Charlie không biết phải làm gì với họ của mình. Cô chưa từng coi nó là một vấn đề cho tới khi Simon đề cập đến nó ở sân bay. Anh gật gù khi nhìn vào hộ chiếu của cô và nói, “Anh cho là em sẽ phải làm một cái mới rồi.” Cô không hiểu ý anh là gì, và cô hẳn là đã rất thảm hại trong việc che giấu cơn sốc của mình khi nghe anh giải thích. Simon cười với cô. “Đừng lo,” anh nói. “Anh đoán là em sẽ đổi sang họ của anh, nhưng nếu em không muốn, anh cũng không phiền đâu.”
“Thật ư?” Charlie hỏi, ngay lập tức cảm thấy lo lắng về vẻ hạnh phúc của anh, thứ mà cô thấy thật mong manh và bị đe dọa ngay cả khi mọi thứ đang diễn ra ổn thỏa. Cô đã định làm việc ngược lại: cô sẽ giữ cái tên Charlie Zailer. Thành thật mà nói thì, cô đã ngạc nhiên là Simon không nghĩ như thế. Charlie giận dữ với chính mình vì đã không chuẩn bị cho chủ đề quan trọng đến vậy, cô vốn đã quyết rằng mình sẽ làm bất cứ điều gì anh muốn. Có những cái họ nghe còn tệ hơn Waterhouse.
Tuy nhiên, dường như, trong một khoảnh khắc cảm xúc của Simon chẳng có gì phức tạp. “Thật sự thì,” anh đảm bảo với cô. “Tên em là gì có quan trọng không? Đó chỉ là một cái nhãn thôi, nhỉ?”
“Chính xác,” cô đáp, mặt nghiêm túc. “Ý em là, khi nghĩ về chuyện đó, thì có thể em sẽ chỉ được gọi là nữ Sĩ quan cảnh sát số 53.437, phải không?”
Vấn đề tên họ choán ngợp tâm trí cô từ lúc ấy. Những người phụ nữ đã kết hôn khác làm gì? Những người hàng xóm của Charlie: Marion Gregory, Kate Kombothekra, Stacey Sellers, Debbie Gibbs - họ đều đổi họ. Olivia, chị gái của Charlie, người chuẩn bị làm đám cưới sang năm, đang cố thuyết phục Dominic, chồng sắp cưới của mình, rằng họ nên để tên là nhà Zailer-Lund. “Hoặc anh ấy có thể giữ tên như vậy và chị sẽ là Zailer-Lund một mình,” chị ấy nói với Charlie một cách ương ngạnh. “Nếu Dom muốn trói buộc mình trong gông cùm đang mục nát dần của truyền thống lỗi thời, đó là quyết định của anh ấy. Anh ấy không thể ngăn chị chọn lấy một hướng tiếp cận tiến bộ hơn.” Hiểu rõ về Olivia, Charlie ngờ rằng quyết tâm của chị ấy chẳng liên quan gì đến vấn đề chuẩn mực xã hội, mà thực chất liên quan đến khao khát được mang họ kép.
Charlie Zailer-Waterhouse. Không, chuyện đó không cần bàn cãi gì hết. Không giống như Liv, Charlie không ham hố gì cái mã ngoài của tầng lớp quý tộc phong lưu, một cái họ kép sẽ là nỗi xấu hổ với cô, cũng như sẽ trở thành cơ hội cho mọi người tại đồn trêu chọc.
“Sao chúng ta không lấy một họ mới?” cô gọi Simon, người đang ở trong bể bơi - hay, đúng hơn là, trên bể, nằm trên một chiếc thuyền hơi đang bập bềnh trên mặt nước khi họ vừa tới. Hai cánh tay và chân của anh lê thành vệt dài trên mặt nước khi anh thả bản thân trôi lững lờ. Thỉnh thoảng, anh lại khỏa cánh tay như mái chèo để xoay lại hoặc đẩy người đi. Một vài lần anh thò chân ra khỏi rìa thuyền, thử đá chân về sau, để xem mình có đẩy thuyền đi hết quãng đường sang phía bên kia hay không. Anh không làm được, bể bơi quá rộng.
Charlie đã bí mật theo dõi anh, trong khi vờ như đang đọc sách, được gần một tiếng rưỡi. Điều gì đang diễn ra trong tâm trí anh? “Simon?”
“Hả?”
“Anh xa cách quá.”
“Em vừa nói gì à?”
“Thay vì em đổi sang họ của anh, sao mình không chọn một cái họ mới? Cho cả hai chúng ta luôn.”
“Đừng ngớ ngẩn vậy. Chẳng ai làm thế cả.”
“Charlie và Simon Herrera.”
“Đấy không phải họ của Domingo à?”
“Chính xác. Mình có thể khởi đầu một truyền thống mới: người đầu tiên anh gặp trong tuần trăng mật, họ của người đó trở thành họ mới của cặp vợ chồng.” Domingo là người trông giữ biệt thự này: một anh chàng cơ bắp trẻ tuổi với làn da rám nắng, hút thuốc như ống khói, anh ta hầu như không nói được tiếng Anh và có vẻ như đang sống trong một ngôi nhà gỗ nhỏ theo phong cách miền núi Thụy Sĩ ở góc tít xa của khu vườn. Anh ta là người đã đón Simon và Charlie ở sân bay và chở họ tới Los Delfines, rồi dẫn họ đi tham quan một vòng ngôi nhà và sân vườn mà không hỏi trước - có lẽ vì vốn từ vựng không đủ - dù cho họ muốn đợi đến sáng. Chuyến tham quan kéo dài gần một giờ. Domingo nhất quyết phải dừng trước từng thiết bị một và chỉ vào nó, trước khi minh họa, trong sự im lặng tuyệt đối, rằng thứ đó nên được sử dụng như thế nào.
Charlie không để tâm. Cô đã bước qua cánh cổng gỗ xây trên một bức tường trắng cao với mái uốn vòm, đã hít sâu hương thơm ấm áp và thoáng đãng của khu vườn, đã thấy bể bơi sáng lấp lánh như một viên đá xanh khổng lồ rực rỡ và phải lòng Los Delfines ngay lúc ấy. Nếu cô buộc phải xem Domingo làm điệu bộ diễn tả cách xoay chìa trước ổ khóa và cách điều chỉnh hoặc bỏ tùy chỉnh của chuông báo động, để có thể được ở đây trong hai tuần, đó sẽ là cái giá mà cô rất vui lòng trả.
Mọi điều về nơi này đều hoàn hảo. Hoàn hảo đến mức Charlie lo lắng khi so sánh nó với bản thân và Simon. Nếu như điều duy nhất không ổn ở đây chính là họ thì sao? Cô biết rằng mình thật ngu ngốc khi đem so sánh một người với những người khác - đem so sánh cô và Simon với những cặp vợ chồng khác - nhưng khó mà tránh được việc đó. Charlie không biết một cặp mới cưới nào mà lại bước vào tuần trăng mật của mình theo kiểu những tên xã hội đen đứng ra chỉ điểm bước vào chương trình bảo vệ nhân chứng. Kathleen, mẹ của Simon, mắc chứng sợ máy bay cũng như sợ gần hết mọi thứ trên đời, không thể chịu đựng ý nghĩ rằng con trai mình sẽ đặt chân lên máy bay. Vậy nên Simon đã bảo mẹ là anh và Charlie sẽ tới Torquay cho tuần trăng mật - bằng xe lửa. Kathleen đã hỏi họ sẽ ở đâu, phòng khi bà cần liên lạc với anh trong trường hợp khẩn cấp. Anh có thể nêu ra một cái tên khách sạn nào đó ở Torquay, có thật hoặc bịa, nhưng anh biết Kathleen sẽ cố liên lạc với con trai chỉ trong vài ngày và phát hiện ra anh nói dối. Tóm lại, Simon chẳng còn lựa chọn nào ngoài việc từ chối tiết lộ cho bà. “Sẽ không có trường hợp khẩn cấp nào đâu,” anh nói chắc nịch. “Và nếu có, mẹ sẽ phải đợi thôi.”
