đã chết nằm bên kia cánh cửa ở phía bên phải tôi.
Tôi không cần phải đi vào trong. Một cái liếc nhìn và tôi biết là không có máu me, không có cái xác nào cả.
Mày thực sự mong chờ nó nằm ở đó? Đang chờ đợi mày?
Tôi thấy một khoảng thảm màu be không lấm bẩn gì, rìa của bàn cà phê, chiếc bàn với những bông hoa được giữ bên dưới mặt kính. Lò sưởi, tấm bản đồ trên đó... tôi biết tất cả những thứ đó là thật, nhưng vẫn thật lạ lùng khi nhìn thấy chúng trước mặt: cảm thấy như thể rơi vào một giấc mơ.
“Tôi không biết chồng cô,” Selina Gane nói. “Tôi chưa từng biết anh ta, và tôi không qua lại với anh ta.”
Thế thì lá thư của tôi hẳn là chẳng có nghĩa gì lắm với cô ả.
Cầu thang. Tôi đáng ra phải xem cầu thang trước tiên, và việc tôi đã không làm thế khiến tôi lo lắng. Tâm trí tôi không làm việc được như tôi muốn, tôi quá choáng ngợp khi đứng ở đây. Trong suốt sáu tháng, tôi đã nghĩ về ngôi nhà này gần như không ngừng nghỉ. Tôi đã dành trọn nhiều ngày đứng bên ngoài nó. Giờ đây, khi cả cảnh sát và chủ nhân ngôi nhà đã rời bỏ nó, tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ đào xới câu chuyện bị ẩn giấu.
Chẳng ai quan tâm đến số 11 Bentley Grove nhiều như tôi. Có phải đó là lý do tôi cảm thấy như thể nó đã là của tôi rồi?
Selina Gane phá vỡ sự im lặng bằng cách nói, “Tôi là một bác sĩ. Tôi dành hầu hết thời gian sống của mình để cố gắng cứu mạng mọi người. Tôi chưa từng sát hại ai, và nếu tôi định làm thế, tôi sẽ không làm trong phòng khách nhà mình.”
Tôi gật đầu.
“Có thực chồng của cô cài đặt địa chỉ này trong định vị là địa chỉ nhà?” cô ả hỏi.
“Vâng.” Tôi miết tay dọc theo tay vịn. Trên đỉnh của trụ cầu thang là gỗ tối màu - một hình lập phương có cạnh mài tròn phủ véc-ni màu nâu.
“Tôi cần hỏi cô một câu,” tôi nói. Tôi cần hỏi cô về chiếc nút tử thần. “Trong bức ảnh của...”
Lại bắt đầu rồi.
“Có cái gì đó ở cầu thang này khang khác.” Như thế này tốt hơn - sự mơ hồ. Đừng nói cho cô ả, hãy để cô ả nói cho mình. “Không phải nó lúc nào cũng trông như thế này, đúng không?” Tôi vuốt lên mặt trên hình lập phương gỗ.
Cô ả trông có vẻ bối rối. “Không. Nó luôn trông đúng như thế này. Ý cô là gì?”
“Lúc nào đó, nó đã từng có một chi tiết trang trí màu trắng bên trên. Kiểu hình tròn, nhưng là... một cái đĩa dày. Được gắn vào đỉnh ở đây, nhưng không rộng như thế.” Tôi vuốt lên mặt phẳng một lần nữa.
“Không.” Cô ả lắc đầu.
Có. Tôi đã thấy nó.
Tôi cố gắng một lần nữa. “Giống một cái nút lớn. Ở giữa, đây này. Màu trắng, hoặc kem, có thể.”
