"Tận 1,2 triệu bảng? Ồ… Ôi! Ối.” Mẹ tôi đã đổ trượt năm chiếc ca xếp hàng trên bàn bếp và tự đổ nước sôi lên bàn tay trái của mình. Một cách cố tình, dù tôi không thể chứng minh được điều đó. Bà từng tự làm mình bị bỏng, và đó là lỗi của tôi vì đã khiến mẹ lo lắng nhiều hơn mức bà có thể chịu đựng được. Một lần nữa. Bà muốn tất cả mọi người phải chú ý tới và đổ lỗi cho tôi. Nếu họ làm thế, nếu Fran hay Anton hay bố nói, “Nhìn xem con vừa làm gì này, Con,” mẹ sẽ đỡ lời cho tôi, nhưng sự bảo vệ của bà lại chính là một đợt tấn công được che đậy:
“Đấy không phải lỗi của Connie - mẹ đáng ra phải cẩn thận hơn, không nhìn đi chỗ khác, trong khi đang cầm trên tay một ấm đầy nước sôi, nhưng mẹ sốc quá nên không thể làm khác được.”
Có phải đây gần giống với điều mà mọi người vẫn nói - biết người biết ta - hiểu được giới hạn, những ảo tưởng nuôi dưỡng cái tôi và sự tư lợi khó chịu của người khác cũng rõ như của chính mình? Có khả năng đoán trước được từ phản ứng của họ, biểu hiện trên mặt họ, cho tới những lời cuối cùng và biểu hiện làm màu? Vậy nên một cảm giác dễ đoán đến kinh tởm và sự thất vọng dâng lên và phá nát từng hơi thở của bạn ngay vào khoảnh khắc bạn trông thấy họ, trước khi họ kịp thốt ra một từ nào? Kit sẽ nói rằng đó là một phân tích quá bi quan, nhưng anh chưa bao giờ gần gũi với bố mẹ mình và giờ đã cắt đứt hoàn toàn liên hệ với họ. Anh cứ lải nhải mãi rằng anh ghen tị với việc tôi là một thành viên trong cái anh gọi là “gia tộc Thầy tu1”. Tôi không dám nói với anh sự thật, anh sẽ buộc tội tôi là vô ơn. Có thể anh đúng.
1 “Monk” có nghĩa là “thầy tu” trong tiếng Anh.
Thật ra, tôi thà là mình ít gần gũi với gia đình hơn, để đôi lúc họ còn có thể làm tôi ngạc nhiên. Để cho sự chê trách của họ, khi xảy đến, không thể đào sâu trong tôi và gieo những hạt giống của sự nghi ngờ bản thân, vốn được lập trình sẵn để lớn lên to bằng cỡ cây sồi. Ít nhất Kit được tự do.
“Thôi nào, Benji,” Fran thì thầm. “Một miếng súp lơ nữa là con có thể ăn một miếng sô-cô-la. Một miếng nhỏ xíu bên trên thôi. Đi mà.”
“Nào, Benji, anh bạn - cho mẹ và bố thấy con dũng cảm thế nào đi. Giống siêu anh hùng ấy!” Anton chẳng buồn hạ giọng xuống. Cậu ta không nhận thấy có chuyện gì đang diễn ra trong căn bếp của bố mẹ vợ quan trọng hơn cuộc chiến của Benji với rau xanh. Cậu không cảm thấy cần phải giữ nhỏ âm lượng cuộc thỏa hiệp súp lơ. Dùng tay làm loa, cậu ta dùng giọng thật vang và nói, “Liệu một cậu bé nhỏ có thể đánh bại con quái vật súp lơ không? Liệu Benji có đủ dũng cảm để... ăn... súp lơ? Nếu cậu chứng minh được rằng mình cũng dũng cảm như các siêu anh hùng, phần thưởng sẽ là hai... thanh... sô... cô... la!”
Tôi đang phát điên phải không? Anton không nghe thấy bất kỳ điều gì tôi nói hay sao, về chuyện chứng kiến một người phụ nữ bị sát hại nằm trên một bể máu, và cuộc trao đổi với một thám tử sáng nay? Tại sao không ai bảo cậu ta im đi? Có ai nghe tôi không?
Sao không ai trong số họ có gì để nói về một chủ đề có vẻ bất khả thi tương đương với điều tôi thấy trên máy tính đêm qua - bất khả thi, nhưng lại là thật, trừ phi tôi mất khả năng phân biệt giữa sự thật với điều ngược lại.
Kit nghĩ tôi đã mất khả năng đó thật. Có lẽ gia đình tôi cũng nghĩ thế, và đó là lý do tại sao họ lờ tôi đi.
“Đừng có bảo nó là hai,” Fran nhắc nhở Anton bằng một tông như hát, đeo trên mặt một nụ cười cường điệu để, có lẽ là, ngăn con trai mình khỏi thắc mắc liệu có phải sự tàn sát về mặt cảm xúc trong một ngôi nhà đã đổ vỡ sẽ là tất cả những gì nó trông chờ. “Một là đủ rồi, phải không Benji?”
“Con muốn hai thanh sô-cô-la cơ!” Đứa cháu năm tuổi của tôi gào khóc, mặt đỏ bừng.
Tôi mở miệng ra, rồi lại ngậm vào. Tại sao phải phí hơi chứ? Tôi đã làm điều mà tôi đến đây để làm: kể với gia đình mình điều họ cần biết. Để trông không có vẻ là tôi đang chờ đợi được chất vấn, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ về phía xích đu, cầu trượt, khung leo trèo, nhà trên cây, máng cát không có bệ ngồi và hai cái bạt nhún trong vườn sau nhà bố mẹ tôi: sân chơi riêng cho Benji. Kit gọi nó là ‘Vùng đất thần tiên’.
“Ối,” mẹ lại thốt lên, kiểm tra chỗ da bị đỏ lên trên tay mình một cách thật màu mè. Bà đang phung phí thời gian với Fran và Anton; bà nên biết rằng thử thách bữa tối của Benji đã làm phân tán mọi suy nghĩ khác, cũng như khả năng quan sát thông thường của họ.
“Thôi được rồi, hai thanh sô-cô-la.” Fran nói trong mệt mỏi. “Mọi người, xin lỗi vì chuyện này. Thôi nào, Benji - ăn cái này trước đã.” Fran lấy chiếc nĩa khỏi tay đứa con, xiên vào miếng súp lơ và giữ nó trước miệng Benji, đụng vào môi thằng bé.
Thằng nhóc hất đầu đi chỗ khác, phun phì phì, và gần như ngã khỏi ghế. Đồng thanh, như những thành viên đội cổ vũ đầy lo lắng, Fran và Anton hét lên, “Đừng có ngã khỏi ghế!”