Kathleen đã hờn dỗi, khóc lóc, van xin. Đã có lúc, sau một trong những bữa trưa Chủ nhật đẫm nước mắt đặc trưng của mình, bà quỳ xuống và ghì chặt lấy chân Simon. Thế là anh phải kéo bà ra khỏi mình. Charlie đã rất sốc, vì thái độ chẳng lấy gì làm ngạc nhiên của Simon, cũng như tất cả mọi điều khác. Michael, bố của anh, cũng chẳng có vẻ kinh ngạc gì cả. Sự đóng góp bằng lời duy nhất của ông là một câu lầm bầm hiếm hoi “Làm ơn đi, con trai” tới Simon. Làm ơn đi, con trai, cho bà một cách để liên lạc với con. Xin hãy để cuộc đời bố dễ thở hơn.
Simon vẫn giữ vững lập trường, trong sự nhẹ nhõm vô cùng của Charlie. Dù cho cô phản đối mãnh liệt, anh vẫn chấp nhận lời mời tới ăn trưa tại nhà bố mẹ anh vào Chủ nhật tuần sau đó. “Thần kinh anh có bình thường không thế?” Charlie quát vào mặt anh. “Chuyện đấy sẽ lại xảy ra - chính xác những gì xảy ra tuần trước.” Simon nhún vai và bảo, “Thì anh lại bỏ đi như tuần trước.”
Simon thích thú với niềm tin rằng mẹ không kiểm soát anh, nhưng rồi anh lại làm những việc kiểu như năn nỉ hai người họ đi cả quãng đường dài tới tận Torquay để làm đám cưới - “để khiến lời nói dối nghe nó thật hơn tí,” anh nói, không sẵn lòng nhận ra sự phi lý ở đây. Charlie muốn được kết hôn ở Văn phòng đăng ký Spilling, cô ghét cái ý nghĩ rằng mọi thứ liên quan đến đám cưới của họ bị bức chế bởi bà mẹ chồng thảm hại. Simon đã quát lại cô: “Anh tưởng em mê Torquay. Không phải đấy là lý do chúng ta giả vờ đến đó nghỉ trăng mật à?”
Lạ lùng hơn nữa, Kathleen không cố ép họ tổ chức đám cưới tại nhà thờ, trong khi Charlie đã lo bà sẽ bắt thế. Cô không hề lên tiếng phản đối khi Simon bảo rằng đám cưới sẽ chỉ có bản thân anh, Charlie và hai nhân chứng tham gia, không hề có sự xuất hiện của Kathleen. “Bà thấy nhẹ nhõm,” anh giải thích. “Không trông chờ được gì ở bà cả. Nghĩ mà xem: trong hầu hết các đám cưới, mẹ của chú rể dành phần lớn thời gian tỏ ra thân thiện và chào đón khách khứa. Bà sẽ không bao giờ làm được như thế. Kiểu gì cũng sẽ có một cơn bệnh bất ngờ và bố phải ở nhà để chăm sóc bà.”
Bố mẹ của Charlie cũng đã rất cảm kích khi biết rằng họ không bắt buộc phải có mặt ở lễ cưới. Bố của cô thích chơi golf hơn bất cứ việc gì khác. Ông có thể nghỉ một ngày vì Charlie và cố vui vẻ tận hưởng đám cưới, nhưng sớm thôi, ông sẽ tìm được cái cớ gì đó để chìm vào tâm trạng tồi tệ. Bất kỳ ngày nào không chơi golf đều là một ngày thảm họa với Howard Zailer, và với bất kỳ ai xui xẻo đụng phải ông khi đang trong tình trạng thiếu golf.
“Melville thì sao?” Simon hỏi to từ bể bơi.
“Hả?”
“Họ mới của chúng ta.”
“Sao lại là Melville?”
“Như trong Herman Melville1.”
“Thế còn Dick thì sao?”
1 Herman Melville (1819 - 1891): Nhà văn, nhà thơ, nhà viết tiểu luận người Mỹ, nổi tiếng với tác phẩm “Moby Dick”.
Simon giơ ngón tay hình chữ V về phía cô. Moby Dick là cuốn tiểu thuyết ưa thích của anh. Mỗi năm anh đọc nó một lần. Anh đã mang theo nó tới Tây Ban Nha, đó đúng ra phải là cuốn sách dành cho kỳ trăng mật của anh, vậy sao anh lại không đọc nó? Sao anh lại bằng lòng với việc trôi đi vô định, như thể chẳng còn điều gì khác anh muốn làm nữa? Những chiếc lá và cánh hoa nổi trên mặt bể trông còn có vẻ đang nỗ lực hơn.
Sao anh lại không ân ái với vợ mình?
Không phải bạn đáng ra phải dành phần lớn tuần trăng mật của mình trên giường sao? Hay chỉ như vậy nếu hai người chưa từng chung đụng trước khi kết hôn?
Charlie thở dài. Có phải cô đang mong đợi quá nhiều hay không? Sau bao nhiêu năm trời tránh né sự tiếp xúc thể xác với cô, năm ngoái Simon cuối cùng cũng quyết định rằng đã tới lúc họ hoàn thiện mối quan hệ của mình. Kể từ đó, mọi chuyện đều ổn thỏa. Phải tạm gọi là ổn. Charlie vẫn không dám chủ động tiến tới, cô cảm nhận được Simon sẽ không thích như vậy. Tương tự, rõ ràng việc trò chuyện - trong, ngay sau đó, hay về chủ đề đó - là điều cấm kỵ. Hay Charlie đang tưởng tượng ra những rào chắn không thực tồn tại? Có lẽ Simon chẳng mong muốn gì hơn việc cô nói ra, “Anh có muốn ngủ cùng em không, hay anh chỉ làm thế vì anh cảm thấy đấy là chuyện cần làm?” Về mặt thể chất thì dường như Simon làm cũng ổn, nhưng anh luôn có một vẻ thật xa cách - mắt nhắm lại, im lặng, đôi lúc gần như là máy móc.
Vầng mặt trời giữa buổi ban chiều đang thiêu đốt. Charlie suy xét việc gọi Simon vào trong nhà và thoa thêm kem chống nắng. Rồi cô có thể đi theo sau anh và... Không. Không bao giờ chủ động khơi gợi việc quan hệ là một quy tắc hữu ích, và cô đã quyết tâm tuân theo nó. Một lần - nhiều năm trước tại một buổi tiệc, rất lâu trước khi họ chính thức bên nhau - Simon đã từ chối sự chủ động của cô một cách đặc biệt thô bạo. Charlie đã quyết tâm sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra một lần nữa.
