"Tại sao chị lại muốn nói chuyện với Simon Waterhouse?” tay thám tử tên Sam hỏi. Họ của anh ta bắt đầu bằng chữ K, dài và nghe rất lạ - anh ta đã đánh vần nó cho tôi khi tự giới thiệu bản thân. Tôi không nhớ được và cảm thấy mình không thể hỏi lại. Anh ta cao ráo, ưa nhìn, với tóc đen và làn da tối màu. Sam mặc áo vest đen bên ngoài áo phông trắng sọc màu tím nhạt, kiểu như những đường kẻ chấm.
Không cà vạt. Tôi không thể ngừng nhìn vào yết hầu anh ta. Trông nó nhọn như thể sắp đâm thủng lớp da. Tôi tưởng tượng cảnh nó cắt qua cổ anh, một tia máu bắn ra. Tôi lắc lắc đầu xua đi tưởng tượng bệnh hoạn ấy.
Có phải anh ta muốn mình kể lại? “Tôi thấy một người phụ nữ nằm sấp mặt...”
“Chị hiểu nhầm ý tôi rồi,” anh ta ngắt lời, mỉm cười để không tỏ ra bất lịch sự. “Ý tôi là tại sao chị lại yêu cầu đích danh Simon Waterhouse?”
Kit ở trong bếp pha trà cho chúng tôi. Tôi thấy mừng. Tôi thấy khó lòng trả lời được câu hỏi khi có anh ngồi nghe. Nếu tôi không cảm thấy kinh hoàng đến thế, chuyện này có vẻ khá nực cười, kiểu như một vở kịch câm ngắn lạ lùng: Người Cảnh Sát Tới Dùng Trà. Chỉ mới tám rưỡi, chúng tôi nên mời anh ta bữa sáng. Thật tốt khi anh ta đến sớm như vậy. Có thể Kit sẽ mang tới một ít bánh sừng bò kèm theo đồ uống. Nếu anh không định mời thì tôi cũng không. Tôi chẳng nghĩ được gì ngoài người phụ nữ đã chết kia. Cô ta là ai? Liệu có ai biết hay quan tâm là cô ta đã bị sát hại, ngoại trừ tôi?
“Tôi hiện đang đi chữa bệnh ở chỗ một người dùng liệu pháp vi lượng đồng căn1 trong sáu tháng vừa rồi. Tôi gặp một vài vấn đề nhỏ về sức khỏe, không có gì nghiêm trọng cả.” Liệu có lý do gì phải kể với anh ta như vậy không? Tôi quyết định không thêm thắt vào những vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm lý của mình, hay việc người chữa bệnh theo vi lượng đồng căn của tôi cũng là một tư vấn viên. Khao khát né tránh sự thực khiến tôi cảm thấy tức giận - với bản thân mình, với Kit, Sam K và mọi người. Chẳng có gì đáng xấu hổ về việc cần được nói chuyện với ai đó.
1 Phương pháp y học điều trị cho bệnh nhân bằng cách sử dụng những chế phẩm được pha loãng, gây ra cho một người bình thường những triệu chứng tương tự với chính căn bệnh cần chữa.
Vậy sao mày lại xấu hổ?
“Alice - người trị liệu của tôi - gợi ý tôi nói chuyện với Simon Waterhouse. Cô ấy nói...” Đừng có nói ra. Mày sẽ làm anh ta có thành kiến với mày.
“Chị nói tiếp đi.” Sam K đang cố gắng hết sức để tỏ ra tử tế và không đáng sợ.
Tôi quyết định thưởng công cho nỗ lực của anh ta bằng một câu trả lời thành thực. “Cô ấy nói anh ta không như những cảnh sát khác. Cô ấy nói anh ta sẽ tin những chuyện không thể tin nổi, nếu chuyện đó có thật. Và đó đúng là có thật. Tôi thấy xác một người phụ nữ trong căn phòng ấy. Tôi không hiểu tại sao nó... tại sao cô ta không còn đó nữa khi Kit ra xem. Tôi không thể giải thích được. Nhưng phải có một cách giải thích nào đó chứ.”
Sam K gật đầu. Không thể đọc được nét mặt anh ta. Có thể anh ta đang cố động viên những người điên khùng. Nếu anh ta nghĩ tôi điên, ước chi anh ta nói thẳng ra: Chị điên rồi, chị Bowskill à. Tôi đã bảo anh ta cứ gọi tôi là Connie, nhưng tôi không nghĩ anh ta muốn. Từ khi tôi nói thế, anh ta chẳng gọi tên tôi gì cả.
“Simon đâu?” Tôi hỏi. Khi tôi gọi vào số anh ta đêm qua, giọng thu âm sẵn nói rằng anh ta không có đó - không rõ trong bao lâu hay tại sao - và cung cấp một số điện thoại khác để gọi lúc khẩn cấp: hóa ra đó là số của Sam K, như đã thấy.
“Cậu ấy đang trong tuần trăng mật.”
“Ồ.” Anh ta không nói với tôi là mình chuẩn bị kết hôn. Chẳng có lý do gì để nói với tôi cả, tôi đoán thế. “Khi nào anh ta trở về?”
“Cậu ấy đi được hai tuần rồi.”
“Tôi xin lỗi đã gọi anh lúc hai giờ sáng,” tôi nói. “Tôi nên đợi đến sáng, nhưng... Kit đã quay lại phòng ngủ, và tôi không thể không làm gì. Tôi phải nói với ai đó thứ tôi vừa thấy.”
Hai tuần. Tất nhiên rồi - kỳ trăng mật dài chừng đó. Tuần trăng mật của tôi và Kit còn dài hơn: ba tuần ở Sri Lanka. Tôi nhớ mẹ còn hỏi liệu ba tuần có “thực sự cần thiết”. Kit đáp lời mẹ tôi một cách lịch sự nhưng cũng rất cứng rắn rằng “có”. Anh đã sắp xếp xong xuôi mọi việc và không sẵn lòng để cho bà làm ảnh hưởng đến kế hoạch. Những khách sạn mà anh chọn quá đẹp, tôi không thể tin được chúng có thực chứ không phải mơ. Chúng tôi ở mỗi khách sạn một tuần. Kit đặt tên cho khách sạn cuối là “Khách Sạn Thực Sự Cần Thiết”.