“Một cái nút?” Tôi quan sát cô ả đang cố tưởng tượng. Cô ả biết tôi đang nói về điều gì. Trong một khắc, khi cô ả mở miệng, tôi đã tưởng tượng cô ả sẽ mỉm cười và nói, “Chào mừng đến với trung tâm Nút Tử thần (Death Button).” Tim tôi rộn lên, nhịp điệu của mỗi nhịp tim lại thay đổi - kéo dài ra, rồi lại dồn dập vào. Tôi có thể chạy trốn, nếu tôi biết mình đang chạy trốn khỏi ai hay cái gì. Điều tôi từng bảo với Alice để cô ấy cảm thấy thương hại cho tôi giờ thật đúng, dù lúc đó không có vẻ như vậy: tôi ghen tị với tất cả những ai biết điều gì đang đe dọa họ, và có thể gọi tên nó ra dù không thể trốn chạy được. Nỗi sợ hãi không gắn với một thứ gì cụ thể tệ hơn một trăm lần nỗi sợ có nguyên nhân chắc chắn.
“Tại sao cô lại hỏi về cầu thang của tôi?” Một sự thù địch không thể nhầm lẫn lóe lên trong giọng nói của Selina Gane. Nó nhắc cho tôi nhớ rằng cô ả không có nghĩa vụ phải nói với tôi điều gì, và có lý do hoàn toàn xác đáng để không tin tưởng tôi.
“Tôi xin lỗi. Đáng ra tôi nên giải thích,” tôi nói. “Không ai trong chúng ta muốn có thêm những câu hỏi không được trả lời nữa.”
“Tôi đồng ý,” cô ả nói.
“Tôi đã thấy nó trong bức ảnh, cũng là tấm ảnh mà có người phụ nữ đã chết kia trong đó. Trên tour ảo, khi căn phòng bắt đầu xoay vòng...”
“Xoay vòng?”
“Những tấm hình trên tour ảo không đứng yên,” tôi nói. “Trong mỗi căn phòng, ai đó chắc là đã quay 360 độ với máy quay trong tay, ghi lại.”
Bất kỳ ai ghi hình lại căn phòng khách hẳn là đã đứng ở rìa vũng máu, sát chỗ máu đọng lại. Anh ta hay cô ta hẳn là đã đi xung quanh nó, tay giữ máy quay, cẩn thận để không giẫm vào vũng máu đỏ...
Tôi gạt suy nghĩ đó khỏi tâm trí.
“Khi hình ảnh xoay vòng, hành lang và chân cầu thang có thể thấy được qua cánh cửa phòng khách để mở. Có thể thấy cái này.” Tôi tóm lấy trụ cầu thang bằng hai tay. “Nó có một bộ phận màu trắng ở bên trên - tròn và phẳng, không phải hình cầu. Tôi chắc chắn đã thấy nó. Ban đầu, tôi không nhớ ra điều ấy, nhưng tôi biết có thứ gì đó đã biến mất, một thứ khác tôi đã nhìn thấy ngoài người phụ nữ và vũng máu. Và rồi hôm qua, tôi... tôi đang nói chuyện với một người, và từ ‘cái nút’ bật ra, đột nhiên hình ảnh trở nên hết sức rõ ràng trong tâm trí tôi.”
“Cầu thang lúc nào cũng trông như thế này,” Selina Gane khăng khăng.
Cô ả đang nói dối.
“Khi tôi gọi Kit dậy và anh xem tour, xác người phụ nữ đã biến mất và cái thứ màu trắng ở đây cũng thế,” tôi nói, vẫn bám lấy trụ cầu thang, như thể bằng cách tiếp xúc với nó, tôi có thể đưa sự tồn tại vật chất của nó vào danh sách lý luận của tôi. “Tôi đã dành hết phần còn lại của đêm đó để mở tour, xem nó một lần nữa, đóng lại, lại mở ra. Tôi chắc đã làm thế được hai trăm lần - mở, xem phòng khách, đóng - nhưng tôi không hề nhìn thấy người phụ nữ hay vũng máu một lần nữa.” Cảm thấy nhẹ cả đầu, tôi ra lệnh cho bản thân mình chậm lại, lấy lại nhịp thở. Lúc đầu không khí cưỡng lại nỗ lực của tôi và không chịu đi vào buồng phổi. Tôi không cố gắng nữa và thay vào đó cố thở ra, sâu đến tận thượng vị. Trống rỗng. Rồi tôi hít vào chậm rãi, đều đặn, và cảm nhận được khí ô-xi tràn vào - lực lượng cứu hộ khẩn cấp đang ùa vào.