“Con ghét súp lơ! Trông nó như cái cây lồi lõm đầy nhớt dãi kinh khủng!”
Khi chỉ có riêng hai vợ chồng, tôi và Kit gọi thằng bé là Benjamin Rigby. Kit khởi xướng nó, và sau vài lần phản kháng qua loa, tôi cũng hùa theo. Tên đầy đủ của thằng bé là Benji Duncan Geoffrey Rigby-Monk. “Em cứ đùa,” Kit nói, vào lần đầu tôi cho anh biết. “Benji? Thậm chí còn không phải Benjamin?” Duncan và Geoffrey là tên hai người ông - cả hai nghe đều kém thu hút và cổ lỗ sĩ, theo quan điểm của Kit, và không đáng để thế hệ mới phải chịu - còn Rigby-Monk là một sự kết hợp giữa họ của Fran và Anton. “Theo như anh được biết, thằng bé là Benjamin Rigby,” Kit nói, sau lần đầu tiên chúng tôi gặp nó. “Nó có vẻ là một đứa bé tử tế và xứng đáng có được một cái tên tử tế. Bố của nó không có một cái tên như vậy, nên anh đoán là mình không nên ngạc nhiên.” Kit nghĩ chỉ chấp nhận được việc “đi lòng vòng tự gọi mình là Anton”, nếu bạn là người Tây Ban Nha, Mê-xi-cô hay Cô-lôm-bi-a, hoặc nếu bạn là một người làm tóc hoặc dân trượt băng chuyên nghiệp.
Anh bảo tôi nên cảm thấy biết ơn gia đình mình và hạnh phúc vì được ở gần họ đến vậy, rồi anh chế nhạo họ một cách tàn nhẫn trước mặt tôi, tránh việc gặp gỡ họ bất cứ khi nào có thể, thay vào đó để tôi đến đây một mình. Tôi không bao giờ phàn nàn, tôi cảm thấy có lỗi vì làm khó anh. Tôi sẽ rất ghét phải kết hôn với một người có gia đình quá lấn át và nhan nhản khắp nơi như của tôi.
“Để kệ đứa trẻ tội nghiệp ấy đi, Fran,” mẹ tôi nói. “Không đáng phải cố gắng đến thế, chỉ vì một nhánh súp lơ vô dụng. Mẹ sẽ làm cho nó g...”
“Đừng!” Fran cắt lời bà, vẫy tay điên cuồng, trước khi những từ ngữ chết người “gà miếng và khoai tây” được nói ra. “Chúng ta ổn mà, phải không, Benji? Con sẽ ăn rau xanh ngon lành bổ dưỡng dễ thương của mình, phải không, con yêu? Con muốn lớn lên cao to khỏe mạnh, phải không?”
“Giống như bố,” Anton thêm vào, gập tay lại khoe cơ bắp. Cậu ta từng là huấn luyện viên ở Waterfront, nhưng đã bỏ nghề khi Benji ra đời. Giờ cậu ta nâng tạ, luyện cơ tay, hay cơ bắp, hay bất kỳ cái gì mà người ta dùng để gọi cái bộ phận trên cơ thể cần được luyện, trên những cái máy có hình dạng kỳ cục trong ga-ra của cậu ta và Fran, nơi đã được cải tạo thành phòng tập gym tại gia. “Bố ăn hết các loại rau xanh khi còn bé, và giờ thì nhìn xem!”
Và đến lúc này thì bố tôi thường sẽ nói lớn lên, “Cách duy nhất để trẻ con ăn ngoan là cho chúng một sự lựa chọn đơn giản: chúng phải biết ăn bất kỳ thứ gì người khác đang ăn, hoặc không ăn gì cả. Cách đó sẽ sớm dạy được chúng. Nó cũng từng có hiệu quả với hai đứa con. Các con sẽ ăn bất cứ thứ gì, cả hai đứa con. Con sẽ xơi luôn cả mẹ nếu bà ở trên đĩa!” Ông từng nói thế, hoặc tương tự như thế, ít nhất năm chục lần. Kể cả khi Fran không có ở đó, ông vẫn nói “hai đứa con” thay vì “con và Fran”, bởi ông đã quá quen với việc hai đứa chúng tôi ở cùng nhau trong căn phòng này, chính xác như hình ảnh hiện tại: ông ngồi ở chiếc bàn gỗ thông ọp ẹp đã xuất hiện trong căn bếp của Thorrold House từ trước khi tôi được sinh ra, với tờ Thời đại trước mặt mình; mẹ lăng xăng xung quanh chuẩn bị đồ ăn, thức uống và chờ đợi tất cả mọi người, chối từ mọi lời đề nghị giúp một tay để bà có thể thở dài, xoa xoa tay sau gáy sau khi bà cuối cùng cũng hoàn tất việc cho chén đĩa vào máy rửa; Anton nghiêng người - theo cái lối một người quá ngầu để đứng thẳng - lên cái tay vịn của chiếc lò nướng AGA, cái lò đã từng có màu đỏ nhưng bây giờ ngang dọc những vết màu bạc của bao nhiêu năm trầy xước; Fran loạn lên vì Benji, cố ép từng miếng búp cải Brucxen, từng lá cải bó xôi, từng hạt đậu vào miệng thằng bé, dụ dỗ bằng cả hũ kem mềm sô-cô-la, hàng núi bim bim và vô tận những bánh bơ đường tròn làm phần thưởng.
Và tôi ngồi trên chiếc ghế bập bênh cạnh cửa sổ, mơ tưởng đến việc được bọc kín đầu mình trong một tấm chăn dày cho bản thân chết ngạt, kìm giữ lại thôi thúc muốn được nói, “Liệu có phải sẽ tốt hơn cho nó khi được ăn cá, khoai tây và không phải ăn bí xanh thay vì cá, khoai tây, một ít bí xanh, hai chục điếu Benson and Hedges, một chai vodka và một ít ma túy? Chỉ thắc mắc thế thôi.”
Tôi xấu xa nhất khi ở cùng với gia đình mình. Một lý do rất hợp lý giải thích tại sao tôi không nên sống cách họ gần một trăm năm mươi mét dưới phố.