Simon Waterhouse có quyền tận hưởng kỳ trăng mật của mình, cũng như Kit có quyền được ngủ trọn vẹn. Và cũng như Sam K có quyền được giải quyết nỗi lo của tôi nhanh gọn, để anh ta có thể tận hưởng ngày thứ Bảy của mình. Không thể nào mà tất cả những người tôi tiếp xúc đều khiến tôi thất vọng, hẳn là tôi phải làm sai ở chỗ nào rồi.
“Anh ta không nhắc đến tên anh trong tin nhắn thoại - chỉ có số điện thoại. “Tôi nghĩ đó có thể là một kiểu dịch vụ ngoài giờ, giống như bác sĩ vậy.”
“Đừng lo về chuyện đó. Tôi nói thực đấy. Cũng tốt khi nhận cuộc gọi khẩn cấp từ một ai đó không phải mẹ của Simon.”
“Bà có ổn không?” Tôi hỏi. Tôi cảm giác mình cần hỏi han.
“Còn tùy vào cách nhìn của chị.” Sam K mỉm cười. “Bà đã gọi cho tôi hai lần kể từ khi Simon rời đi hôm qua, khóc lóc và bảo rằng mình cần nói chuyện với con trai. Cậu ấy đã cảnh báo trước là cậu ấy và Charlie sẽ không mang điện thoại đi đâu, nhưng tôi không nghĩ bà ấy tin. Và bây giờ bà cũng không tin khi tôi nói mình không biết cậu ấy ở đâu, mà đúng là tôi không biết thật.”
Tôi tự hỏi cái người tên Charlie đang hưởng tuần trăng mật với Simon Waterhouse là đàn ông hay phụ nữ. Mà đó có là ai thì cũng chẳng ảnh hưởng gì.
Kit bước vào với trà và một đĩa bánh quy sô-cô-la đặt trên khay gỗ. “Xin cứ tự nhiên,” anh nói với Sam K. “Chúng ta đang nói đến đâu rồi?” Anh muốn có tiến trình, muốn thấy giải pháp. Anh muốn được nghe là vị chuyên gia này đã chữa cho vợ anh khỏi tình trạng điên rồ trong mười phút anh ở trong bếp.
Sam K ngồi thẳng người lên. “Tôi đang đợi anh để chuẩn bị giải thích...” Từ phía Kit, anh ta quay sang tôi. “Tôi rất vui lòng được giúp đỡ chị hết sức, và tôi có thể giúp chị liên lạc được với đúng người nếu chị quyết định muốn đi xa hơn, nhưng... đây không phải là việc tôi có thể trực tiếp giải quyết được. Simon Waterhouse cũng không, kể cả khi cậu ấy không nghỉ tuần trăng mật, và thậm chí kể cả khi...” Anh ta cắn môi, không nghĩ ra được gì để nói.
Kể cả khi đó không phải là câu chuyện hoang đường nhất tôi từng được nghe, và chắc chắn đó là chỉ là một mớ rác rưởi. Đó là câu anh ta vừa cố ngăn mình nói ra.
“Kể cả khi có một người phụ nữ nằm đó bị thương hoặc đã chết rồi tại một ngôi nhà ở Cambridge, chị cần nói chuyện với Cảnh sát Cambridge chứ không phải chúng tôi,” anh ta nói.
“Không phải cô ta bị thương,” tôi bảo anh ta. “Cô ta chết rồi. Không thể có chuyện máu chảy lênh láng đến thế mà người ta lại còn sống được. Và tôi sẵn sàng nói chuyện với bất kỳ người nào nếu cần - cho tôi một cái tên và địa chỉ để tìm được họ, tôi sẽ tự lo.”
Có phải Kit vừa thở dài không, hay chỉ là tôi tưởng tượng ra thôi?
“Thôi được rồi.” Tự rót cho mình một cốc trà, Sam K lấy ra một cuốn sổ và cây bút. “Sao chúng ta không điểm qua một vài chi tiết nhỉ? Ngôi nhà tình nghi là số 11 Bentley Grove, đúng không?”
“Số 11 Bentley Grove, Cambridge. CB2 9AW.” Anh thấy không, Kit? Em thậm chí còn thuộc cả mã bưu điện.
“Nói cho tôi biết chính xác chuyện gì đã xảy ra, Connie. Bằng lời kể của chính chị.”
Vậy tôi còn định dùng lời kể của ai khác nữa? “Lúc đó tôi đang xem một trang web về bất động sản, Roundthehouses.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Khá muộn. Một giờ mười lăm.”
“Tại sao chị lại thức khuya như vậy?”
“Thỉnh thoảng tôi bị khó ngủ.”
Một nụ cười khinh khỉnh làm méo mó gương mặt Kit trong giây lát, chỉ có tôi để ý thấy sự xuất hiện thoáng qua của nó. Anh đang nghĩ rằng, nếu việc khó ngủ là thật, đó hoàn toàn là lỗi của tôi vì đã đầu hàng chứng bệnh hoang tưởng: tôi đã chọn việc hành hạ bản thân vì những vấn đề không có thật. Anh thì tỉnh táo và bình thường, thế nên anh luôn ngủ ngon giấc.
Làm sao tôi có thể hiểu anh rõ đến mức đọc được suy nghĩ của anh, và cùng lúc, lại cảm thấy lo sợ rằng mình chẳng hiểu gì về anh? Nếu tôi nhìn vào tấm phim chụp X quang của tâm hồn anh, liệu có phải tôi sẽ chỉ thấy những gì tôi đã biết từ trước - niềm tin không thể lay chuyển của anh rằng trà uống ngon hơn nếu rót từ ấm và bỏ sữa vào ly trước, tham vọng và chủ nghĩa hoàn hảo của anh, khiếu hài hước kỳ dị - hay ở đó sẽ có một hố đen xa lạ ở trung tâm, hiểm ác và đáng sợ?