Cô nghe thấy tiếng động sau lưng mình - tiếng bước chân. Domingo. Cô cứng người lại, rồi thở hắt ra nhẹ nhõm khi thấy anh ta cầm trên tay cái cào cùng chiếc cuốc. Anh ta tới đây để làm việc, chỉ có thế. Khu vườn bao bọc Los Delfines từ mọi phía rõ ràng là thú vui lẫn niềm tự hào của một ai đó - có lẽ là của Domingo, có lẽ là của người chủ nhà. Cả khu vườn bùng nổ những sắc màu đa dạng hơn bất cứ nơi nào mà họ từng cùng nhau ngắm nhìn: đỏ rực ánh lửa, đỏ tía, tím, tím nhạt tử đinh hương, xanh hoàng gia, cam, vàng, mọi sắc độ của xanh lục. Nó khiến hầu hết những khu vườn Anh quốc trông thật nhợt nhạt. Charlie thích nhất loài cây mà cô tưởng tượng là “cây hoa ly trồng ngược”, từ đó những đóa hoa loa kèn trắng muốt được treo lên như chụp đèn.
Cô đặt cuốn sách xuống và đi về phía hồ bơi. Không phải vì cô muốn lại gần Simon, mà vì cái nóng bắt đầu trở nên cháy bỏng và cô cần được làm mát. Cô đặt chân lên những bậc thang bằng đá cẩm thạch kiểu La Mã dẫn xuống nước. “Chính xác nhiệt độ chuẩn,” cô nói. “Không lạnh, nhưng không ấm. Như kiểu bồn tắm nóng ai đấy để từ hai tiếng trước.”
Simon không đáp.
“Simon?” Anh đang tập trung vào việc gì, tới mức không thể nghe thấy cô dù cô ở ngay bên cạnh anh?
“Hở? Anh xin lỗi. Em vừa nói gì cơ?”
Câu đó còn chẳng đáng nhắc lại. Xem ra thật đáng tiếc nếu Charlie làm lỡ mất cơ hội này, cô nên nói điều gì đó quan trọng hơn trong khi anh còn chú ý đến cô. “Mỗi lần em thấy Domingo đi về phía chúng ta, em lại hoảng.”
“Em sợ Domingo sẽ dẫn chúng ta đi xem vài cái công tắc đèn nữa à?”
“Không, không phải thế, mà là... Số điện thoại của anh ta có trên trang web. Như thế nghĩa là người khác có thể liên lạc với mình qua anh ta, đúng không?”
Simon cố ngồi thẳng dậy trên chiếc thuyền của mình. “Em đang lo lắng về mẹ anh à? Bà không biết chúng ta đang ở đâu. Không ai biết.”
“Olivia biết.” Liệu anh có nổi giận vì cô lỡ nói cho chị gái điều đáng ra phải là bí mật giữa họ? Có vẻ như là không. Charlie đấu tranh nội tâm dữ dội với thôi thúc muốn hỏi xem liệu anh có dành toàn bộ sự chú ý cho cô hay không. “Khi em bảo Liv chỗ này tốn bao nhiêu tiền, chị ấy khăng khăng muốn được xem ảnh. Em phải cho chị ấy xem trang web.”
“Chị ấy sẽ không nói cho mẹ anh biết chứ?”
“Em không lo về Kathleen,” Charlie nói. “Mà về công việc kia.”
Simon hắt ra một tiếng khó chịu. “Diễn Đàn Vì Cộng Đồng An Toàn Hơn vẫn có thể hoạt động thiếu em trong mười bốn ngày.”
“Ý em là công việc của anh ấy. Chẳng ai quan tâm nếu em không có ở đó.”
“Ai cơ, Người Tuyết á? Sau bao nhiêu tháng trông chờ kỳ nghỉ Waterhouse của mình, phải, Proust gọi nó như thế đấy? Sẽ chẳng có chuyện ông ta đi tìm chúng mình đâu. Em có biết câu cuối cùng ông ta nói trước khi anh đi không? ‘Cả hai hãy cùng tận dụng hết cỡ hai tuần nghỉ ngơi của chúng ta, Waterhouse. Tôi có lẽ sẽ không đi bất cứ chỗ nào thú vị hơn văn phòng mình và cái căng tin, nhưng chỉ cần không có sự xuất hiện phiền phức liên tục của cậu ở mỗi nơi tôi tới,
đây vẫn là kỳ nghỉ lễ trong tim tôi.’“
“Tin em đi, Proust rất nóng lòng mong anh quay lại. Ông ta đang đếm từng ngày đó.”
“Đừng nói thế,” Simon cảnh báo cô. Anh ghét cái ý tưởng rằng thanh tra thám tử có thể cảm thấy gì khác ngoài việc ghê tởm anh.
“Chúng ta rời đi và chỉ còn Liv và Gibbs ở riêng với nhau,” Charlie nói “Nhỡ mà Liv cảm thấy còn tức giận hơn lúc ban đầu và kể với Gibbs, và nhỡ như...?” Cô không muốn nói điều ấy ra thành lời, như thể làm như vậy sẽ khiến cho nó dễ trở thành sự thật hơn.
“Gibbs?” Simon cười. “Gibbs còn chẳng buồn bắt chuyện với anh khi anh ngồi cạnh. Anh ta sẽ chẳng mất công lần tìm anh xuống tận Tây Ban Nha đâu. Sao anh ta lại phải thế chứ?”
“Nếu ở chỗ làm xảy ra chuyện gì đó kì lạ hơn thường ngày, và mọi người đều nghĩ, ‘Giá mà Simon có ở đây, giá mà mình có thể hỏi ý kiến của anh ấy...’“
“Không, mọi người không nghĩ thế đâu. Họ sẽ nghĩ, ‘Cảm ơn Chúa, Waterhouse không ở đây để phức tạp hóa mọi thứ lên.’”
“Anh biết là không đúng thế. Sam Kombothekra sẽ không nghĩ như thế. Và nếu như Gibbs...”
“Kệ nó đi, Charlie! Olivia sẽ không kể cho Gibbs biết chúng ta ở đâu, Gibbs sẽ không nói với Sam, Sam sẽ không vấp vào bất kỳ vấn đề nào khiến anh ta phải trao đổi với anh trong hai tuần tới. Được chưa? Thư giãn đi.”
Anh nói đúng, không có vẻ gì là họ sẽ bị làm phiền bởi bất kỳ ai ở nhà. Vậy tại sao Charlie không thể trút bỏ nỗi lo lắng đang chiếm đầy buồng phổi của cô, chỗ đáng ra phải dành để thở?
“Anh hoàn toàn là của em trong hai tuần tới, vậy nên coi như em không may đi,” Simon nói. “Câu trích dẫn của Mark Twain là gì ấy nhỉ? ‘Tôi đã lo lắng về hàng nghìn điều trong đời mình, chỉ một ít trong số đó thực sự xảy ra.’ Hay câu gì đó kiểu như thế. Nhìn kìa.” Anh chỉ vào khoảng trống giữa hai cái cây, về phía một ngọn núi lớn ở phía xa.
“Em phải nhìn vào cái gì đây?” Charlie hỏi.
“Ngọn núi ấy. Có thấy gương mặt không?”
“Bề mặt quả núi á?”
“Không, một gương mặt thật sự ấy. Trông như thể nó có gương mặt vậy.”
“Em không thấy gì cả. Sao, ý anh là kiểu như nó có mắt, mũi, miệng á?”
“Và lông mày nữa, anh còn thấy một bên tai, anh nghĩ thế. Em không thấy sao?”
“Không.” Charlie cố không tỏ ra gắt gỏng. “Em không thấy gương mặt nào trên núi cả. Nhìn có thu hút không?”
“Đấy hẳn chỉ là do ánh sáng đánh lừa thị giác thôi, nhưng... anh thắc mắc liệu nó có thay đổi khi mặt trời di chuyển không. Nó chắc là phải có liên hệ với những cái bóng do các chỏm đá đổ xuống.”