“Anh nghĩ em có nên cho tay dưới vòi nước lạnh không,” mẹ nói với bố, vuốt tay mình. “Không phải đấy là việc người ta vẫn khuyên làm khi bị bỏng à? Hay là em phải cho bơ lên đó? Em không làm mình bị bỏng bao nhiêu năm rồi.” Bà đã từ bỏ việc cố thu hút sự chú ý của Fran hay Anton, nhưng bà quả là ngốc nếu không nhận thấy rằng bố đang tức giận với tôi đến mức không thể nghe bất cứ điều gì bà nói. Mức độ tức tối của ông thể hiện rõ ràng qua tư thế: đầu cúi xuống, trán nhăn lại thành một đường hằn, tay nắm chặt lại thành nắm đấm. Ông đang mặc một chiếc áo sọc vàng và xanh da trời, nhưng tôi chắc rằng nếu Alice có ở đây, cô sẽ đồng ý với tôi rằng luồng năng lượng tỏa ra từ ông có màu xám xịt. Ông không hề nhúc nhích trong gần mười lăm phút. Ông bố vừa vỗ lưng, hay cười và chào đón tôi lúc tôi mới tới đây đã biến mất và được thay thế bởi một bức tượng, hay một tác phẩm điêu khắc, mà nếu tôi là nghệ sĩ, tôi sẽ đặt tên là “Người Căm Giận”.
“Con mất trí rồi à?” Ông khạc từng từ vào mặt tôi. “Con không đủ khả năng mua một ngôi nhà 1,2 triệu!”
“Con biết thế,” tôi bảo ông. Không chỉ là vì khía cạnh mạo hiểm tài chính của tôi làm phiền lòng ông. Ông tức giận vì những thay đổi đột ngột tôi mang đến cho cuộc đời ông mà không hỏi ý kiến trước. Chúng tôi từng là kiểu gia đình, giữa hai bố con, chưa bao giờ thấy một người phụ nữ bị sát hại rồi sau đó biến mất một cách không thể giải thích. Giờ đây, nhờ có tôi, việc đó không còn đúng nữa.
“Nếu con thừa biết mình không mua nổi một ngôi nhà 1,2 triệu bảng, sao còn tìm một cái như vậy?” Mẹ hỏi, như thể bà bắt gặp tôi với một thủ đoạn đặc biệt thông minh logic. Bà lắc đầu chầm chậm, đều đặn, như thể bà định làm như thế mãi, như thể tôi đã cho bà quá đủ lý do để khổ não muôn đời. Trong tâm trí bà, tự tôi đã phá sản và gây ra nỗi xấu hổ cho cả gia đình. Bà có khả năng bước vào chiều không gian mà hầu hết người trần mắt thịt không thể tiếp cận nổi: viễn-cảnh-tồi-tệ-nhất về mười-năm-trong-tương-lai. Đối với bà, nó cũng chân thực như chính hiện tại vậy; nó sống động đến mức, thực tế là, hiện thực hầu như không có cơ hội nào chiến thắng được nó.
“Mẹ không bao giờ tìm xem những thứ mẹ không đủ tiền mua ư?” tôi hỏi bà.
“Không, mẹ chắc chắn không làm vậy!” Cuộc đối thoại kết thúc. Như cái móc cài của một chiếc ví lỗi thời, ngoắc chặt lại. Tôi đáng ra nên biết trước. Mẹ tôi chỉ làm những việc lý trí nhất mà thôi. “Và con không nên, không được phép, trừ phi con bị cám dỗ và đang suy tính chuyện mua thế chấp toàn bộ ngôi nhà vì...”
“Mẹ, không đời nào họ chấp nhận bán thế chấp với giá trị lớn như thế,” Fran nhảy vào. “Mẹ lại đang lo lắng không đâu, như mọi khi. Anh chị sẽ không mua ngôi nhà đó vì họ không mua nổi đâu. Trong tình hình hiện giờ, Melrose Cottage có thể bán được căng nhất là ba trăm ngàn bảng, phần lớn số tiền đó sẽ quay về Hội Xây dựng Rawndesley và Silsford. Kể cả khi Con và Kit bỏ hết tiền tiết kiệm của mình vào, không có người cho vay thần trí tỉnh táo nào lại cho họ mượn một một triệu bảng đâu.”
Tôi muốn hét lên rằng em gái tôi biết nhiều về tình hình tài chính của Kit và tôi như chính chúng tôi vậy. Khi Fran nói “khoản tiết kiệm”, trong đầu em ấy đã có con số chính xác rồi - con số hoàn toàn đúng. Tôi cũng biết về chuyện tiền bạc của em và Anton y hệt như vậy: tài khoản tiết kiệm cá nhân, khoản thế chấp của hai đứa, con số chính xác thu nhập hàng tháng sau khi Anton đã nghỉ làm, chúng đã phải trả bao nhiêu học phí cho Benji (hầu như chả mất đồng nào), bố mẹ phải trả bao nhiều (gần như tất cả). “Mẹ không hiểu tại sao nhiều gia đình lại giấu kín chuyện tài chính như thế,” mẹ đã nói thế từ bao lâu nay rồi. “Tại sao lại coi những người thân thích nhất của mình như kẻ xa lạ?”
Khi tôi mười hai tuổi và Fran lên mười, mẹ cho chúng tôi xem cuốn sổ bỏ túi màu xanh dương ghi chép lại tài khoản tiết kiệm tại Halifax của bố mẹ, để chúng tôi có thể thấy họ đã để dành được bốn trăm bảy mươi ba ngàn bảng và hai mươi hai xu. Tôi vẫn còn nhớ mình đã nhìn chằm chằm vào vào con số viết tay bằng mực xanh và cảm thấy ấn tượng, có phần choáng ngợp bởi nó, nghĩ rằng bố mẹ mình hẳn là những thiên tài, rằng tôi không bao giờ có hy vọng trở nên khôn ngoan như họ. “Chúng ta sẽ luôn ổn thôi, bởi chúng ta có số tiền này để chống đỡ,” mẹ nói. Cả tôi và Fran đều tin theo lời tuyên truyền của mẹ, và dành hết những năm tháng mới lớn tích trữ tiền tiêu vặt của mình vào tài khoản tiết kiệm, trong khi bạn bè đốt sạch từng xu lẻ chúng có vào son môi và rượu táo.
“Nếu con nghĩ mẹ con và bố sẽ cho con vay tiền để có thể sống xa hoa quá khả năng của mình, con hãy quên đi,” bố nói. Trong mắt bố mẹ, việc sống quá ngưỡng mình có thể chi trả cũng tương đương, về mặt đạo đức, với việc quăng một đứa trẻ ra khỏi cửa sổ.
“Con không nghĩ vậy,” tôi bảo ông. Tôi sẽ không hỏi vay bố mẹ dù chỉ một trăm ngàn bảng, chứ đừng nói là một triệu. “Con không muốn mua ngôi nhà số 11 Bentley Grove kể cả nếu như con có thể mua được mười cái như vậy và dù cho không còn ngôi nhà nào khác trên thế giới này.” Tôi đại khái là dừng việc giải thích tại sao. Cái đó là đương nhiên.