“Tại sao chị lại truy cập trang web về bất động sản, và tại sao lại là Cambridge?” Sam K hỏi tôi. “Chị đang nghĩ đến chuyện chuyển tới đó à?”
“Tất nhiên là không rồi,” Kit nói đầy cảm xúc. “Chúng tôi chỉ vừa mới sửa sang lại nội thất cho nơi này, sáu năm sau khi mua nó. Tôi muốn được tận hưởng nó ít nhất là trong khoảng thời gian tương đương. Tôi đã bảo với Connie rồi: nếu chúng ta có con trong vòng sáu năm tới, nó phải được ngủ trong một ngăn tủ kéo đựng tài liệu.” Anh nhe răng cười và với tay lấy một chiếc bánh quy. “Tôi không làm tất cả những việc đó chỉ để bán tháo đi và cho ai đó hưởng lợi. Thêm nữa, việc kinh doanh chúng tôi điều hành lấy trụ sở ở đây, và Connie có chút quá hào hứng và lỡ mua quá tay chỗ giấy viết có in tên sẵn, thế nên chúng tôi không thể chuyển đi đâu cho tới khi đã viết được ít nhất là bốn nghìn lá thư nữa.”
Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo: Sam K sẽ hỏi về Nulli. Kit sẽ trả lời lâu thật lâu, không thể nào giải thích công việc của chúng tôi nhanh gọn được, và chồng tôi chính là một kẻ mê chi tiết. Tôi sẽ phải đợi để được kể về cái xác người phụ nữ.
Connie có chút quá hào hứng.
Có phải anh cố tình nói vậy, để gieo vào tâm trí Sam K ý nghĩ rằng tôi là một người dễ bị cuốn vào điều gì đó? Người đã đặt mua lượng giấy in tên sẵn nhiều hơn sáu lần số giấy cô ấy cần cũng có thể tự huyễn hoặc ra một cái xác nằm trên vũng máu.
Tôi lắng nghe Kit miêu tả công việc của chúng tôi. Trong ba năm qua, dàn nhân viên chính thức hai mươi tuổi có lẻ của Nulli đã làm việc với tập đoàn ngân hàng Liên minh Tư bản London. Chính phủ Hoa Kỳ đang trong quá trình kiện tụng tập đoàn, nơi mà, giống như nhiều ngân hàng Anh khác, có lịch sử lâu đời về chuyện vi phạm luật của Mỹ trong việc xử lý với những kẻ bảo trợ cho chủ nghĩa khủng bố, vô tình cho phép những cá nhân và tổ chức trong danh sách đen thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử ở Hoa Kỳ bằng đồng đô la Mỹ. Liên minh Tư bản London hiện đang cố gắng hết sức để sửa lại sai lầm, lấy lòng OFAC, phòng quản lý tài sản nước ngoài của Mỹ, và giảm đến tối thiếu tổn thất cuối cùng, gần như chắc chắn là khoản phạt lên tới nhiều triệu đô. Nulli được thuê để xây dựng hệ thống lọc dữ liệu, giúp ngân hàng đào xới đến từng giao dịch đáng ngờ nằm trong quá khứ, để có thể trình bày một cách chân thực tới Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.
Giống như tất cả những người được nghe Kit kể, Sam K trông vừa ấn tượng vừa lúng túng. “Vậy anh có trụ sở ở London không?” anh ta hỏi. “Hay anh đi về giữa hai nơi?”
“Connie hoạt động ở đây, tôi thì nửa này nửa kia,” Kit nói. “Tôi thuê một căn hộ ở Limehouse - một cái hộp có giường, về cơ bản là như vậy. Và theo như tôi nhận thấy, tôi chỉ có một mái nhà, đó là Melrose Cottage.” Anh liếc nhìn tôi khi nói câu này. Anh ấy mong một tràng pháo tay à?
“Tôi có thể thấy là căn hộ nhỏ ở London sẽ phải vất vả cạnh tranh với nơi này.” Sam K nhìn quanh căn phòng khách. “Nó có rất nhiều đặc điểm riêng.” Anh ta quay lại để xem xét một tấm hình đóng khung trên tường phía sau - bức ảnh Nhà nguyện King’s College, với một cô gái đang ngồi ở bậc cửa và cười. Liệu anh ta có biết mình đang nhìn vào một bức hình của Cambridge? Nếu có, anh ta cũng chẳng nói gì.
Bức hình là một món quà từ Kit và tôi thì luôn ghét nó. Trên khung ảnh ở phía dưới, ai đó đã viết lên ‘4/100’. “Đấy không phải điểm số tốt lắm,” tôi nói khi lần đầu Kit tặng tôi. “Bốn phần trăm.”
Anh cười. “Nó là ấn bản thứ tư trong một trăm bản in, ngốc ạ. Chỉ có một trăm tấm như thế này trên thế giới thôi. Nó không đẹp sao?”
“Em tưởng anh không thích hàng sản xuất đại trà chứ,” tôi nói, kiên quyết tỏ ra không biết ơn gì.
Anh cảm thấy bị tổn thương. “Chữ viết tay ‘4/100’ khiến nó độc nhất vô nhị. Đó là lý do từng bản in được đánh số.” Anh thở dài. “Em không thích nó, phải không?”
Lúc đó, tôi nhận ra mình đang hành xử ích kỷ đến thế nào và vờ tỏ ra mình thích nó.
“Vợ tôi gọi những ngôi nhà như thế này là ‘sẵn sàng để lên hình’,” Sam K nói. “Ngay từ giây phút đầu tiên bước lên thềm nhà anh, tôi đã cảm thấy kém cỏi.”
“Anh nên xem bên trong xe chúng tôi,” Kit bảo anh ta. “Hoặc có thể gọi chúng là hai thùng rác tràn trên bánh xe. Tôi đã nghĩ đến chuyện quẳng chúng ở vỉa hè bên cạnh xe rác vào ngày thu gom rác thải, mở cả cửa luôn - biết đâu hội đồng thành phố lại thương hại chúng tôi.”