Charlie nhìn chăm chú rất lâu, nhưng chẳng có gương mặt nào hiện lên trước mắt cô cả. Ngu ngốc thay, cô thấy mình như bị bỏ rơi. Simon và chiếc thuyền của anh đã trôi về phía bên kia bể. Tốt hơn là nên bơi vài vòng, cô quyết định, cho khỏe người. Cô quyết tâm từ giờ trở đi sẽ không hoảng sợ nữa khi thấy Domingo đi về phía mình, kể cả khi cô đã có một hình ảnh rõ nét đến kinh ngạc về việc anh ta phục kích cô và Simon bằng mấy từ, “Điện thoại, nước Anh,” vẫy vẫy chiếc điện thoại di động trong không trung.
“Charlie?”
“Ừm?”
“Em sẽ làm gì nếu...?” Simon lắc đầu. “Không có gì đâu,” anh nói.
“Em sẽ làm gì nếu làm sao cơ?”
“Không có gì đâu. Quên đi.”
“Em không thể quên được, và anh biết là em không thể,” cô đáp. “Nói cho em đi.”
“Chẳng có gì để nói cả.”
“Nói cho em nghe!”
Em sẽ làm gì nếu anh yêu cầu em ly dị? Em sẽ làm gì nếu anh nói anh muốn chúng ta ngủ riêng phòng?
“Em đang tưởng tượng những chuyện tồi tệ. Anh có muốn cứu em ra khỏi nỗi khổ sở này không?”
“Chẳng có gì tồi tệ cả,” anh nói. “Chẳng liên quan gì đến anh và em đâu.”
Thế nghĩa là nếu có việc gì liên quan đến hai người thì nó sẽ, nhất thiết, là tồi tệ?
Đừng có tự tạo ra vấn đề vốn không tồn tại nữa, Zailer.
Charlie chửi thầm. Cô biết mình sẽ dành ít nhất hai tiếng đồng hồ tiếp theo để bắt anh kể cho mình, và cô biết bản thân sẽ thất bại thôi. ***
“Anh phải đi thôi,” Olivia bảo Gibbs, tay ấn vào lồng ngực anh ta. Suốt cả tiếng qua, cô đã cố đẩy anh ta ra khỏi giường, nhưng anh ta khỏe hơn và cứ khăng khăng.
“Không, tôi chưa phải đi.” Anh ta đang nằm ngửa, tay khoanh sau đầu.
“Có đấy, anh có phải đi! Chúng ta phải bắt đầu giả vờ mình không phải đám đồi bại hư hỏng vô luân. Nếu ta bắt đầu ngay bây giờ, sẽ không mất quá lâu để điều đó trở nên thuyết phục - chúng ta có thể tin vào nó ngay tối nay nếu gặp may.” Gibbs gần như mỉm cười, nhưng vẫn không chịu nhúc nhích. Đã hai giờ chiều, theo như điện thoại của Olivia. Phòng khách sạn của cô vẫn tối như khi họ loạng choạng đi vào đây mười hai tiếng trước. Chiếc mành chắn sáng hoàn toàn và những tấm rèm dày dường như nghiêm túc trong công việc duy trì màn đêm hơn bất kỳ loại rèm che nào mà Olivia từng gặp trước đó, và gia nhập vào lực lượng chống lại ánh mặt trời.
“Kiểu gì thì anh cũng không phải về nhà ư? Anh không có một cuộc đời, không có kế hoạch, không có giờ giới nghiêm nào sao? Tôi có cả ba thứ đó.” Cô từ bỏ việc đẩy anh ta. Sẽ chẳng có tác dụng, chỉ tổ đau tay cô.
Gibbs trở người lại để đối diện với cô. Thật buồn cười: dù cô gọi anh là Chris, cô chỉ nghĩ về anh như là Gibbs, cái tên mà Simon dùng để gọi anh. Liệu điều đó sẽ thay đổi? Cô tự quở trách mình trong thầm lặng vì cứ nghĩ về anh ta ở thì tương lai. Cô cần tỉnh táo lại, nhưng làm sao có thể được, khi anh nằm bên cạnh cô, hơi ấm tỏa ra?
“Cố loại bỏ tôi hả?” anh ta hỏi.
“Ừ, nhưng... không phải theo nghĩa xấu đâu.”
“Có cả nghĩa tốt sao?”
“Tất nhiên rồi. Có cả đống luôn ấy. Có kiểu tốt hy sinh thân mình ‘hãy để em ra đi và cứu lấy bản thân khi anh còn có thể’, và còn có kiểu...” Olivia dừng lại, nhớ ra anh ta từng ví cô với tờ họa báo tặng miễn phí ngày Chủ nhật, và lý do anh ta lại nói thế. “Chúng ta phải rời đi lúc ba giờ,” cô nói quyết đoán, để che giấu nỗi xấu hổ của mình. “Tôi không thể gọi và yêu cầu nghỉ thêm nữa.”
“Còn những nghĩa tốt nào nữa?” Gibbs hỏi. Anh ta thực sự hứng thú muốn biết?
Cô không thể nói cho anh ta sự thật. Cô vừa quan hệ với anh ta, ba lần. Nếu có bất kỳ tình thế nào đòi hỏi cái trái ngược với sự thật, thì đây chính là nó.
“Tôi sẽ không đi đâu hết nếu cô không nói cho tôi,” anh ta đe dọa.
“Vì Chúa! Được rồi, có thể cách này sẽ thành công - sau khi cách đẩy anh ra khỏi giường đã thất bại. Một nghĩa tốt khác là: tôi cần anh phải đi, để tôi có thể dành hết phần còn lại của hôm nay đắm mình trong suy nghĩ về mọi khía cạnh của con người anh, hồi tưởng lại từng câu từng chữ, từng hành động của anh trong đầu, và không nghĩ đến bất cứ gì khác nữa, vì một tương lai có thể thấy trước.”
Gibbs nhe răng cười. “Vậy cô sẽ dễ nghĩ về tôi hơn khi tôi ở đây.”
“Sai rồi. Chừng nào anh còn ở đây, tôi sẽ quá bận bịu thắc mắc về những gì anh đang nghĩ trong đầu, chẳng còn tâm trí đâu mà tự nghĩ ngợi gì nữa.”
“Tôi chẳng nghĩ ngợi gì hết, ngoại trừ việc tôi muốn yêu cô lần nữa, nhưng tôi đuối quá rồi.”
“Tôi không nghe, không nghe thấy gì!” Olivia lấy tay bịt tai lại. “Đừng có bổ sung thêm số những từ ngữ mà tôi sẽ phải hồi tưởng. Tôi cần giải quyết phần đang tồn đọng đã. Đừng có cười - tôi nghiêm túc đấy. Làm ơn đi đi. Đừng nói gì thêm nữa.”
“Để cô có thể suy nghĩ về tôi?”
“Phải.”
“Và không về thứ gì khác nữa?”
“Không gì cả cho đến khi tôi giải quyết hết phần tồn, không.”