“Tôi cũng không nhìn thấy cái thứ hình đĩa màu trắng đó nữa,” tôi nói. “Nó xuất hiện trong bức ảnh có người phụ nữ, nhưng không có trong ảnh khác - không phải hình ảnh tôi đã nhìn thấy mỗi khi tôi xem kể từ lần đầu tiên.”
Một kỷ niệm khác tràn về với tôi: mẹ, Fran, Benji và tôi tại nhà hàng Belle Italia ở Silsford. Chúng tôi đến ăn trưa ở đó năm ngoái, để ăn mừng chiếc răng vĩnh viễn đầu tiên của Benji. Người phục vụ mang cho Benji gói đồ chơi mà hẳn là họ mang đến cho tất cả trẻ em: bút sáp màu, trò nối điểm, trò tìm chữ, rất nhiều trò chơi để làm thằng bé thích thú. Có một trò chơi mà phải quan sát hai tấm ảnh gần như y hệt nhau của một chú chó ngồi dưới gốc cây, và cố gắng tìm ra bảy điểm khác biệt giữa chúng. Ba hay bốn điểm đầu tiên khá là dễ thấy, kể cả với Benji. Rồi chúng tôi, Fran, mẹ và tôi tìm ra được điểm khác nhau thứ năm và thứ sáu, nhưng không ai có thể tìm được điểm thứ bảy. Sau gần nửa tiếng đồng hồ tự tra tấn, nhìn chằm chằm vào một tấm giấy không ngừng nghỉ, chúng tôi chấp nhận thua cuộc và nhìn vào câu trả lời được in ngược ở cuối trang. Điểm khác biệt thứ bảy quá nhỏ, đến mức chúng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy được, dù có phí phạm bao nhiêu tiếng đồng hồ quan sát đi nữa: một đường thêm vào trên chiếc lá thấp nhất của cái cây trong bức hình thứ hai.
“Có một cái tên cho thứ cô đang miêu tả,” Selina Gane nói. “Nó được gọi là nút thế chấp.”
“Nút gì cơ?”
Cô ả thở dài. “Tôi cần uống cái gì đó. Đi nào.”
Tôi đi theo cô ả vào căn phòng bếp tôi đã thấy quá nhiều lần qua màn hình máy tính của mình. Cô ả kéo ra một cái ghế đẩu cao từ tủ bàn bếp ở giữa căn phòng - cái tủ bàn nghĩa vụ, Kit gọi như vậy - và chỉ tôi ngồi vào đó. “Trà hay whisky?” cô ả hỏi.
“Cho tôi xin tách trà.”
“Tôi nghĩ mình sẽ cần cả hai,” cô ả nói.
Tôi chờ đợi trong im lặng khi cô ả lấy ra các thứ đồ uống. Cụm từ “nút thế chấp” xoay vòng chầm chậm trong tâm trí tôi. Tôi xem xét nó từ đủ mọi góc độ, nhưng vẫn không hiểu được. Làm sao mà lại có thể tồn tại một thứ tên là nút thế chấp được? Nghe có vẻ bất khả thi quá.
Selina rót sữa vào trà của tôi, không đường. Đó chính là kiểu pha tôi sẽ yêu cầu cô ả làm, nếu như có được hỏi.