Tôi đứng dậy. Máu dồn lên đầu và căn phòng chao đảo, nhòe đi. Tôi có cảm giác từng phần trên cơ thể mình đang tách rời nhau ra, rơi rụng và trôi xa dần. Đầu tôi tràn ngập cảm giác buốt nhói. Chuyện này cứ xảy ra suốt. Bác sĩ của tôi không biết nguyên nhân có thể là gì. Tôi đã làm xét nghiệm, chụp chiếu, mọi thứ. Alice, người trị liệu của tôi, cho rằng đó là biểu hiện ra ngoài của tình trạng kiệt sức về tâm lý.
Mất vài giây để cơn choáng váng qua đi. “Anh có thể ra về được rồi,” tôi nói với Sam K, ngay khi mình có thể cất lời được. “Rõ ràng anh không tin tôi, vậy tại sao cả hai bên lại phải phung phí thời gian của nhau cơ chứ?”
Anh ta nhìn tôi trầm ngâm. “Điều gì khiến chị nghĩ tôi không tin tưởng chị?”
“Tôi có thể bị ảo tưởng nhưng tôi không ngu,” tôi cáu kỉnh với anh ta. “Anh đang ngồi đây ăn bánh quy, tán gẫu về xe rác và nội thất...”
“Làm như vậy giúp tôi tìm hiểu thêm một chút về chị và Kit.” Anh ta vẫn điềm tĩnh trước cơn bùng nổ của tôi. “Tôi muốn biết chị là ai cũng nhiều như muốn biết anh chị đã thấy gì.”
Phương pháp tiếp cận tổng thể. Alice chắc cũng sẽ về phe anh ta.
“Tôi chẳng thấy gì cả,” Kit nhún vai.
“Không đúng,” tôi bảo anh. “Không phải là anh không thấy gì - anh đã thấy một căn phòng khách mà không có xác người nào trong đó. Như thế đâu phải là không có gì.”
“Tại sao lại là trang web bất động sản, Connie?” Sam K lại hỏi. “Tại sao lại là Cambridge?”
“Một vài năm trước chúng tôi đã nghĩ đến việc chuyển tới đó,” tôi nói, không đủ can đảm nhìn vào mắt anh ta. “Chúng tôi đã quyết định thôi, nhưng... đôi khi tôi vẫn nghĩ về nó, và... tôi không biết, đó chỉ là một phút bốc đồng - không có lý do đặc biệt nào sau đó cả. Tôi tìm kiếm đủ các thể loại những thứ kỳ cục trên mạng khi tôi cảm thấy không thể nghỉ ngơi và ngủ được.”
“Vậy, đêm qua, chị đăng nhập vào trang Roundthehouses và... làm gì? Nói cho tôi cả câu chuyện, từng bước một.”
“Tôi tìm kiếm bất động sản đang chào bán ở Cambridge, thấy số 11 Bentley Grove, trích xuất thông tin chi tiết...”
“Chị có xem xét bất kỳ ngôi nhà nào khác không?”
“Không.”
“Tại sao không? Điều gì khiến chị chọn số 11 Bentley Grove?”
“Tôi không biết. Nó đứng thứ ba trong danh sách hiện lên. Tôi thích vẻ ngoài của nó, nên nhấn vào đó.” Tôi lại ngồi xuống. “Đầu tiên tôi xem ảnh các căn phòng, rồi tôi thấy có tour ảo, nên tôi nghĩ có lẽ mình cũng nên xem qua cái đó nữa.”
Kit vươn ra và bóp chặt bàn tay tôi.
“Nó được rao bán với giá bao nhiêu?” Sam K hỏi.
Tại sao anh ta muốn biết điều đó? “1,2 triệu.”
“Liệu anh chị có đủ khả năng mua được nó không?”
“Không. Một chút cũng không,” Tôi nói.
“Vậy là anh chị không hề có ý định chuyển tới Cambridge và số 11 Bentley Grove cũng nằm ngoài khả năng chi trả, nhưng chị vẫn quan tâm nó đến mức làm một tour ảo, kể cả sau khi chị đã nhìn vào những bức hình rồi?”
“Anh phải biết cảm giác nó như thế nào.” Tôi cố không tỏ ra phòng thủ. “Tự nhiên anh sẽ nhấn vào hết cái này đến cái khác. Chẳng vì một lý do cụ thể nào cả, chỉ là...”
“Cô ấy đang TĐTGT,” Kit bảo Sam K. “TĐTGT viết tắt cho Tôi đang tìm gì thế? - lướt web vô mục đích. Tôi làm thế suốt, trong khi đáng lẽ ra tôi phải đang làm việc.” Anh đang bao che cho tôi. Liệu anh có mong chờ tôi sẽ biết ơn vì sự hỗ trợ này? Do anh mà tôi phải bịa ra chuyện này. Tôi không phải là kẻ dối trá ở đây.
“Thôi được rồi,” Sam K nói. “Vậy là chị làm một tour ảo tham quan số 11 Bentley Grove.”
“Căn bếp xuất hiện đầu tiên. Hình ảnh cứ xoay vòng vòng - nó khiến mắt tôi mỏi, nên tôi nhắm mắt lại, và khi tôi mở mắt ra tôi thấy tất cả đều... đỏ lòm. Tôi nhận ra mình đang nhìn vào gian phòng khách, và có một cái xác phụ nữ...”
“Sao chị biết đó là gian phòng khách?” Sam K ngắt lời tôi. Tôi không phiền khi bị ngắt lời. Nó làm tôi bình tĩnh lại, kéo tôi ra khỏi khung cảnh kinh hoàng vẫn còn quá sống động trong tâm trí, và quay trở về với thực tại. “Trước đấy tôi đã thấy nó trong một tấm hình - đó là cùng một căn phòng.” Tôi chưa bảo với anh ta là tôi xem ảnh trước à? Anh ta đang cố bắt thóp tôi sao?
“Nhưng không có xác người phụ nữ nào trong ảnh, đúng không?”
Tôi gật.
“Đặt sang một bên vấn đề về máu và cái xác chút đã. Trong mọi góc độ, căn phòng khách trên tour ảo cũng chính là phòng khách thấy trong ảnh, đúng không?”