Gibbs gật đầu như thể yêu cầu của cô là hoàn toàn hợp lý. Anh ta ngồi dậy và bắt đầu thu nhặt quần áo của mình. Olivia nhìn vào điện thoại của mình một lần nữa. Hai giờ năm phút. Cô cảm thấy sự phấn khích trào dâng trong lòng khi tưởng tượng đến cảnh anh ta rời đi. Có những điều cô cần phải làm, rất cấp bách. Điều đầu tiên trong danh sách việc cần làm là phải giải tỏa hơi nóng theo một cách khá là mất mặt: chạy vòng tròn quanh phòng và hét lên “Ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi!” Điều thứ hai là đứng trước tấm gương lớn bên cửa ra vào và quan sát thật kỹ gương mặt và cơ thể mình, như thể cô chưa từng thấy chúng trước đây và sẽ không bao giờ thấy nữa, cố gắng ngắm chúng qua đôi mắt của Gibbs. Và rồi cô sẽ gọi cho Charlie. Hay nói đúng hơn, cô sẽ gọi cho người quản gia ở Los Delfines, người có số điện thoại được đăng trên trang web, và yêu cầu anh ta nhắn với Charlie rằng hãy gọi cho cô. Bất kỳ người chị em tử tế nào - mà về cơ bản thì Charlie đúng là thế - sẽ muốn nghe một tin như vậy ngay lập tức.
Đoán xem ai đã hoàn toàn trở thành một con đàn bà lăng loàn nào? Là chị!
Có một vài chuyện tầm phào quan trọng đến mức nó phá bỏ mọi suy xét đến việc tôn trọng sự riêng tư của tuần trăng mật, thứ đang cản đường. Và trong một tình thế hoàn toàn ngẫu nhiên, đây lại chính là ví dụ điển hình. Olivia biết mình thích được tám chuyện về bản thân cũng nhiều như tám chuyện về người khác. Thậm chí còn thích thú hơn. Cô rất hiếm khi gây ra chuyện khiến mọi người sốc. Cảm giác thật mới lạ làm sao, khi trở thành kẻ gây xì-căng-đan ở tuổi của mình - làm một điều ngu xuẩn khôn tả khi, trong suốt bốn mươi mốt năm, không ai từng lo rằng cô sẽ làm.
Liệu cô có thể bảo Charlie đừng kể với Simon? Một vài người không thể giữ bí mật với vợ hay chồng mình. Liệu em của cô có trở nên quá đà trong việc chia sẻ mọi thứ, khi em ấy đã lấy chồng không? Simon sẽ không chấp nhận, như cái cách mà những người thiếu kinh nghiệm sống luôn luôn không chấp nhận việc người khác có các cuộc phiêu lưu mà bản thân họ đã bỏ lỡ. Cậu ấy sẽ cảm thấy, theo một cách mơ hồ nào đó, rằng đám cưới của mình và Charlie đã bị phá hỏng, bị biến chất, vì hai người làm chứng cuối cùng lại lên giường với nhau.
Olivia thở dài khi cô nhận ra sự liên đới. Vì lợi ích của Simon, Charlie sẽ phải chịu đựng cảm giác căm giận và tổn thương. Em ấy sẽ không nhìn nhận cuộc tình một đêm của Olivia với Gibbs như là một chuyện xảy đến với Olivia, mà là một điều tồi tệ xảy đến với người chồng quan-trọng-hơn-tất-thảy của mình. Có lẽ em ấy cũng sẽ phản đối vì chính bản thân mình và buộc tội Olivia đã đi quá giới hạn. Gibbs là cảnh sát, và vì thế anh ta thuộc về Charlie và Simon, không phải của Olivia, người không có bất cứ quyền gì mà chen vào một thế giới không phải của cô, thế giới mà chỉ thỉnh thoảng cô mới được mời vào, trong sự thận trọng của Charlie.
Có phải cô đã cướp trắng ngày quan trọng nhất cuộc đời em gái mình không? Liệu có phải là không thể tha thứ được khi tự mình đóng vai nữ chính đối thủ mà không hề hỏi đến ý kiến của bất kỳ ai, trong khi đáng ra cô phải chấp nhận vai trò nữ phụ? Olivia không thể quyết định được liệu có phải mình vừa làm một chuyện tồi tệ với Charlie, hay cô chẳng gây tổn hại gì hết. Cô sẽ không bao giờ biết được, trừ phi cô kể cho Charlie biết chuyện đã xảy ra. Cô không thể nào tự dự đoán được, không thể nào khi cô không biết được em mình sẽ phản ứng ra sao.
Mình nên cảm thấy có lỗi với Dom, cô nghĩ, và với Debbie Gibbs. Họ là những người bị hại ở đây.
Gibbs đã mặc đồ chỉnh tề. “Tôi đi đây,” anh ta nói. “Cô có thể bắt đầu suy nghĩ.”
“Anh cũng vậy,” Olivia nói, muốn tìm ra một cách để gắn bó anh ta với mình, khi giờ đây anh ta chuẩn bị rời đi. “Nghĩ về tôi, ý tôi là thế.”
“Không nghĩ đến bất cứ thứ gì khác nữa,” anh ta đáp. “Vì một tương lai có thể thấy trước.”
Nghe như trích dẫn ở đâu vậy. Bởi vì đúng là như vậy, Olivia nhận ra. Anh ta vừa trích dẫn chính lời cô.
***
Sam Kombothekra không quen với cảm giác tội lỗi, nhưng anh lại cảm thấy thế khi đang ngồi ở một bàn, bên cửa sổ trong quán cà phê kiêm quán bar Chompers, chờ đợi Alice Bean. Đây là - hãy sẽ là, trong trường hợp cô xuất hiện - một cuộc gặp mặt hoàn toàn không cần thiết, nhưng Sam đã lựa chọn nó thay vì một cuộc gặp buổi chiều tại nhà mình. Anh đã biết trước câu trả lời mà Alice sẽ đưa ra cho câu hỏi dự định của anh. Đáng ra anh có thể hỏi qua điện thoại, nhưng anh rất nóng lòng được gặp lại cô bằng xương bằng thịt, nhiều hơn cả mức anh muốn thừa nhận với bản thân. Chỉ số ít phụ nữ có thể đạt mức huyền thoại hơn cả Alice trong thế giới nhỏ bé của Spilling. Sam đã nghe từ ít nhất mười nguồn khác nhau rằng vài năm trước, Simon Waterhouse từng có tình cảm gắn bó với cô. Lúc đó cô còn là Alice Fancourt.
Sam biết rằng mối quan hệ giữa cô với Simon (mối quan hệ mà theo Colin Sellers mô tả là “một sự phung phí thời gian”) đã kết thúc tồi tệ, đến mức từ đó hai người họ không nói chuyện với nhau nữa. Liệu có bao nhiêu phần của câu chuyện Alice sẽ kể với anh hôm nay? Khi nói chuyện trên điện thoại sáng nay, chỉ vài giây sau khi Sam giới thiệu bản thân, Alice đã hỏi ngay anh có làm việc với Simon không. Cô đã gợi ý quán Chompers làm địa điểm gặp mặt buổi chiều và nói rằng, “Đó là nơi tôi và Simon luôn hẹn gặp.” Sam cũng cảm thấy tội lỗi vì điều đó nữa: anh không chỉ bỏ mặc gia đình vào một ngày nghỉ của mình, anh có thể còn xáo trộn lại những ký ức đau lòng của một người xa lạ, chẳng vì lý do cao quý nào, ngoài việc thỏa mãn sự hiếu kỳ không lấy gì làm lành mạnh của mình.
Anh nhìn đồng hồ. Cô đã trễ mười phút. Có nên gọi cho cô không? Không, anh sẽ chờ mười lăm phút. Có lẽ anh sẽ yêu cầu một người phục vụ bật nhỏ nhạc xuống. Có thể đoán được là âm nhạc dùng để át đi tiếng ồn từ khu vực trò chơi không có rào chắn ở góc phòng, nơi đông nghẹt những đứa trẻ mẫu giáo còn thò lò mũi xanh đang la hét, một tá các bà mẹ mang trên mặt nụ cười cứng đơ đang ì xèo trong cơn ức chế bị kìm nén, bàn và ghế có hình những cây nấm, và một dãy những hình khối bằng nhựa không biết là gì được sắp xếp theo màu cơ bản. Sam không trách cứ lũ trẻ vì la hét, có lẽ anh cũng sẽ sớm làm thế thôi nếu phải ngồi đây chịu đựng thêm các ca khúc của Def Leppard từ những năm 1980.