Cô ả không ngồi, mà dựa vào bồn rửa bát, xoay lưng về phía cửa sổ, cầm cốc whisky bằng cả hai tay. “Đó là một truyền thống của Mỹ,” cuối cùng cô ả cũng cất tiếng. “Khi cô đã trả hết khoản thế chấp và hoàn toàn sở hữu ngôi nhà, cô sẽ mua một cái nút thế chấp và gắn nó vào trên đỉnh trụ cầu thang, đúng giữa tâm - chính xác vị trí cô nói đã nhìn thấy nó. Cô có thể mua loại bằng nhựa rẻ tiền, loại bằng gỗ, loại chạm trổ - thậm chí có những cái được làm từ ngà voi, cho những người muốn khoe khoang sự sung túc và thành đạt của mình với tất cả những vị khách thăm nhà.” Giọng của cô ả cho thấy một sự coi thường với những người như vậy. “Trông nó hơi giống quân cờ đam màu trắng - cô biết đấy, giống như trong trò chơi. Dân Mỹ gọi trò đó là cờ đam Anh.”
Bố mẹ thường hay chơi cờ đam khi chúng tôi còn nhỏ, trước khi họ cuối cùng cũng đầu hàng sự phản đối của tôi và Fran để mua một cái ti vi - một thứ mà bất kỳ người bình thường nào trong nước cũng đã sở hữu từ vài năm trước. “Đó chính xác là hình dạng của nó: một quân cờ đam ngoại cỡ.”
“Vậy là tôi nói đúng rồi,” Selina nói. “Thứ cô đã thấy là một nút thế chấp. Nhưng chưa bao giờ có một cái như vậy trong nhà này.”
Tôi thậm chí còn không nghe được một chút âm sắc dù là nhỏ nhất nào của giọng Mỹ. “Nhưng cô biết những thứ đó,” tôi nói, hy vọng nghe nó không quá giống một lời buộc tội.
“Bạn tôi có một cái,” Selina dời mắt khỏi tôi để nhìn đi chỗ khác. “Cô ấy đến từ New England.” Tôi cảm thấy như ánh đèn tiêu điểm chiếu vào mình vừa tắt phụt. Tôi không còn là trung tâm của những suy nghĩ trong đầu cô ả nữa. Cô ả cắn môi trong, nhìn chằm chằm vào chiếc giá bên cạnh mình, về phía một chiếc tách màu trắng trông như sứ tro xương với họa tiết lông vũ màu đỏ. Cô ả với tay ra để cầm nó lên, nhìn vào bên trong, rồi đặt nó lại lên giá. Tôi nghe tiếng lách cách. Dù bên trong có chứa gì đi nữa, cô ta cũng muốn kiểm tra xem nó còn đó không.
Chiếc nút màu trắng? Chối bỏ sự hiện diện của nó, sao cô ả lại lộ liễu quá vậy?
“Có điều gì cô không nói với tôi à?” Tôi hỏi. Cùng một câu tôi đã hỏi Sam Kombothekra vài ngày trước, câu tôi đã hỏi Kit hơn một nghìn lần kể từ tháng Một. Tôi nên đặt một chiếc áo phông có in câu nói đó.
“Không có gì. Xin lỗi,” cô ả nói, trông vẫn lo lắng. “Tôi chỉ đang nghĩ gần đây mình đã bỏ mặc bạn bè - tất cả những người bạn của tôi. Quá bận bịu công việc.”
Tôi gật đầu, vờ như mình đã thỏa mãn.
“Nói đến chuyện thế chấp, liệu cô có cần thế chấp không, để mua nhà? Cứ cho là tôi đồng ý bán cho cô.”
Tôi nói với cô ả là mình sẽ cần, rằng tôi có thể thu xếp nhanh chóng thôi. Tôi hy vọng sẽ đúng là như vậy. “Cô sẽ không nhận được lời mời chào nào tốt hơn của tôi đâu,” tôi nói.
“Cô nghiêm túc về việc này?”
“Rất nghiêm túc.”