“Phải. Tôi gần như chắc chắn là như vậy. Ý tôi là, tôi cảm thấy chắc chắn nhất trong khả năng của mình là như vậy.”
“Chị mô tả nó đi.”
“Để làm gì cơ chứ?” Tôi hỏi, cảm thấy bực tức. “Anh có thể đăng nhập vào trang Roundthehouses và tự mà xem lấy. Sao anh không yêu cầu tôi tả người phụ nữ ấy?”
“Tôi biết chuyện này với chị là rất khó khăn, Connie, nhưng chị phải tin tưởng rằng mọi điều tôi hỏi đều có lý do cả.”
“Anh muốn tôi miêu tả phòng khách?” Tôi cảm thấy như thể mình đang đứng trong một bữa tiệc của con nít, chơi một trò chơi xuẩn ngốc.
“Vâng.”
“Tường trắng, thảm màu be. Một chiếc lò sưởi ở trung tâm một bức tường, xung quanh lát gạch. Tôi không nhìn được chi tiết viên gạch, nhưng tôi nghĩ nó có hoa văn dạng như hình bông hoa. Trông chúng quá lỗi thời so với căn phòng.” Tôi chỉ nhận ra điều này sau khi nghe thấy mình nói và cảm thấy nhẹ nhõm. Kit có thể chọn loại đá như vậy cho nhà chúng tôi, vốn được xây từ năm 1750, nhưng không bao giờ anh chọn chúng cho một ngôi nhà hiện đại như số 11 Bentley Grove, hẳn là không thể nào nhiều hơn mười năm tuổi. Anh ấy tin rằng những tòa nhà mới nên mang tính đương đại hoàn toàn, từ trong ra ngoài.
Vậy nên số 11 Bentley Grove chẳng liên quan gì đến anh ấy.
“Chị nói tiếp đi,” Sam K nói.
“Các hốc tường nằm hai bên bụng lò sưởi. Một chiếc ghế sô- pha hình chữ L màu bạc thêu họa tiết đỏ, một chiếc ghế với tay vịn gỗ hình thù lạ mắt, một chiếc bàn uống cà phê với mặt kính và những bông hoa trong tủ trưng bày có dạng nằm ngang bên dưới mặt kính - hoa màu xanh da trời và đỏ.” Để tiệp màu với những viên gạch lát. Còn một thứ nữa, một thứ tôi không thể gợi nhớ được. Gì thế nhỉ? Tôi còn thấy gì nữa, khi căn phòng chầm chậm xoay vòng? “Ồ, và một tấm bản đồ phía trên lò sưởi - một tấm bản đồ được lồng khung.” Không phải là nó, nhưng tôi vẫn nên nhắc đến. Gì nữa? Tôi có nên nói với Sam K rằng còn một thứ gì đó nữa mà tôi không nhớ là gì không? Liệu có ích gì không?
“Tấm bản đồ vẽ gì?” anh ta hỏi.
“Tôi không nhìn được - trong hình nó nhỏ quá. Ở góc trên cùng bên trái có một vài tấm khiên - có lẽ khoảng chục cái.”
“Khiên?”
“Trông như hình bia mộ dựng ngược ấy.”
“Ý em là gia huy à?” Kit nói. “Kiểu như một gia tộc có biểu tượng riêng ấy?”
“Vâng.” Chính là nó. Tôi không nghĩ ra được từ. “Hầu hết chúng đều nhiều màu sắc và có họa tiết trang trí, nhưng một cái trống trơn - nó chỉ là phác thảo.”
Liệu chiếc gia huy trống trơn có phải là chi tiết còn thiếu không? Tôi có thể vờ như chính là nó, nhưng sẽ chỉ là tự dối mình mà thôi. Trí óc tôi đã lấy đi mất một thứ gì đó từ căn phòng ấy, một thứ mà nó chẳng chịu trả về.
“Còn gì nữa không?”
“Xác một phụ nữ nằm trên bể máu,” tôi nói, cảm thấy căm ghét sự hằn học trong giọng của mình. Tại sao tôi lại giận dữ đến vậy? Bởi vì chị cảm thấy bất lực, Alice sẽ nói thế. Chúng ta sản sinh ra sự giận dữ để đem lại cho bản thân ảo tưởng về sức mạnh của mình khi chúng ta cảm thấy yếu đuối và bất lực.
Cuối cùng, tôi được nghe những từ ngữ mình vẫn hằng chờ đợi. “Chị mô tả người phụ nữ đi,” Sam K nói.
***
Từ ngữ bắt đầu tuôn trào, một dòng chảy không thể kiểm soát nổi. “Khi tôi nhìn thấy cô ta, và tất cả đám máu me đó, khi tôi nhận ra bản thân đang nhìn vào cái gì, tôi nhìn xuống chính mình - đó là việc đầu tiên tôi làm. Tôi hoảng loạn. Trong một khắc tôi đã nghĩ mình đang nhìn vào hình ảnh của chính bản thân - tôi nhìn xuống để kiểm tra xem mình có chảy máu không. Về sau tôi thấy không thể hiểu nổi - tại sao tôi lại làm thế? Cô ta nằm sấp xuống - tôi không nhìn được mặt cô ta. Cô ta nhỏ nhắn, mảnh dẻ, chiều cao và vóc dáng tầm như tôi. Cô ta có tóc màu tối, cùng màu với tóc của tôi, thẳng như của tôi. Nó trông... lộn xộn, lòa xòa trải rộng, như thể cô ta ngã xuống và...” Tôi rùng mình, hy vọng mình không cần phải nói ra: người chết rồi không thể chỉnh trang tóc mình được.
“Tôi không thấy được mặt cô ta, và tôi tưởng tượng - chỉ trong một giây lát, cho tới khi tôi lấy lại được bình tĩnh - rằng cô ta chính là tôi, rằng chính tôi đang nằm đó. Đừng viết nữa,” tôi nghe tiếng chính mình nói. Quá to. “Anh không thể chỉ nghe thôi và ghi chép sau à?”
Sam K liền đặt quyển sổ và chiếc bút của mình xuống.