Anh nhìn chằm chằm ra ngoài cửa kính về phía bãi đỗ xe. Bất kỳ lúc nào, Alice cũng có thể đỗ vào một trong những chỗ trống. Đây có thể là cô, đang đóng sầm cánh cửa một chiếc Renault Clio đỏ. Kính mát, xăng đan cột dây... Không. Simon sẽ không bao giờ phải lòng một gương mặt như thế. Sam tự hỏi liệu Alice trông có giống Charlie chút nào không. Nếu đúng thế thì sao? Mà không giống thì sao? Tại sao anh lại thấy mọi thứ có liên quan đến Simon có sức hấp dẫn như vậy nhỉ? Sẽ không có chuyện anh kéo mình ra khỏi nhà để gặp một người phụ nữ mà Chris Gibbs, hay Colin Sellers, từng yêu. Nghĩ đến đó, có lẽ anh sẽ sẵn sàng đi một quãng đường dài để tìm gặp người phụ nữ hiếm hoi nào không khiến Colin nảy sinh cảm hứng, giả sử người đó có tồn tại trên đời.
Lấy làm xấu hổ vì những ham muốn không lành mạnh của mình, Sam cố tập trung vào Connie Bowskill. Anh nhanh chóng nhận ra mình lại nghĩ đến Simon Waterhouse một lần nữa. Không có gì sai trái cả, anh quyết định, không phải trong hoàn cảnh này. Simon là thám tử giỏi nhất mà Sam biết. Cậu ta cũng là thám tử giỏi nhất mà mọi người từng biết, dù hầu hết họ đều ngần ngại khi phải thừa nhận điều đó, và thích gạt bỏ cậu ta với lý do Simon thô lỗ, là một kẻ gây rối không đoán trước được. Vào ngày mùng một tháng Một năm nay, năm phút sau đêm giao thừa, Sam đã đi đến quyết tâm: thay vì cứ dai dẳng cảm thấy thấp kém trước Simon, và để cho cảm giác oán giận cứ thế chất chồng, anh sẽ cố gắng học hỏi từ cậu ta, cố gắng đặt cái tôi của mình sang một bên và xem liệu mình có thể đạt được gì từ việc bắt chước - bằng cách nghiên cứu hành động và thái độ của Simon, như thể một hôm nào đó anh sẽ phải làm bài kiểm tra về hai thứ đó - một phần của sự thông thái ấy.
Simon sẽ không gạt bỏ Connie Bowskill một cách vội vàng, Sam chắc chắn là như vậy. Liệu cậu ta có tin Connie không nhỉ? Trong trường hợp của Sam, sau khi gặp và nghe những gì chị ta kể, liệu Simon có nghiêng người về phía trước, suy nghĩ rằng chị ta đang phải chịu đựng sự căng thẳng và nhìn thấy những thứ không có thật, hay cậu ta sẽ tin rằng chị ta đang nói dối? Có lẽ cậu ta sẽ nghĩ sự vô lý trong câu chuyện của Connie khiến nó có vẻ dễ là sự thật hơn, bởi hiếm ai có thể tự tin đưa ra một câu chuyện dối trá táo bạo đến vậy.
Mày không phải Simon - đó là toàn bộ vấn đề đấy. Mày không hề biết cậu ta sẽ nghĩ gì.
Không, như thế không đúng. Bạn không thể nào làm việc gần gũi với một người trong nhiều năm liền mà lại không có chút ý niệm nào về việc người ta suy nghĩ ra sao. Simon sẽ nghĩ có ít nhất một khả năng là một tội ác đã xảy ra. Nếu cậu ta mà đi cùng Sam tới nói chuyện với nhà Bowskill sáng nay, cậu ta sẽ rời đi với suy nghĩ rằng chắc chắn có chuyện gì đó vô cùng sai trái ở ngôi nhà đó - Melrose Cottage, không phải số 11 Bentley Grove, Cambridge. Sam đồng ý, ở mức độ đồng thuận cao nhất mà một người có thể đạt được với hình ảnh phản chiếu trong tưởng tượng về một người vắng mặt. Có chuyện gì đó đang xảy ra: Connie và Kit Bowskill chưa kể hết cho anh mọi chuyện, còn xa mới đầy đủ. Anh đã nghe lỏm được kha khá cuộc hội thoại, đáng ra anh không được nghe, để chắc chắn rằng họ đang âm mưu che giấu điều gì đó.
Cái ý tưởng rằng một người nào đó đăng tấm hình xác chết lên trang web của một trung tâm môi giới bất động sản nghe thật nực cười. Còn hơn cả điên rồ. Trong tâm trí mình, Sam nghe Simon nói, “Điên rồ không nhất thiết có nghĩa là bịa đặt. Tình trạng điên rồ cũng thực như tình trạng tỉnh táo. Nó chẳng cần đến sự thấu hiểu của chúng ta để làm loạn lên và kết thúc mạng sống - nó chỉ cần tự hiểu chính mình. Đôi khi nó còn chả cần phải làm thế.” Ngay lập tức, Sam ước mình đừng nhớ lại lời bình luận, mà cùng với nó là ký ức về một ví dụ nữa mà Simon được chứng minh là đúng trong khi anh thì sai, mặc cho anh có niềm tin hợp lý hơn vào một khả năng dường như khả thi hơn rất nhiều.
Anh thở dài. Với tư cách là người thế thân tạm thời cho Simon, anh sẽ làm hết sức có thể để tìm ra người phụ nữ xấu số mà anh không tin là có thật - một người phụ nữ mặc chiếc váy màu xanh lá và tím tử đinh hương. Anh đã gọi điện cho cảnh sát Cambridge và làm rõ rằng anh muốn họ hành động, sau khi họ đã cười xong.
“Sam?”
Anh ngước lên và thấy một người phụ nữ với mái tóc ngắn nhuộm tẩy vàng, kính gọng nhựa nâu hạt dẻ và màu son bóng đỏ tươi như màu xe buýt London. Cô mặc chiếc váy dài không tay màu hồng và mang đôi xăng đan đế bằng màu vàng kim, xách một chiếc túi với nhiều lỗ nhỏ, trông như thể nó được làm từ nhiều sợi dây thừng thừa thắt vào nhau. Những chiếc lỗ đó là dụng ý thiết kế, không phải kết quả của sự cũ sờn, và Sam có thể nhòm thấy một vài thứ bên trong túi: một chiếc ví đỏ, một chiếc phong bì và vài cái chìa khóa.
“Alice Bean.” Cô mỉm cười và đưa tay ra. “Anh không biết chuyện này với tôi kỳ lạ thế nào đâu. Tôi chưa từng đặt chân đến nơi này trong gần bảy năm qua. Nếu tôi có đi lộn vào đâu, anh biết tại sao đấy.
“Tôi gọi đồ uống cho cô nhé?” Sam hỏi, bắt tay cô ta.
“Rượu mùi chanh và nước chanh là tuyệt nhất. Thật nhiều đá. Tôi biết đấy là thức uống cho trẻ con, nhưng trong tiết trời nóng thế này, không còn gì tuyệt hơn. Tôi phải đổ đến nửa lít mồ hôi trong xe trên đường đến đây mất.”