“Mọi người nghĩ rằng sự hoang phí giả định của con là thứ chúng ta cần bàn tới hay sao? Thế còn người phụ nữ nằm chết trên vũng máu của chính mình thì sao? Sao ta không nói về chuyện đó? Sao mọi người đều lảng tránh nó? Con có nói rồi, đúng không? Con có thể thề là con đã nói về cái mình thấy trên Roundthehouses, và về người thám tử đã tới...”
“Con không hề thấy cái xác nào trên Roundthehouses hay bất kỳ chỗ nào khác,” bố ngắt lời tôi. “Bố chưa từng nghe một mớ lắm chuyện lăng nhăng nhảm nhí đến thế này trong đời. Con đã tự mình nói rồi đấy thôi: khi Kit đến xem, chẳng có ai cả. Phải không?”
“Đó chính là cái con đã nói đấy,” mẹ chêm vào một cách lo lắng, như thể bà sợ rằng tôi là loại ăn nói bừa bãi, dễ dàng thay đổi câu chuyện của mình.
Tôi gật.
“Vậy thì chẳng có ai cả - con tự tưởng tượng ra thôi,” bố nói. “Con nên gọi điện cho tay cớm đó và xin lỗi vì đã làm phí phạm thời gian của anh ta.”
“Mẹ chắc là nếu mình mà thức đến tận khuya lơ khuya lắc thì mẹ cũng sẽ bắt đầu bị ảo giác thôi,” mẹ góp giọng. “Mẹ nói với con suốt, nhưng con nào có nghe: con cần chăm sóc bản thân mình tốt hơn. Cả con và Kit đều làm việc quá nhiều, con thức quá muộn, con không phải lúc nào cũng ăn uống đầy đủ...”
“Nghỉ bớt đi mẹ ơi,” Fran nói. “Mẹ cũng đâu có đối xử tốt với chính bản thân mình đâu. Nào, Benji, mở miệng con ra, vì Chúa. Há to miệng ra!”
“Em có nghĩ chị tưởng tượng ra chuyện đó không, Fran?”
“Em không biết nữa,” Fran nói. “Không nhất thiết phải vậy. Có lẽ thế. Ba miếng sô-cô-la, Benji, nếu con há miệng và ăn cái miếng ngon lành... Đúng rồi! Há to ra hơn chút nào...”
“Chú nghĩ sao, Anton?” Tôi hỏi.
“Em không nghĩ chị lại nhìn thấy nó nếu nó không có đó,” cậu ta nói. Tôi đang nghĩ đến chuyện nhào ra khỏi ghế và quàng tay mình quanh cậu ta thì cậu ta thình lình phá hỏng mọi thứ bằng cách nói thêm vào, “Em thấy nó như một trò chơi khăm của kẻ nào đó. Em sẽ không để chuyện đó làm chị lo lắng đâu.” Khi câu trả lời được thốt ra, nó chỉ ít thô thiển hơn câu, “Em không thể bận tâm vì chuyện này được - quá mất công.”
“Con không nên xem các ngôi nhà ở Cambridge bằng bất cứ giá nào,” mẹ nói. “Trên đường Millionaire’s Row hay... Pauper’s Parade. Con đã quên chuyện xảy ra lần cuối cùng con xuống phố đó ư?”
“Mẹ, làm ơn, vì Chúa!” Fran nói.
“Ít nhất lần cuối đó còn có lý do - Kit được đề nghị thăng chức.”
Đề nghị mà anh ấy không thể chấp nhận, bởi con đã phá hỏng tất cả mọi thứ. Rất cảm ơn vì đã gợi lại.
“Tại sao lại đột nhiên là bây giờ?” Mẹ van nài, dùng tông giọng mà có lẽ là ưa thích nhất trong số tất cả các kiểu giọng của bà: giọng yếu đuối, xào xạo thỏ thẻ của một người đàn bà đau khổ. “Con và Kit đang có một công việc làm ăn phát đạt, một ngôi nhà đáng yêu, tất cả chúng ta ở gần bên con, em gái con, Benji đáng yêu - tại sao bây giờ con lại muốn chuyển tới Cambridge? Ý mẹ là, nếu đó là London, mẹ có thể hiểu được, vì Kit thường xuyên làm việc ở đó - dù có Chúa mới biết được tại sao mọi người lại muốn sống ở một cái hố địa ngục ồn ào nhếch nhác như thế - nhưng Cambridge...”
“Bởi đáng ra chúng con nên chuyển đi từ 2003, nhưng bọn con lại không làm, và con hối hận về chuyện đó cho đến giờ.” Tôi đứng thẳng lên, và tôi không rõ tại sao. Tôi định chạy xộc ra khỏi phòng? Ra khỏi nhà? Bố mẹ nhìn chằm chằm vào tôi như thể họ không hiểu tôi vừa nói gì. Bố quay đi, phát ra một âm thanh gầm gừ nghe rõ cả hơi thở mà trước đây tôi chưa từng nghe thấy. Nó làm tôi sợ.
Tại sao tôi lại cứ luôn phá hỏng mọi chuyện của người khác? Tôi làm sao vậy?
“Hoan hô! Benji ăn miếng súp lơ rồi!” Anton reo hò, một lần nữa, qua bàn tay giả làm loa, dường như không để tâm gì đến bầu không khí căng như dây đàn chăng từ đầu này sang đầu kia căn bếp. Có thể tôi đang phải hứng chịu một chứng bệnh khiến mình gặp ảo giác. Tôi có thể nhìn thấy rõ những sợi dây đó như thể chúng là thật, với những sợi chỉ của lời đe dọa không nói ra và mối thâm thù nóng bỏng được giăng mắc lên đó như đồ trang trí Giáng sinh.
“Benji là nhà vô địch!” Anton rống lên, trong khi Fran huơ huơ chiếc nĩa trống rỗng trong niềm vui khải hoàn.
“Benji năm tuổi rồi, không phải hai,” tôi gắt. “Sao hai người không cố gắng nói chuyện với nó bình thường, thay vì cái kiểu giống như đám người được gọi đến mua vui trong tiệc của trẻ con với giá rẻ vậy?”
“Tại vì” - Anton tiếp tục cái giọng ồm ồm giả vờ của mình - “chỉ khi bố nói như vậy và khiến con cười... thằng bé mới chịu ăn súp lơ của mình!”
Benji đang không hề cười. Thằng bé đang cố để không chết nghẹn vì món đồ ăn nó ghét.