“Tôi không muốn dựng lên câu chuyện đi quá sự thật,” Tôi nói. “Tôi biết đó không phải là tôi, tất nhiên tôi biết, nhưng... dường như tri giác đánh lừa tôi. Có lẽ là bởi cơn sốc. Cô ta nằm trên vũng máu lớn nhất tôi từng thấy. Như cả một tấm thảm lớn đỏ sẫm bên dưới cô ta. Đầu tiên tôi nghĩ đấy không thể là máu được bởi có quá nhiều, nó bao phủ đến khoảng một phần ba căn phòng, nhưng rồi tôi nghĩ... Thì, hẳn là anh biết đấy. Anh chắc đã nhìn thấy người ta chết trên vũng máu của chính mình, những người mất máu tới chết.”
“Vì Chúa, Con,” Kit càu nhàu.
Tôi lờ anh đi. “Thường thì sẽ có bao nhiêu máu?”
Sam K hắng giọng. “Điều mà chị đang miêu tả ở đây nghe không có vẻ là không thể xảy ra, trong kịch bản bị chảy máu tới chết, dù tôi chưa từng thấy cảnh đó. Căn phòng có kích thước như thế nào?”
“Dài 6,35 mét và rộng 3,43 mét,” tôi trả lời.
Anh ta ngạc nhiên. “Con số chính xác thế.”
“Nó có trên bản thiết kế mặt bằng.”
“Trên trang web Roundthehouses?”
“Phải.”
“Chị có biết kích thước của các phòng còn lại không?”
“Không. Chỉ phòng khách thôi.”
“Em kể cho anh ta mình đã làm gì đêm qua, ngay sau khi anh quay lại giường đi,” Kit nói.
“Đầu tiên tôi gọi cho Simon Waterhouse, rồi, khi không thể gặp được anh ta, tôi gọi anh,” tôi nói với Sam K. “Sau khi nói chuyện với anh, tôi quay trở lại máy tính của mình và... xem ngôi nhà số 11 Bentley Grove một lần nữa. Tôi nghiên cứu từng tấm hình một, tôi nghiên cứu bản vẽ mặt bằng. Tôi xem đi xem lại tour ảo.” Phải, đúng thế. Qua đó tôi chính thức thông báo mình mắc chứng ám ảnh và tâm thần.
“Cô ấy làm vậy suốt sáu tiếng đồng hồ, cho tới khi tôi tỉnh dậy và kéo cô ấy ra khỏi chiếc máy tính,” Kit lặng lẽ nói.
“Tôi cứ tắt mạng đi rồi lại bật lên. Một vài lần khác thì tôi tắt máy tính đi, rút phích cắm ra, rồi cắm lại, rồi khởi động lại. Tôi... tôi cảm thấy kiệt sức và suy nghĩ không được thông, và... kiểu như tôi có cái ý nghĩ trong đầu rằng nếu tôi cứ cố kiên trì, tôi sẽ lại thấy cảnh đó một lần nữa - cái xác người phụ nữ.” Tôi có đang quá thành thật không? Vậy là hành động của tôi đêm qua là thiếu kiểm soát - vậy thì sao nào? Liệu điều đó có khiến tôi trở thành một nhân chứng không đáng tin cậy không? Liệu có phải cảnh sát chỉ lắng nghe những người uống hàng cốc Ovaltine trước khi đi ngủ lúc mười giờ tối và, một cách hợp lý, dành cả đêm ngon giấc trong bộ đồ ngủ bằng vải nỉ mỏng? “Tôi chưa từng thấy xác chết bao giờ. Một thi thể bị sát hại, mà ngay sau đó biến mất. Tôi đã rất sốc. Có lẽ giờ tôi vẫn còn sốc.”
“Sao chị lại nói ‘bị sát hại’?” Sam K hỏi.
“Khó mà tưởng tượng nổi ai đó lại bị như thế vì tai nạn. Có lẽ cô ta đã đâm một con dao vào bụng mình, rồi nằm sấp mặt xuống sàn chờ chết, nhưng nghe có vẻ không khả thi lắm. Không phải cách mà người ta hay dùng để tự tử.”
“Chị có nhìn thấy vết thương nào ở bụng không?”
“Không, nhưng máu nhìn đậm nhất ở quanh thân giữa cô ta. Nó gần như chuyển sang đen. Tôi nghĩ tôi vừa giả định là...” Một màu đen đặc như hắc ín, nhạt dần sang đỏ. Một cánh cửa sổ nhỏ, những ô sáng chữ nhật trên bề mặt sẫm tối...
“Connie?” Gương mặt Kit trôi trước mặt tôi. “Em ổn chứ?”
“Không. Không, không hẳn. Em thấy cái cửa sổ...”
“Đừng cố nói cho đến khi nào cơn choáng váng qua đi.”
“... trong vũng máu.”
“Ý chị ấy là sao?” Sam K hỏi.
“Tôi không biết. Con, kê đầu vào giữa hai đầu gối và hít thở đi.”
“Em ổn.” Tôi đẩy anh ra. “Giờ em ổn rồi. Nếu không một điều gì em vừa nói thuyết phục được hai người, thì chuyện này sẽ được,” tôi nói. “Em thấy cửa sổ phòng khách phản chiếu trên vũng máu. Khi căn phòng xoay vòng, vũng máu xoay vòng, và cái cửa sổ nhỏ cũng thế. Điều đấy chứng tỏ em không tưởng tượng ra nó! Không ai có thể tưởng tượng ra nổi một chi tiết ngu ngốc, mô phạm đến thế được. Chắc chắn em đã thấy nó. Nó phải là thật.”
“Vì Chúa.” Kit lấy bàn tay che mặt.
“Và váy của cô ta nữa. - tại sao em lại đi tưởng tượng ra một cái váy như vậy chứ? Nó màu xanh nhạt và tím tử đinh hương, họa tiết trang trí trông như kiểu có rất nhiều hình đồng hồ cát xuôi theo thân váy, những đường vẽ cong vào cong ra, vào và ra.” Tôi cố minh họa bằng tay.
Sam K gật đầu. “Lúc ấy, cô ta có mang giày hay quần tất không? Chị có để ý thấy thứ trang sức nào không?”