Sam quan sát cô qua khóe mắt mình khi anh xếp hàng ở quầy bar. Không thể chối cãi được là cô rất xinh, nhưng mái tóc đã làm anh ngạc nhiên - độ ngắn và màu của nó. Và đôi kính nâu, và nhất là màu son. Anh không hề nghĩ Simon sẽ... Nhưng đấy là giả sử cô trông vẫn y như bảy năm trước, và rằng sở thích về phụ nữ của Simon là dễ đoán. Tại sao nó lại như thế được, khi không có gì về cậu ta là dễ đoán hết? Cậu ta đã cầu hôn Charlie trong khi cô ấy thậm chí còn chẳng phải bạn gái cậu ta.
“Vậy là Connie cho anh số của tôi?” Alice hỏi khi Sam đặt đồ uống xuống chiếc bàn trước mặt cô.
“Cô ấy không đưa. Tôi không hỏi cô ấy. Tôi tìm tên cô trong danh bạ, dưới mục ‘Liệu pháp sức khỏe thay thế - Liệu pháp vi lượng đồng căn’. Không có Alice Fancourts nào cả, nhưng tôi cho là Alice Bean có thể đúng, và đúng như vậy thật.”
“Alice Bean là tên trước khi lấy chồng của tôi. Tôi không còn là Fancourt nhiều năm rồi.”
“Cô có thường làm việc vào thứ Bảy không?”
“Không. Hôm nay tôi không đi làm. Tôi chạy vào khu trung tâm để chọn thuốc cho con gái tôi, Florence, nó bị nhiễm khuẩn dạ dày. Hôm nay anh may nên mới gặp được tôi. Và tôi mong là anh không bị lây khuẩn, nhưng cũng có thể đấy, nên đừng nói là tôi chưa cảnh báo anh nhé. Tôi bị trước Florence và tất cả mọi người ở chỗ làm lại bị như thế trước tôi. Nó có thể lây được, chắc chắn vậy. Thêm vào đó, nó vượt qua hàng rào miễn dịch rất nhanh. Hai mươi tư tiếng đồng hồ nôn mửa và tiêu chảy và rồi nó chuyển sang giai đoạn khốn nạn tiếp theo.”
Tuyệt. Một điều thật đáng mong chờ.
“Tôi sẽ không làm mất nhiều thời gian của cô đâu,” Sam bảo. “Nhất là khi con gái cô đang ốm.”
“Con bé sẽ ổn thôi. Nó đang ở cùng với bạn tôi là Briony, cô ấy cũng như bà mẹ thứ hai của nó. Anh cứ giữ tôi bao lâu cũng được. Tôi hứa sẽ không làm khó anh bằng cách hỏi những câu khó trả lời đâu.”
Sam cố không tỏ ra sửng sốt. Không phải anh mới là người đặt câu hỏi sao? “Ví dụ như?” anh nói.
“Hỏi về Simon. Anh ấy sẽ không muốn anh nói chuyện về anh ấy với tôi - tôi biết anh ấy không muốn.” Alice đưa tay vào túi, lấy ra chiếc phong bì Sam đã nhìn thấy qua những chiếc lỗ, và đưa ra cho Sam cầm lấy. Anh thấy tên của Simon ở mặt trước, được viết tay bằng mực xanh, có gạch chân. “Anh có thể đưa anh ấy cái này được không?”
Sam nhận thức được cảm giác không muốn nhận lấy nó từ cô, nhưng lúc đầu không thể nghĩ được là vì sao. Nhưng rồi trí óc anh bắt kịp với trực cảm. Không, cảm ơn. Dù màn kịch có là gì đi nữa, anh không muốn sắm dù là một vai nhỏ nhất. Bàn tay của anh ở yên tại chỗ, bao quanh cốc cà phê. Cuối cùng thì Alice đành đặt chiếc phong bì trở lại túi và anh cảm thấy mình thật nhỏ mọn và tự đại, hiểu rằng anh đã chuyển sự tập trung từ cô và Simon sang chính bản thân cùng những phép tắc của mình. Anh ước giá mà mình cứ cầm quách cái thứ khỉ gió đó đi. Có nên nói cho cô biết hôm qua Simon đã kết hôn, rằng cậu ta đang hưởng tuần trăng mật? Liệu điều đó có làm mọi thứ tệ hơn vì nó chỉ vừa mới xảy ra hôm qua thôi? Sam không nghĩ nó tạo nên sự khác biệt nào cả, nhưng lại cảm thấy đúng là như vậy, theo một cách nào đó.
Anh mở miệng để cố giải thích tại sao anh không nghĩ việc mình làm người trung gian trong mối quan hệ sẽ là một ý hay, nhưng Alice đã át lời anh, mỉm cười để thể hiện rằng cô không phật ý. “Anh muốn hỏi gì tôi về Connie? Chị ấy có ổn không?”
“Lần cuối cô nói chuyện với chị ấy là khi nào?”
“Tôi gặp chị ấy hai tuần một lần. Lần cuối là... chờ đã, tôi có thể cho anh biết chính xác.” Cô lấy ra một quyển sổ nhật ký nhỏ màu hồng từ chiếc lưới đánh cá mang phong cách tối giản của mình. “Thứ Hai tuần trước, bốn giờ.”
“Tuần vừa rồi hả? Thứ Hai ngày mười hai tháng Bảy?”
Alice gật đầu.
“Kể từ đó, cô có nói chuyện với chị ấy qua điện thoại không? Email hay nhắn tin?”
“Không, không có.”
“Và sáng sớm nay chị ấy không gọi cho cô?”
Alice lo lắng ra mặt. Cô vươn người về phía trước. “Không. Tại sao? Có chuyện gì đã xảy ra à?”
“Theo tôi thấy thì chị ấy vẫn ổn,” Sam đáp. Anh không có ý định nói gì hơn thế nữa.
“Tại sao lại là sáng sớm nay?” Alice nài hỏi. “Sao anh lại hỏi thế?”
Bởi vì xác một người phụ nữ xuất hiện trên màn hình máy tính của chị ta rồi biến mất. Và chị ta bảo tôi là cô gợi ý cho chị ta liên lạc với Simon Waterhouse, người sẽ tin vào những điều không thể tin nổi, nếu nó là thật. Ngoại trừ việc cô không thể gợi ý về anh ta lúc hai giờ sáng nay, bởi Connie không gọi cho cô lúc ấy. Chị ta không hề nói chuyện với cô kể từ khi thấy cái xác. Trừ phi chị ta nói dối về thời điểm nhìn thấy nó.
“Cô có khuyên Connie nói chuyện với Simon không?” Sam hỏi.
“Tôi thực sự không thể tiết lộ nội dung những cuộc trò chuyện trao đổi giữa tôi và bệnh nhân của mình. Xin lỗi anh.”
“Tôi không yêu cầu cô kể với tôi bất kỳ điều gì mà Connie chưa tự mình nói ra với tôi. Chị ấy nói cô gợi ý là Simon không giống bất kỳ thám tử nào khác, sẵn sàng tin vào những gì mà hầu hết mọi người cảm thấy bất hợp lý.”
Alice gật đầu. “Đúng vậy. Đó là những gì tôi đã nói, gần như y hệt từng từ.”
“Liệu tôi có đúng không khi nghĩ là, lúc đó - và tôi sẽ không hỏi chi tiết đâu - Connie đang kiểu như là... gặp chuyện, hay vấn đề gì đó, mà chị ấy lo là sẽ không ai tin mình?”