Thứ niềm vui không màng đến xung quanh của Anton làm tôi muốn tuôn một tràng những câu chửi rủa vào mặt cậu ta. Lần duy nhất tôi thấy một cái nhíu mày như gió thoảng qua trên gương mặt của cậu là khi một khách hàng của Monk & Sons gọi cậu ta là anh chồng nội trợ. Fran nhanh chóng sửa lời bà ta một cách có phần gượng ép, thuộc lòng. Tôi đã phạm sai lầm khi kể lại câu chuyện cho Kit, người luôn phản xạ một cách có điều kiện khi nghe đến tên của Anton: “Anton - không phải một anh chồng nội trợ, mà là một huấn luyện viên đang trong khoảng thời gian nghỉ ngơi.”
“Rẻ tiền!” Mẹ chộp lấy cụm từ đó. “Tất nhiên rồi, con thì bây giờ cao cấp rồi, phải không, với cái nhà 1,2 triệu bảng của con.”
“Ngôi nhà 1,2 triệu bảng hoàn toàn không mua nổi,” Fran nhanh nhảu. Việc tôi và Kit giàu có hơn em và Anton làm em khó chịu, dù tôi không chắc em có chịu tự thừa nhận điều đó không. Mọi thứ càng tệ hơn khi Kit rời Deloitte và chúng tôi tự khởi nghiệp. Nếu Nulli mà thất bại, Fran sẽ cảm thông, bực tức thay cho chúng tôi, nhưng đồng thời cũng nhẹ nhõm. Tôi chắc chắn điều này, nhưng không thể chứng minh được. Có rất nhiều điều mà ngay lúc này tôi không thể chứng minh được.
Fran và Anton sống trong một ngôi nhà nhỏ tên là Thatchers, nhỏ hơn nhà tôi, và gần nhà bố mẹ hơn - gần như chính diện Thorrold House, ngang qua bãi cỏ. Giống như Melrose Cottage, Thatchers là một ngôi nhà có hai phòng mỗi tầng, nhưng căn bếp thì không hơn gì một khoảnh nhỏ tí hin ở cuối phòng khách, các phòng ngủ thì ở tầng lợp mái lá, vì thế có dạng hình tam giác, rất khó đứng thẳng trong đó. Và khi cuộc sống tiếp diễn, Anton và Fran phải chịu đựng rất nhiều bất tiện từ việc thiếu không gian - thật thuận tiện, hai đứa đã sống cùng bố mẹ kể từ khi Benji ra đời. Thatchers, ngôi nhà mà chúng khăng khăng gọi là “tổ ấm”, hầu như luôn luôn bỏ trống.
Tại sao chưa một ai từng thấy rằng thật điên khùng làm sao khi để mặc một ngôi nhà bỏ trống ở đó? Điên khùng hơn cả việc tìm xem nhà ở khu Cambridge trên mạng. Điên khùng hơn cả việc suy tính chuyển đến một trong những thành phố đẹp đẽ, sôi nổi nhất nước Anh thay vì dành cả quãng đời còn lại ở Little Holling, Silsford, với quán rượu duy nhất và dân số ít hơn một nghìn người.
“Mặc kệ Connie đi, Anton,” mẹ nói. “Nó rõ ràng đã vứt bỏ hết ý thức rồi.”
“Chị ấy có thể đền bù cho con.” Anton nháy mắt với tôi. “Trông cháu ngoài giờ, Con, nhé?”
Tôi cố mỉm cười, dù cái viễn cảnh phải trông cháu thêm bất cứ giây phút nào làm tôi cuộn trào nỗi tức giận. Tôi đã trông Benji mỗi tối thứ Ba rồi. Trong gia đình tôi, nếu chuyện gì đó diễn ra êm đẹp một lần, sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi ai đó gợi ý rằng nó nên trở thành một truyền thống.
“Một miếng sô-cô-la, hai miếng sô-cô-la, ba miếng sô-cô-la!” Fran giờ đang phóng đại cách cư xử với Benji, để phụ họa với Anton cùng cái giọng xuẩn ngốc của cậu ta. Em đang đứng về phía cậu ta, bố và mẹ cùng một phe, và không có bất kỳ ai đứng về phía tôi. Cũng hợp ý tôi lắm, bất kỳ điều gì khiến tôi cảm thấy mình bớt giống một trong số những thầy tu của Little Holling hẳn là một điều tốt.
“Ý thức của con chẳng có vấn đề gì cả,” tôi bảo mẹ. “Con biết mình đã thấy gì. Con thấy một người phụ nữ chết trong căn phòng đó, nằm trên bể máu của chính mình. Người thám tử con nói chuyện cùng sáng nay đang suy nghĩ nghiêm túc về chuyện đó. Nếu mẹ không muốn tin như vậy, thì tùy mẹ thôi.”
“Ồ, Connie, con nghe xem mình đang nói gì kìa!” Mẹ đau khổ nói.
“Đừng phí hơi nữa, Val,” bố lầm bầm. “Có bao giờ nó để tâm đến những gì chúng ta nói không?” Ông nhấc tay trái lên và xem xét chiếc bàn bên dưới như thể ông mong tìm được một thứ gì đó. “Chuyện gì xảy ra với chén nước trà em làm lúc nãy rồi?”
“Mẹ xin lỗi, nhưng chuyện chẳng có nghĩa gì cả, con yêu à,” mẹ nói với tôi bằng giọng khàn khàn khi bà đổ đầy lại ấm nước, phóng những tia nhìn tội lỗi về phía bố, hy vọng ông không để ý thấy bà vẫn mong muốn được tiếp tục dạy dỗ đứa con gái ông vừa mới gạt bỏ. “Ý mẹ là, con chỉ cần nghĩ về việc này trong hai giây thôi là nhận ra nó chẳng khả thi gì, phải không? Tại sao lại có người cho xác một phụ nữ lên một trang web bất động sản chứ? Một kẻ giết người sẽ không làm thế, phải không, vì hắn ta muốn che giấu điều mình đã làm. Một tay môi giới bất động sản sẽ không làm thế vì anh ta muốn bán ngôi nhà, và sẽ không có ai lại đi mua một... “
“Ngoại trừ đứa con gái lớn của bà,” bố lớn tiếng. “Không chỉ là con gái tôi - còn là kế toán sổ sách của tôi nữa, cái đó còn đáng ngại hơn. Ồ, nó còn vô cùng hạnh phúc được thế chấp cho đến khánh kiệt để mua ngôi nhà tử thần khủng khiếp với giá 1,2 triệu bảng!” Tôi không biết tại sao ông lại nhìn trừng trừng vào Benji khi nói câu ấy, như thể đó là lỗi của thằng bé.
“Bố, con không muốn mua số 11 Bentley Grove. Con không đủ tiền mua nó. Bố không thèm nghe con nói.” Như mọi khi. Câu bình luận về kế toán sổ sách của ông là có ý gì? Rằng ông sợ tôi có thể sẽ trộm tiền từ Monk & Sons? Rằng cái xu hướng thích hoang phí của tôi sẽ làm việc kinh doanh gia đình phá sản? Tôi chưa từng làm gì ngoài chuyện hoàn thành công việc thật xuất sắc cho ông, và điều đó chẳng đáng gì. Tôi đáng ra không nên bận tâm.