“Không quần tất. Chân cô ta để trần. Tôi cũng không nghĩ cô ta có mang giày. Cô ta đeo nhẫn cưới. Cánh tay cô ta giơ lên quá đầu. Tôi nhớ lúc ấy mình đã nhìn vào những ngón tay cô ta và... đúng thế, chắc chắn là một chiếc nhẫn cưới.”
Và còn một thứ khác nữa, một cái gì đấy mà tâm trí tôi từ chối tập trung vào. Càng cố gắng để nhận diện nó, tôi càng nhận thức được rõ hơn sự tồn tại bị ẩn giấu của nó, giống như một bóng hình tăm tối trượt khỏi khung hình và lẩn khuất khỏi tầm nhìn.
“Chuyện gì đã xảy ra khi chị thấy cái xác trên máy tính?” Sam K hỏi. “Chị đã làm gì, sau khi tự kiểm tra để chắc rằng không phải mình đang chảy máu?”
“Tôi gọi Kit dậy và bắt anh ấy đi xem.”
“Khi tôi đi vào, đang là cảnh phòng bếp xoay vòng vòng trên màn hình,” Kit nói. “Rồi phòng khách xuất hiện, không có cái xác phụ nữ nào trong đó cả, không có máu. Tôi bảo với Connie và cô ấy vào xem.”
“Cái xác đã biến mất,” tôi nói.
“Tôi không hề tải lại tour,” Kit nói. “Nó vẫn đang chạy khi tôi bước vào phòng, vẫn là tour mà Connie đã khởi động, đang chạy theo vòng lặp. Tôi không định nói là những thay đổi không thể xảy ra trên tour ảo của ngôi nhà - đương nhiên là có thể - nhưng chúng không thể làm ảnh hưởng được đến một tour đang chạy sẵn. Chỉ là chuyện đó không khả thi...”
“Tất nhiên là khả thi chứ,” tôi ngắt lời anh. “Anh muốn nói với em là người ta không thể sắp xếp một tour ảo sao cho trong một trăm hay một nghìn lần chạy, lại có một lần xuất hiện hình ảnh khác của căn phòng khách?” Thôi nào, Kit. Anh không tự hào về học trò của mình sao? Nhờ có anh mà em đã không còn đánh giá thấp những khả năng của kỹ thuật. Một chiếc máy tính, được lập trình bởi đúng người, có thể làm được gần như mọi thứ trên đời này.
“Sao nào?” tôi thúc giục. “Không khả thi sao?”
Kit bực tức thừa nhận rằng việc đó là có thể. “Làm ơn nói với anh rằng em không có cái ý định dành hết cả ngày ngồi xem cái tour đó đủ một nghìn lần,” anh nói. “Làm ơn.”
“Tôi có thể xem chiếc máy tính xách tay được không?” Sam K hỏi.
Trong khi Kit dẫn anh ta lên tầng, tôi đi tới đi lui, hình dung ra căn phòng khách số 11 Bentley Grove, cố gắng lật mở chi tiết còn thiếu. Người phụ nữ biến mất. Vũng máu biến mất. Và còn một điều gì đó nữa...
Tôi quá nhập tâm suy nghĩ đến mức không để ý rằng Kit đã quay lại. Tôi nhảy dựng lên khi anh nói, “Anh biết tất cả mọi người đều ghét những trung tâm môi giới bất động sản, nhưng em đã đẩy chuyện này đến một mức độ hoàn toàn khác. Em chưa hề suy xét tới lý do. Tại sao một tay cò bất động sản thiên tài xấu xa nào đó, ngồi trong văn phòng của mình tại Cambridge, lại muốn mang xác một phụ nữ với một bể máu vào tour ảo của ngôi nhà hắn ta đang cố bán? Đấy liệu có phải, nói là gì nhỉ, một kỹ thuật marketing mạo hiểm mới không? Có lẽ em nên xem ngôi nhà được rao bán thông qua người môi giới nào, rồi gọi và hỏi họ.”
“Không,” tôi nói, cảm thấy bình tâm hơn trong khi anh bắt đầu mất bình tĩnh. “Cảnh sát mới là người nên làm điều đó.” Tôi sẽ không để anh biến chuyện này thành thứ để cười cợt.
“Em nói cô ta bị sát hại. Hầu hết những kẻ giết người đều muốn che giấu hành vi của mình, chứ không phát sóng nó trên một trong những trang web phổ biến nhất cả nước.”
“Em nhận thức được việc đó, Kit. Em cũng biết mình đã nhìn thấy gì.” Tôi muốn hỏi anh một chuyện, nhưng mỗi câu hỏi tôi đặt ra đều là một cơ hội nữa cho anh nói dối. “Sao anh không kể với anh ta?”
“Kể với anh ta?”
“Nói với Sam. Rằng em bị ám ảnh với nhà số 11 Bentley Grove rất lâu trước đêm hôm qua rồi. Toàn bộ câu chuyện.”
Kit trông như vừa bị bắt thóp. “Sao em không nói với anh ta ấy? Anh cho là em không muốn anh ta biết, vì...” Anh ngừng lại, nhìn đi chỗ khác.
“Bởi vì?”
“Em biết rõ quá rồi còn gì! Nếu anh mà nói cho anh ta chuyện gì đã xảy ra từ tháng Một tới giờ, anh ta sẽ không đời nào dành thời gian cho người phụ nữ đã chết của em đâu - anh ta sẽ tin chắc cái xác biến mất đó, chẳng khác gì phần còn lại câu chuyện, cũng chỉ là từ trí tưởng tượng của em!”
“Có đúng thế không? Biết đâu anh ta lại suy đoán ngược lại - rằng có thể chuyện gì đấy đang thực sự xảy ra, liên quan đến ngôi nhà số 11 Bentley Grove và anh?” Tôi không muốn mạo hiểm và có lẽ Kit cũng thế.