“Tôi sẽ không hỏi tại sao cô lại muốn làm thế,” cô ả nói. “Nếu cô thực sự thấy thứ cô nói đã thấy...” Cô ả ngừng lại, lắc đầu. “Tôi đã nói sẽ không hỏi, nên tôi sẽ không hỏi. Nếu cô muốn ngôi nhà, nếu đây không phải trò đùa bệnh hoạn nhất, cô có thể có nó. Tôi càng sớm từ bỏ được nó và không còn liên hệ gì với nó, với tôi sẽ càng tốt.”
Tôi không thể không mỉm cười. “Một lời rao hàng rất độc đáo,” tôi nói. “Khi cô nói tôi có thể sở hữu nó...”
“Với giá 1,2 triệu bảng,” cô ả nói nhanh. “Đó là cái giá cô đã đưa ra.”
“Chỉ đang kiểm tra chắc chắn là cô sẽ không đề nghị cho tôi miễn phí.”
“Tôi sẽ cho cô thông tin liên lạc với luật sư của tôi - hãy bảo luật sư của cô làm một lời đề nghị chính thức, sớm nhất có thể.” Cô ả uống cạn cốc, đặt nó lại trên bàn bếp. “Cô có muốn tôi đưa đi xem quanh nhà không? Hay như vậy chỉ phí thời gian? Cô không quan tâm lắm các phòng trông như thế nào, có lẽ vậy. Cô muốn mua ngôi nhà vì cô nghĩ ai đó có thể đã bị sát hại ở đây - cũng là lý do tôi muốn bán nó.”
Tôi chẳng buồn biện hộ cho mình. Nếu cô ả muốn nghĩ tôi đang làm việc này vì những lý do đáng ghê tởm thì cứ để cô ả nghĩ thế. “Tôi muốn được đi xem nhà,” tôi đáp.
“Làm nhanh cho xong đi,” cô ả nói cộc cằn. “Tôi cần phải ra khỏi đây.”
Khi chúng tôi đi qua từng phòng tầng một, cô ả chẳng nói chẳng rằng. Không một lời nào. Cô ả ngần ngừ một vài giây trước mỗi cánh cửa, như thể sợ phải mở nó và đi vào trong. Có một nhà kính trồng hoa không xuất hiện trong những bức ảnh - viền bằng nhựa, không phải gỗ. Kit sẽ ghét nó lắm đây.
Ở chân cầu thang, Selina nói, “Nếu cô có câu hỏi gì, hỏi đi.”
“Tôi đã hỏi rồi,” tôi bảo cô ả.
“Ý tôi là về ngôi nhà - hệ thống sưởi trung tâm, chuông chống trộm...”
“Tôi chẳng quan tâm đến bất kỳ cái gì kiểu thế cả.”
Tôi đi theo cô ả lên tầng. Đứng từ phòng này sang phòng khác, tôi nhìn xung quanh, giả vờ như đang chú ý, không thật sự xem xét những thứ trước mặt mình. Tôi vẫn đang nghĩ về chiếc tách sứ với họa tiết lông vũ đỏ trên thân, về thứ đồ cứng đã tạo ra tiếng lách cách bên trong nó.
Khi Selina dẫn đường vào phòng tắm, tôi nói, “Ồ - chờ đã. Tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng chuông điện thoại trong túi - tôi đi lấy nó đã.” Không đợi cô ả phản ứng, tôi xoay người chạy xuống tầng.
Ngay ở ngưỡng cửa của căn bếp, tôi đông cứng lại. Có phải tôi đã nhắc đến chuyện điện thoại của mình bị hỏng, trong thư? Không, tôi không nghĩ mình đã làm thế. Tôi bảo cô ả gọi cho tôi vào phòng khách sạn, nhưng không nói gì đến chuyện không có điện thoại.