Và giờ tôi đang suy nghĩ như một kẻ tử vì đạo. Chẳng phải người ta nói tất cả phụ nữ đều trở thành chính mẹ mình sao?
Hãy nói với họ mày sẽ rời khỏi Monk & Sons. Từ chức. Làm việc toàn thời gian cho Nulli - đó là điều mày muốn làm, phải không? Những người này có gì để khiến mày không thể nói thành lời điều mày nghĩ và làm điều mày muốn?
“Bố đang nói năng mâu thuẫn đấy,” tôi bảo bố. “Nếu con tự tưởng tượng ra cái xác, thế thì nó không phải là ngôi nhà tử thần khủng khiếp gì, đúng không?”
“Vậy là con thực sự muốn mua nó. Bố biết mà!” Ông nện nắm đấm xuống bàn, làm nó rung lên.
“Người bán nhà không làm thế đâu,” mẹ lẩm bẩm, bọc tay mình bằng giấy vệ sinh cho nhà bếp trong khi đợi ấm nước sôi. “Giả sử anh ta hay cô ta cũng tha thiết muốn bán ngôi nhà như bên môi giới.”
“Xin mẹ đừng lên danh sách tất cả những người sẽ không đặt một cái xác lên trang web nữa, mẹ à,” Fran rên rỉ. “Mẹ đã đưa ra quan điểm rồi đấy: không ai làm thế cả.”
“Ừ thì, nếu không ai làm thế cả, Connie không thể nào nhìn thấy thế được, đúng không?” Mẹ hoan hỉ gật đầu về phía tôi, như thể đó nên là cái kết cho vấn đề.
Tại sao gia đình tôi luôn khiến tôi cảm thấy như thế này? Cứ hễ khi nào tôi nói chuyện với họ, bất kể mất bao lâu, cuối cùng lại là tôi khổ sở trong sự ức chế, tuyệt vọng tìm kiếm một túi không khí trong khi ô-xi dần dần bị rút khỏi cuộc trò chuyện.
Tôi không thể chịu đựng việc ở gần họ thêm nữa. Nhưng tôi cũng không thể chịu được ý nghĩ quay về nhà với Kit, người sẽ hỏi tôi tình hình ra sao, và cười như thể đang xem một bộ phim truyền hình hài mà tôi đem vào đời thật cho anh, đúng như những gì anh sẽ mong đợi ở tôi, như thể tôi là diễn viên còn gia đình tôi là một mớ hổ lốn những trò đùa đậm tính giải trí và vô hại. Chỉ có duy nhất một người tôi muốn nói chuyện cùng bây giờ, và dù hôm nay là thứ Bảy, nó vẫn là tình huống khẩn cấp.
Có đúng thế không? Có chắc không?
Lần cuối cùng tôi cảm thấy chắc chắn về điều gì đó là khi nào?
Tôi lấy điện thoại ra khỏi túi xách và rời khỏi phòng. Mẹ nói to sau lưng tôi, “Con không cần phải sang phòng khác. Không ai nghe đâu.”
***
“Và điều nực cười là, tôi gần như không làm thế. Tôi thấy mình suy nghĩ ‘Nhưng đây không phải là tình huống khẩn cấp thực sự - không phải mày đang chảy máu sắp chết, hay treo mình ở vách đá chỉ trên đầu ngón tay. Tiết kiệm quyền được gọi khẩn cấp cho tình huống sinh tử, đừng phí hoài nó vào chuyện này.’ Nhưng tại sao không? Ý tôi là, đây là tình huống sinh tử rồi: người phụ nữ tôi thấy đã bị sát hại - hẳn là thế. Và tại sao tôi tự quyết định rằng đó là quyền chỉ dùng một lần duy nhất? Rằng sau khi tôi xài hết, quyền gọi-điện-trong-trường-hợp-khẩn-cấp sẽ biến mất mãi mãi? Liệu cô có tức giận nếu tôi gọi cô ngoài giờ làm việc trong một vài tháng tới, thậm chí vài năm tới, nếu tôi đủ xui xẻo để đụng phải cảm giác tồi tệ như bây giờ một lần nữa?”
“Chị có để ý từ ngữ mình đang dùng không?” Alice hỏi. “‘Tiết kiệm’, ‘phí hoài’?”
Không, tôi không để ý. Thừa nhận cả điều đó chỉ thêm phần phiền muộn, nên tôi không nói gì cả. Khi mới bắt đầu gặp Alice, những sự im lặng kéo dài làm tôi bối rối. Giờ thì tôi quen rồi. Tôi bắt đầu thích chúng. Đôi khi tôi đếm xem chúng kéo dài bao lâu: một con voi, hai con voi, ba con voi. Đôi khi tôi rơi vào trạng thái ngơ ngẩn, nhìn chằm chằm vào các hạt thủy tinh trong suốt chạy dọc tấm mành lụa màu kem, hay nhìn vào chiếc đèn chùm treo những con bươm bướm màu hồng.
“Sao chị lại kể với gia đình mình chuyện nhìn thấy người phụ nữ trên vũng máu?” cuối cùng Alice cũng cất lời.
“Kit cũng hỏi tôi như vậy. ‘Sao lại kể cho họ?’ Anh nói. ‘Họ sẽ làm em khổ sở và khiến em cảm thấy tồi tệ hơn cả trăm lần.’ Tôi biết anh ấy nói đúng, nhưng tôi vẫn quay lại và đẩy chính mình vào vòng lửa đạn.”
“Chị vẫn thường miêu tả bố mẹ mình là những người rất ngột ngạt.” Alice nhớ từng từ tôi đã thốt ra trước mặt cô ấy, kể từ lần đầu chúng tôi gặp nhau, mà không cần ghi chép lại. Có thể những cánh bướm màu hồng kia có giấu một loại thiết bị thu âm nào đó. “Tại sao chị lại tiếp tục tới để bị bóp nghẹt, khi mà chị cần một giấc ngủ sau cú sốc tồi tệ nhất đời mình?”
“Tôi phải nói cho họ. Một thám tử tới để phỏng vấn tôi. Chuyện đó thật... quá to tát để mà giấu họ, quá quan trọng. Tôi không thể nào dính dáng tới cảnh sát mà lại che giấu gia đình mình việc ấy.”
“Không thể ư?”
Không có bí mật nào giữa những người yêu thương nhau hết. Tôi đã nghe điều đó đập vào tai mình suốt cả đời rồi. Tôi không chắc có thể giải thích kiểu lập trình như vậy cho một người chưa từng trải qua nó.