Đôi mắt anh ngập nước. “Anh không thể chịu đựng chuyện này thêm nữa, Con. Anh đã nói với em rất nhiều, và em không chịu nghe.” Anh đổ ập xuống một chiếc ghế, day day thái dương. Trông anh già đi rất nhiều so với sáu tháng trước. Gương mặt anh thêm nhiều nếp nhăn, tóc bạc hẳn đi, cặp mắt thiếu tinh anh hơn. Có phải vì những gì tôi đã gây ra cho anh? Cả hai phương án đều quá tồi tệ để suy xét: hoặc anh chính là người đàn ông tốt bụng, vui tính, trung thành, chính trực mà tôi đã đem lòng yêu và tôi đang hủy hoại anh một cách chậm rãi nhưng chắc chắn, hoặc anh là một kẻ xa lạ đã đeo lớp ngụy trang trong nhiều tháng trời, có lẽ hàng năm trời - một kẻ lạ mặt rồi cuối cùng sẽ hủy hoại chính tôi.
“Anh yêu em, Con,” anh nói bằng một giọng trống rỗng. Tôi bắt đầu khóc. Tình yêu mà anh dành cho tôi chính là thứ vũ khí lợi hại nhất. “Anh sẽ luôn yêu em, dù cho em có thành công trong việc đẩy anh ra khỏi ngôi nhà này và ra khỏi cuộc đời em. Đó là lý do anh đã không kể hết” - anh đưa tay chỉ lên gác - “toàn bộ câu chuyện. Nếu em muốn cảnh sát nghiêm túc với câu chuyện của em, nếu em muốn họ tới số 11 Bentley Grove và kiểm tra rằng chẳng có cái xác phụ nữ nào nằm trên thảm thì, dù điều đó có điên rồ thế nào đi nữa, đó cũng là điều anh muốn. Anh muốn em thấy khá hơn.”
“Em biết,” tôi nói, cảm thấy tê liệt bên trong. Tôi không biết mình biết cái gì nữa.
“Em có biết anh cảm thấy khó khăn đến thế nào không, sống trong sự ngờ vực trong khi mình chẳng làm gì sai? Em tưởng anh không biết em đang nghĩ gì hả? ‘Kit là con mọt máy tính. Có lẽ anh ta có thể khiến cho một cái xác xuất hiện rồi biến mất chỉ trong vài giây. Có thể anh ta đã tự mình giết chết người đó.’”
“Em không nghĩ thế!” tôi nức nở. Bởi tôi không để mình đi xa đến mức đó. “Em ghét phải nghi ngờ anh, em thực sự ghét việc đó. Giá như số 11 Bentley Grove ở bất kỳ chỗ nào khác chứ không phải Cambridge...”
Sam K đã trở lại, đứng ở ngưỡng cửa. Anh ta đã nghe lỏm được bao nhiêu rồi? “Tôi sẽ cho anh chị biết tôi định làm gì,” anh ta nói. “Tôi sẽ tự mình nói chuyện với cảnh sát quận Cambridge. Họ sẽ quan tâm hơn nếu tôi là người liên hệ trước.”
Tim tôi như nhảy vọt lên. “Có phải anh...?” Tôi chỉ lên trên lầu, về phía văn phòng của chúng tôi.
“Tôi không thấy cái xác nào cả, không. Hay bất kỳ vũng máu nào.”
“Nhưng...”
“Khả năng cao là chị đã quá mệt mỏi nên gặp phải tình trạng kiểu như là... ảo giác nhất thời. Vừa nãy chị gọi là... là gì nhỉ? Sự đánh lừa tri giác. Nhưng, cùng lúc đó, tôi cũng không muốn bỏ qua những gì chị đã kể với tôi, bởi vì...” Anh ta thở dài. “Vì chị đã gọi cho Simon Waterhouse, không phải tôi. Simon Waterhouse là người chị muốn. Tôi không thể tự biến mình thành cậu ấy được, nhưng tôi có thể làm được điều tốt thứ hai, điều mà tôi biết cậu ấy sẽ làm: suy xét việc của chị nghiêm túc.”
“Cảm ơn anh,” tôi nói.
“Đừng cảm ơn tôi - tôi chỉ là người thế chỗ thôi.” Sam K mỉm cười. “Chị có thể cảm ơn Simon vào lần tới chị gặp cậu ấy.”
Chỉ tới khi anh ta rời đi tôi mới chợt nhận ra những lời nói đó có nghĩa là gì: anh ta biết tôi đã từng gặp Simon rồi.
TANG VẬT CảNH SÁT SỐ: CB13345/432/20IG
TRƯỜNG TIỂU HỌC CAVENDISH LODGE
BẢN TIN SỐ 586
Ngày: Thứ Hai này 30 tháng 11 năm 2009
Mèo con tại Cavendish Lodge!
Chúng ta đã có một cuộc họp lớp với một sự khác biệt nho nhỏ ở Lớp 1! Con mèo Bess của Marcus vừa sinh được năm chú mèo con, và bố mẹ em đã đưa chúng tới trường! Chúng ta đã có một khoảng thời gian tuyệt vời chơi đùa với những vị khách có lông dễ thương, và có một cuộc nói chuyện rất thú vị sau đó về thú cưng và cách chăm sóc chúng. Vô cùng cảm ơn Marcus cùng gia đình em vì niềm vui hết sẩy này! Dưới đây là hai nhận xét đáng yêu của các học sinh Lớp 1...
Chiều hôm qua bạn Marcus đưa mòe con đến trường. Chúng rất dễ thương chúng màu đen với những đốm trắng. Con được bế một con mòe chúng đáng yêu nhắm và nhìu lông nhưng chúng có móng vuốt màu hồng. Một trong số chúng chạy ra sau đờn piano. Con nghe thấy một con mòe kêu rừ rừ. Mắt chúng xanh như hai hòn bi ve. Chiều qua rứt là vui.
Harry Bradshaw viết
Ngày hôm qua Marcus và mẹ bạn ấy đã mang mấy chú mèo con đến buổi họp lớp chúng con đã nói chuyện về cách chăm sóc thú cưng chúng rất đáng yêu vài con có bộ lông đen với những đốm trứng. Con mèo mẹ Bess không có ở đó. Con được bế tận bốn con mèo người chúng mềm như lông vũ vậy.
Tilly Gilpatrick viết