Tôi di chuyển về phía chiếc tách lông vũ đỏ. Tay tôi run lên khi tôi nhấc nó khỏi giá và nhìn vào bên trong. Không có cái nút hay đĩa màu trắng nào trong đó, chỉ có một chùm chìa khóa gắn với một thẻ tên nhựa màu vàng. Tiếng đập thình thịch của tim tôi dội vào tai. Có một cái nhãn trên thẻ tên, với vài chữ viết tay nhỏ. Tôi chầm chậm lấy nó ra, để những chiếc chìa khóa không chạm vào thành cái tách, và nhìn kỹ hơn.
Tôi đọc đi đọc lại, mắt đảo thật nhanh qua dòng chữ nhỏ. Nó không thể có nghĩa như tôi nghĩ được. Phải là thế. Còn lý do gì khác để Selina nhìn vào chiếc tách khi cô ả lấy nó ra, kiểm tra xem chùm chìa khóa vẫn còn đó? Một tiếng gầm lớn vang vọng trong đầu tôi. Hơi thở tôi gấp gáp. Tôi không thể kiểm soát được, nó đang chạy trốn khỏi tôi.
Ôi, Chúa ơi.
Tại sao tôi có thể không biết, suốt khoảng thời gian ấy?
Tôi nghĩ về những gì tôi đã nói với Alice, điều Kit nói về việc đặt tên ngôi nhà ở Cambridge của chúng tôi: Càng nghĩ về nó anh lại càng thấy thích nó - Trung tâm Death Button. Chúng ta có thể đặt làm một tấm biển ở cửa trước. Không, anh biết rồi, còn hay hơn thế - hãy đặt tên nó là số 17 Pardoner Lane.
Làm sao tôi có thể nói điều đó với Alice, mà vẫn không nhận ra?
“Connie?” Tôi nghe tiếng bước chân của Selina Gane ở phía trên.
“Tôi tới đây,” tôi nói to. Tôi nhét chùm chìa khóa vào túi mình, đặt lại chiếc tách rỗng lên giá, và chạy lại lên tầng. “Tôi phải đi đây,” tôi nói. “Chỉ là...” Chẳng có lời nói dối thuận tiện nào nảy ra trong đầu. “Có chuyện.” Đấy là câu tốt nhất tôi có thể nghĩ ra. Tôi phải ra khỏi đây trước khi Selina Gane nhận ra tôi đã lấy chùm chìa khóa.
Tại sao mày lại lấy chúng? Mày định làm gì?
Cô ả cau mày. “Cô vẫn định mua, đúng không?”
Trong một giây, tôi sợ là mình sẽ bật cười vào mặt cô ả. Cô ả sẽ nói sao nếu tôi bảo mình không cần phải trả cái giá quá giá trị cho ngôi nhà của cô ả nữa? Tôi rất tiếc, nhưng tôi sẽ phải bỏ qua - tôi đã nghĩ ra được chuyện gì đang xảy ra mà không cần phải tự đẩy mình vào cảnh phá sản. Cô có mừng cho tôi không, bác sĩ?
Mọi thứ đã thay đổi. Tôi không còn cần mua số 11 Bentley Grove nữa.
Nhưng tôi vẫn muốn. Tại sao? Alice trong nội tâm của tôi hỏi. Bởi vì nó ở Cambridge, tôi trả lời cô ấy, và Cambridge là nơi tôi muốn sống. Nó đã là nơi tôi muốn sống kể từ năm 2003. Và ngôi nhà này đang được rao bán, và tôi thì đã chào mua nó, và không có ai bị giết ở đây cả - tôi đã nhầm về việc đó. Và... khi tôi bấm nút ‘Nhà’ trên định vị vệ tinh, đây là địa chỉ đã xuất hiện: số 11 Bentley Grove.
Tôi không biết những lý do của mình là có thể cảm thông hay thực sự điên khùng, nhưng tôi cũng không mấy quan tâm.
“Tôi vẫn sẽ mua,” tôi nói với Selina Gane. “Đừng lo, tôi sẽ không làm cô thất vọng đâu.” Và rồi tôi chạy mất.