“Tôi thực sự không thể đi vào cụ thể, nhưng... Connie ban đầu tìm gặp tôi bởi chị ấy phải trải qua một cú sốc - chị ấy không muốn tin là một chuyện đã xảy ra, nhưng lại sợ rằng đúng là như vậy.”
“Lần đó là lúc nào?” Sam hỏi.
“Tháng Một. Vậy là... sáu tháng trước.”
“Và cô bảo chị ấy tìm tới Simon? Có khía cạnh nào liên quan tới tội phạm không?”
Alice nhíu mày khi suy nghĩ về điều đó. “Không có chứng cứ về bất kỳ điều gì phi pháp, nhưng... Connie nghĩ có thể đã có tội ác liên quan, đúng vậy. Nhưng cùng lúc, chị ấy sợ rằng mình đã phát điên khi suy nghĩ như vậy.”
“Cô nghĩ sao?”
“Thành thực là tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là sự giằng co, chia cắt về mặt tâm lý và cảm xúc không hề tốt cho chị ấy trên bất cứ phương diện nào. Tôi nghĩ rằng nếu nói chuyện với Simon, anh ấy có thể tìm ra một hướng nào đó cho chị ấy.”
“Liệu có phải đã có tội ác xảy ra?”
Alice mỉm cười. “Tôi nhận ra rằng chẳng có một bản danh sách vĩ đại với tiêu đề “Tất cả các tội ác đã từng xảy ra trong lịch sử” nào cả, nhưng kiểu tội phạm này có lẽ đã được ghi chép lại rồi. Simon có thể lần tìm chứng cứ về nó theo một cách mà Connie không thể.”
“Cô có nhớ lần đầu tiên mình nhắc tới tên anh ta với chị ấy không?” Sam hỏi.
“Ồ, tôi không nói thẳng ra. Khoảng một tháng trước, có lẽ là sáu tuần. Đầu tiên, tôi cố gắng tự mình giúp chị ấy, đương nhiên, hệt như mọi bệnh nhân của mình, nhưng không gì tôi nói hay làm có vẻ tác động tới Connie. Nếu có, thì là chị ấy bắt đầu cảm thấy càng lúc càng tồi tệ hơn. Đó là lúc tôi nhận ra chị ấy cần nhiều hơn là Anacardium hay Medorrhinum. Xin lỗi, đó là các loại chế phẩm dùng trong liệu pháp vi lượng đồng căn - tôi quên mất là đôi lúc không phải tất cả mọi người đều quen thuộc với chúng như tôi.”
“Connie có nghe theo lời khuyên của cô không?” Sam hỏi. “Chị ấy có chia sẻ vấn đề của mình với Simon không?” Liệu đó có phải lý do anh ta xin nghỉ hai ngày vài tuần trước? Anh ta lẩm bẩm cái gì đó không rõ ràng về “việc chuẩn bị cho đám cưới”, mà không dám nhìn thẳng vào mắt người đối diện. Lúc đó, Sam chỉ cho rằng đó là do sự ngại ngùng. Một điều không thể giải thích được : Simon, không nghi ngờ gì nữa, là rất xấu hổ khi đang ở trong một mối quan hệ tình cảm, và thường tránh nhắc tới tình trạng không độc thân của mình.
Alice trông có vẻ hối lỗi. “Hỏi Connie đi,” cô nói. “Tôi chắc chắn chị ấy sẵn sàng kể với anh toàn bộ câu chuyện, nếu anh chịu khó lắng nghe một cách cảm thông.”
“Liệu tội ác có-thể-đã-xảy-ra nghe có vẻ lạ thường của chị ấy có liên quan gì đến một tour tham quan ảo của một ngôi nhà trên trang bất động sản không?” Sam hỏi. Biểu hiện trên mặt Alice là câu trả lời duy nhất anh cần: cô không hề biết anh đang nói về cái gì.
Vậy là Connie Bowskill có hai vấn đề không-thể-tin-được, một cái từ tháng Một và một từ mười ba tiếng trước. Thú vị thật.
Không thể tin được.
“Có phải cô khuyên Connie nói chuyện với Simon vì cô thực lòng tin là chị ấy cần đến sự giúp đỡ của cảnh sát, hay bởi vì cô hy vọng cậu ta sẽ liên lạc với mình để hỏi về chị ấy?” Ngay khi những từ ngữ đó buột ra khỏi miệng, Sam biết rằng anh đã đi quá giới hạn. “Tôi xin lỗi,” anh nói, giơ hai bàn tay lên. “Đó là một câu tôi không có quyền hỏi. Quên nó đi.”
“Tại sao, trong khi đấy là câu tôi có thể thoải mái trả lời?” Alice đáp. “Tôi thực sự tin rằng Simon nên được nghe về vấn đề của Connie, bởi vì,... ừ thì, bởi nó quá lạ lùng, quá hiếm thấy. Nó có thể là một chuyện vô cùng kinh khủng, hoặc là chẳng có gì hết. Tôi...” Cô dừng lại, nhìn chằm chằm xuống mặt bàn. Sam bắt đầu thắc mắc liệu mình có nên thúc giục không thì cô lên tiếng, “Tôi vừa mới nhận ra ngay lúc này thôi, nhưng tôi đã bảo chị ấy nói chuyện với Simon bởi đó là việc tôi muốn làm. Tôi muốn nói chuyện với anh ấy về việc đó. Anh ấy và tôi chưa hề nói chuyện với nhau từ năm 2003, và - chuyện này, vấn đề mà Connie... gặp phải, khiến tôi muốn liên lạc với anh ấy một lần nữa, hơn bất cứ việc gì. Nó khiến tôi thấy nhớ anh ấy, dù ngay từ đầu tôi chưa từng thực sự hiểu anh ấy. Ồ, điên rồ thật! Điều buồn cười là, tôi đã luôn chắc chắn rằng một ngày anh ấy sẽ lại xuất hiện trong đời mình. Và khi anh gọi tôi sáng nay...” Cô lắc đầu, nhìn qua Sam ra phía cửa sổ.
Anh có thể đoán được chuyện gì đã xảy ra tiếp theo. Khi anh gọi điện sáng nay và hỏi xin cô một buổi gặp mặt, cô đã gửi cô con gái đang ốm của mình cho một người bạn, và dành hai tiếng đồng hồ tiếp theo để dốc lòng viết lá thư cô đã hằng mong được viết trong suốt bảy năm qua, lá thư mà Sam đã từ chối chuyển giùm.
“Nghe này, tôi xin lỗi vì...”
“Đừng thế,” Alice nói. “Tôi không nên cố biến anh thành người đưa tin rất-có-thể-sẽ-bị-bắn. Như thế là không đúng. Và không cần thiết nữa - tôi đâu có cần đến anh. Tôi biết Simon làm ở đâu - tôi có thể gửi lá thư đến cho anh ấy. Dù sao, tôi cũng sẽ không làm thế.” Cô gật đầu, như thể để chính thức hóa quyết định ấy. “Tôi có niềm tin chắc chắn vào duyên số, và hôm nay định mệnh đã làm rõ với tôi rằng giờ không phải lúc thích hợp. Tôi cá là anh không quen với việc coi bản thân mình như là đại diện của số mệnh, phải không?” Cô nhoẻn miệng cười.
“Quả là tôi không quen.” Colin Sellers có thể đã đáp lại một cách hóm hỉnh, nhưng Sam thì không nghĩ ra được gì.
Alice nhắm mắt lại và nhấp một ngụm. “Thời điểm thích hợp rồi sẽ tới,” cô nói.