“Vậy nhưng hiện giờ chị vẫn còn im lặng về điều to tát, quan trọng khác trong đời mình,” Alice nói. “Vấn đề đã ám ảnh chị kể từ tháng Một.”
Tôi bật cười, dù cảm thấy muốn khóc. “Hai vấn đề không giống nhau. Điều đó hóa ra có thể chẳng là gì hết. Có lẽ nó đúng là như vậy.”
“Cái xác người phụ nữ chị đã thấy cũng có thể chẳng là gì hết, do chị tưởng tượng ra.”
“Tôi không tưởng tượng ra cô ta. Tôi biết mình không thế.”
Alice tháo kính ra, thả nó xuống lòng. “Chị cũng không tưởng tượng ra chuyện đã xảy ra vào tháng Một,” cô ấy nói. “Chị không biết nó có ý nghĩa gì, nhưng chị không tưởng tượng ra nó.”
“Tôi không thể bảo bố mẹ rằng mình sợ là Kit có thể có một cuộc đời hoàn toàn khác mà tôi không biết tới,” tôi nói, cảm thấy kinh tởm từng từ vang lên. “Đó không phải chỉ là một lựa chọn. Cô không hiểu đâu. Đáng ra tôi đã đổi họ của mình, nhưng tôi vẫn mang họ Monk. Tất cả mọi thứ về gia đình nhà Monk đều tốt đẹp và bình thường. Đó không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nó có quy luật. Chẳng có vấn đề gì hết, chưa từng, ngoại trừ việc Benji không chịu ăn miếng súp lơ quỷ tha ma bắt - đó là điều tồi tệ nhất được phép xảy ra. Hoàn toàn không bàn cãi gì hết, bất kỳ việc gì kỳ lạ xảy ra hoàn toàn bị cấm tiệt - chuyện kỳ lạ thật sự tồi tệ, ý tôi là thế. Kỳ lạ một cách hài hước thì ổn, miễn là nó tạo nên một giai thoại hay.”
Tôi vuốt mặt mình, cố gắng trấn tĩnh. “Điều duy nhất tồi tệ hơn sự kỳ lạ tồi tệ là sự mập mờ. Bố mẹ tôi không chấp nhận bất kỳ hình thức nào của sự không rõ ràng - theo đúng nghĩa đen, ngay khi nó dám xuất hiện, họ tống cổ nó một cách cực kỳ rõ ràng. Và, đúng, tôi cố tình nói thế đấy. Tất cả mọi điều bố mẹ tôi làm, họ đều làm một cách cực kỳ rõ ràng. Sự mơ hồ là kẻ thù. Một trong số những kẻ thù,” tôi tự sửa lời mình. “Thay đổi là một kẻ thù khác. Và sự tự phát, rồi rủi ro. Có cả một đám những thứ đó.”
“Thảo nào mà bố mẹ chị lo sợ,” Alice nói. “Chị đã tự nói ra đấy: họ bị khủng bố bởi cả một đám.”
Có phải cô ấy định đưa cho tôi cùng loại thuốc cô ấy đưa lần trước? Kali Phos là tên nó. Dành cho những người có ác cảm với chính người thân của mình. Kit đe dọa sẽ trộm cái chai đó cho chính mình khi tôi bảo anh ấy thế.
“Kit cảm thấy khổ sở,” tôi bảo Alice. “Tôi khiến anh ấy khổ sở. Anh ấy không thể hiểu được tại sao tôi không tin anh ấy. Tôi cũng không thể hiểu. Tại sao tôi không thể chấp nhận được rằng những chuyện lạ lùng thỉnh thoảng vẫn xảy ra, và bỏ lại nó đằng sau? Tôi biết Kit yêu tôi, tôi biết anh ấy đang tuyệt vọng mong muốn mọi chuyện quay trở lại bình thường. Tôi là tất cả những gì anh ấy có, và... tôi yêu anh ấy. Nghe sẽ có vẻ điên rồ, nhưng tôi yêu anh ấy nhiều hơn lúc nào hết - tôi cảm thấy oán hận thay cho anh ấy.”
“Bởi vì có thể là anh ấy vô tội, và chính người vợ lại không tin tưởng anh ấy?” Alice phỏng đoán.
Tôi gật. “Làm sao tôi có thể nói với bố, mẹ và Fran, khiến mọi người cũng nghi ngờ anh ấy được, khi mà chẳng có cách nào để kết thúc mối ngờ vực, không bao giờ? Tôi còn chưa khiến anh ấy đủ khốn khổ hay sao?”
“Vậy là vì Kit mà chị không để lộ chuyện này ra với gia đình?”
“Vì anh ấy và vì họ. Bố mẹ tôi không thể sống với chuyện đó - tôi biết họ không thể. Họ sẽ cố gắng ngăn không cho tôi sống cùng nó. Họ sẽ thuê một thám tử tư... Không, nếu họ làm thế, có nghĩa là họ thừa nhận rằng mình đang can dự vào việc gì đó ghê tởm. Tôi biết họ sẽ làm gì.” Cảm giác như đang tiết lộ một bí mật, dù ở một mức độ nào đó, tôi biết mình đang dựng chuyện. “Họ sẽ gây áp lực, buộc tôi phải rời bỏ anh và chuyển về lại Thorrold House. Chỉ để đề phòng. Họ sẽ nói, ‘Nếu con không chắc chắn một trăm phần trăm rằng cậu ta đáng tin cậy, con không thể ở với cậu ta được.’“
“Không phải điều đó thật ngu ngốc sao?”
“Đúng. Tôi thà để cả quãng đời còn lại của mình bị hủy hoại vì sự nghi ngờ vô ích còn hơn phải từ bỏ người đàn ông tôi yêu, người rất có thể chẳng làm gì sai cả.”
Alice đeo kính lại và nhướn người về phía trước. Chiếc ghế xoay bọc da của cô ấy kêu kin kít. “Giải thích cho tôi một chuyện,” cô nói. “Chị bảo không có cách nào để kết thúc mối nghi ngờ, không bao giờ, nhưng ngay câu tiếp theo chị nhắc đến khả năng thuê một thám tử tư. Chị có thể không muốn làm thế, và tôi hiểu vì sao chị không muốn, nhưng không phải đó là một cách chắc chắn để tìm ra xem Kit có nói dối hay không sao?”
“Cô đang nói là tôi nên thuê một thám tử?” Nếu cô ấy nói phải, tôi sẽ không bao giờ quay lại đây. “Không phải sẽ nguy hiểm khi một người hoang tưởng nhiều như tôi tưởng tượng rằng mình có thể trả tiền mua sự chắc chắn bất cứ khi nào mình cần? Không phải cố gắng nuôi dưỡng niềm tin thì sẽ tốt hơn à? Nếu như người thám tử bám theo Kit trong một tháng và chẳng tìm ra gì cả? Liệu cuối cùng tôi cũng chấp nhận rằng không có chuyện gì xảy ra cả, hay tôi sẽ lo lắng rằng tay thám tử đã cẩu thả bỏ lỡ gì đó?”
Alice mỉm cười. “Vậy mà mới sáng nay thôi, chị kể cho một thám tử về việc chứng kiến xác một người phụ nữ trên mạng. Anh ta có thể cẩu thả chứ - anh ta có thể bỏ lỡ mất điều gì đó.”
“Vậy thì tôi sẽ tới Cambridge và tìm một tay thám tử tận tâm và bắt hắn nghe tôi,” tôi đáp trả quyết liệt.
“Bởi chị muốn tìm ra sự thật.”
“Đó không phải là vì tôi, mà là vì người phụ nữ tôi đã thấy, bất kể cô ta là ai. Ai đó đã sát hại cô ta. Tôi không thể chỉ... “
“Chị muốn tìm ra sự thật,” Alice nhắc lại một lần nữa.
“Thôi được rồi, đúng thế! Tôi thấy một cái xác trên sàn ngôi nhà đó. Cô có muốn biết sự thật không, nếu ở vị trí của tôi?”
“Connie, cho phép tôi thẳng thắn nhé? Khi nói đến người phụ nữ đã chết kia, nhiệt huyết muốn tìm ra sự thật của chị thực sự mạnh mẽ. Tôi có thể cảm thấy nó - nó hiện hữu trong căn phòng này. Thường thì, điều đó sẽ giúp lôi kéo sự thật đến với chị. Khi ta tập trung tất cả năng lượng của bản thân vào điều gì đó, tin rằng một ngày nào đó mình sẽ đạt được nó và theo đuổi nó với sự quyết tâm lớn lao, kiên định rằng mình sẽ không bao giờ bỏ cuộc, thì thông thường điều ta tìm kiếm sẽ đến với ta - chỉ là vấn đề mất bao nhiêu thời gian thôi. Trong trường hợp của chị, có một sự rắc rối: trong một phần khác của cuộc đời mình, chị sợ phải tìm ra sự thật, và chị đang truyền đi nguồn năng lượng kháng cự sự thật cũng lớn tương đương.” Cô khoanh tay, chờ đợi phản ứng của tôi.
“Kit, ý cô là thế? Thật không công bằng. Cô biết tôi cố gắng đến thế nào mà.”
“Chưa đâu,” Alice nói nhẹ nhàng. “Nếu chị nghĩ thế, chị chỉ đang tự dối mình mà thôi.”
Tôi chắc là mình khá thuyết phục trong trường hợp cá biệt này. “Sao cơ, vậy ý cô là những năng lượng trái ngược đang hòa lẫn vào nhau và phát ra những tín hiệu lộn xộn? Rằng nỗi sợ tìm ra sự thật về Kit đang kháng cự lại toàn bộ sự thật?”
Alice không nói gì.
“Vậy, bất kỳ ai chịu trách nhiệm cho tất cả những thứ năng lượng và hấp dẫn này, trên kia nơi buồng lái của vũ trụ - Chúa trời, hay Định mệnh, hay bất cứ cái gì mà cô muốn gọi tên Người - Người bị cận thị, phải không?” Tôi bực tức nói. “Người không đọc được rõ danh sách mua hàng. Mặt hàng số một: sự thật về cái xác người phụ nữ; mặt hàng số hai: không sự thật nào về người chồng có thể là phản bội. Chúng mờ lẫn vào nhau, phải không, nên Người mới không biết chính xác là phải phân phối thứ nào? Người không thể tập trung cao độ và kiếm một cặp kính đọc sách cho tử tế sao? Với tư cách là người điều khiển toàn năng của vũ trụ, chuyện đó đâu có vượt quá khả năng của Người.”
“Chẳng có chuyện gì lẫn lộn vào nhau cả,” Alice nói. “Hai mặt hàng đó chưa bao giờ tách rời. Chúng được kết nối với nhau bằng một địa chỉ: số 11 Bentley Grove, Cambridge.”
Tôi cảm thấy như thể mình sắp nôn mửa.
Kit không giết cô ta. Anh ấy không thể. Anh không phải là một kẻ sát nhân. Tôi không yêu một tên sát nhân.
“Chị muốn chỉ một phần của sự thật hay muốn tất cả?” Alice hỏi. “Nếu như đây là tình thế được ăn cả, ngã về không thì sao? Chị sẽ chọn gì?”
“Tất cả,” tôi thầm thì. Dạ dày tôi quặn lại.
“Tốt. Điện thoại của chị đang reo kìa.”
Tôi không nghe thấy.
“Không gì bằng một kết quả tức thì để thuyết phục một người hay hoài nghi khó tính,” Alice nói.
“Cô có phiền không nếu tôi...? A lô?”
“Có phải chị là Connie Bowskill không?”
“Tôi đây.”
“Sam Kombothekra.”
“Ồ.” Tim tôi thót lên. Kombothekra, Kombothekra. Tôi cố gắng nhớ cái tên.
“Chị có thể tới đồn cảnh sát Spilling lúc chín rưỡi, sáng thứ Hai không?”
“Tôi... Có chuyện gì xảy ra à? Anh đã nói chuyện với cảnh sát Cambridge chưa?”
“Tôi muốn nói chuyện trực tiếp với chị,” anh ta nói. “Sáng thứ Hai, chín rưỡi nhé?”
“Được rồi. Không lẽ anh thậm chí không thể...?”
“Hẹn gặp chị lúc đó.”
Anh ta ngắt máy rồi.
Alice nâng kính của mình trong một cử chỉ như thể nâng ly. “Làm tốt lắm,” cô nói, tươi cười với tôi. Tôi không biết cô đang chúc mừng tôi vì cái gì.
TANG VẬT CẢNH SÁT SỐ: CB13345/432/21IG
D,
Đừng quên tạt qua siêu thị và mua: Bánh mì ổ dẹp, sốt cà chua passata, túi rau trộn, thịt cừu xay, pho mát Feta, quế, a-ti-sô nướng (loại ngập dầu để trong lọ, từ khu thực phẩm - KHÔNG phải loại hộp thiếc a-ti-sô từ khu rau quả đóng hộp), hộp bút chì mới cho Riordan, một cái gì đó cho Tilly để con không cảm thấy bị bỏ rơi - tạp chí Barbie hay gì đó tương tự.
Cảm ơn anh!
E xx